“Giấy bút lầm than”
Nguyễn
Văn Lục
Khi
viết bài này, tôi nghĩ tới một người bạn chưa có dịp gặp mặt.... Cảm giác gây ấn
tượng nhất là anh viết với đầy sức lửa và nghĩa khí.
Xin
chào mừng nhà báo Huỳnh Việt Lang.
Nếu
có một Uyên Thao trước đây thì nay có một Huỳnh Việt Lang tiếp nối trong một bối
cảnh khác - một bối cảnh đầy những gian lao và thử thách.
Và
thời nào, dù là thời mạt vận cũng có những con người đáp lại tiếng gọi của
lương tri.
Một
lần nữa, tôi cảm thấy vui mừng khi người bạn trẻ ra khỏi nhà tù để tiếp tục lên
đường ... Và hy vọng chẳng bao lâu nữa sẽ được đọc những bài viết của anh. Tôi
thật sự xúc động khi đọc bài viết mới đây của anh, “Những Con Người Dấn thân lặng
lẽ” trên DCVOnline.net . Nó phản ảnh trung thực những ngày lao lý trong tù của
anh.
Mừng
cho anh và mừng cho đất nước còn có những con người như thế!
Tản
mạn 18 giờ với nhà báo Uyên Thao, tác giả “Giấy bút lầm than”
18
giờ mạn đàm với anh Uyên Thao được cắt quãng bằng những khoảng không gian ở San
Diego, ở quận Cam và cả ở Hoa Thịnh Đốn. Và có thể tại một quán phở, tại nhà những
người bạn như nhà anh Phạm Bá Cát, hoặc ngay cả trên xa lộ, hoặc ở chính ngôi
nhà hiện anh đang ở tại Hoa Thạnh Đốn. Có khi chỉ có hai người, có khi có bạn
bè khác để nói đủ thứ chuyện.
Chuyện
lớn, chuyện nhỏ, chuyện con người, chuyện báo chí, chuyện chính trị, chuyện chế
độ, chuyện tôn giáo, chuyện tranh đấu và dĩ nhiên có cả những chuyện vui, chuyện
buồn, chuyện liên quan đến một cá nhân, v.v... Mỗi câu chuyện mà anh Uyên Thao
kể lại, nó mang một ý nghĩa, một góc nhìn và chúng ta có thể rút ra được một điều
gì là tùy theo mỗi người.
Cuộc
đời của anh cũng như một cuốn film nhiều tập với nhiều tình tiết và giai thoại
kỳ ngộ.
“Có
gì đâu”
Uyên
Thao là một con người đặc biệt, khác mọi người trong cách ứng xử, cách sống, nhất
là thái độ chọn lựa hành động. Có thể nói anh là loại người thay vì lụy một người
mà trên vạn người thì anh chọn vế thứ hai, đứng về phía vạn người để nói tiếng
Không với một người.
Nhiều
người bảo anh gàn có thể vì thế.
Nhiều
quyết định trong mỗi giai đoạn đời sống của anh làm tôi ngỡ ngàng. Nhưng đối với
riêng anh, anh chỉ coi đó là những chọn lựa bình thường. Anh thường đi đến kết
luận là “có gì đâu”.
Có
gì đâu là cách trả lời của anh Uyên Thao mỗi khi bị cật vấn về mỗi một quyết định
của anh.
Nhưng
với người đối diện đang đàm đạo với anh thì sự chọn lựa ấy quan trọng vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của anh.
Cách
chọn lựa ấy xem ra cho thấy hình như anh có vẻ coi nhẹ mọi chuyện ở đời này. Nó
là một thứ triết lý của riêng anh, thứ triết lý vừa như người ở trong cuộc, vừa
như thể đứng ra bên lề, không thiết thân. Nó giản lược vào câu nói: “có gì
đâu”!
Và
có thể nói chính sự chọn lựa của anh trong một số tình huống làm nên cá tính,
nét đẹp con người của Uyên Thao. Uyên Thao là như thế! Sống đẹp với những chọn
lựa của mình.
Kinh
nghiệm ít người có được anh vừa ở trong nhà tù Quốc Gia về một câu chuyện “vớ vẩn”
và khổ nhục nhưng vẫn can trường trong nhà tù cộng sản.
Một
người từng ở hai chế độ nhà tù sẽ hiểu bản chất của cả hai chế độ ấy và định lằn
ranh giới đâu là địa ngục, đâu là trần gian.
Anh
đi tù chỉ vì ngòi bút của anh - điều mà anh gọi là giấy bút lầm than.
Đối
với chế độ miền Nam trước 1975, thái độ cầm bút của các nhà văn, nhà báo là một
thái độ dấn thân, nhập cuộc.
Sau
1975, người cầm bút chỉ cần là người viết như một người tử tế đã đủ là một vinh
dự cá nhân rồi.
Mặc
dầu biết tiếng anh khá lâu. Nhưng phải đợi một cơ duyên là có một tập tài liệu
về báo Sóng Thần được anh đồng ý cho nhà Nam Sơn trước đây in lại. Tập tài liệu
này nói về Phong trào Nhân dân chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh, rồi Ngày
ký giả đi ăn mày và ngày Báo chí thọ nạn, đặc biệt là vụ Sóng Thần ra tòa. Tập
tài liệu quý báu với đầy đủ một số hình ảnh, tên tuổi do chính anh và những người
trong nhóm tờ báo Sóng Thần ghi lại như sau: Uyên Thao - Lê Văn Thiệp soạn thảo
với sự cộng tác của Giáo sư Đặng Thị Tám, nhà văn Trùng Dương, ký giả Trần
Phong Vũ soạn thảo trước 1975.
Khi
Nam Sơn in lại xong, tôi gửi đến anh như một món quà quý giá. Chắc là anh phải
thích lắm vì tìm lại được đứa con tinh thần của mình.
Nhưng
vẫn chưa có cơ hội được gặp anh.
Từ
đó, mối liên lạc cứ thế mà thêm chặt chẽ. Lần đầu tiên được gặp anh cách đây 6
năm trong buổi họp mặt của nhóm anh em Đàn Chim Việt tổ chức.
Anh
là khách mời đặc biệt của DCVOnline. net từ Washington sang cùng với Bùi Tín,
Vũ Thư Hiên từ Pháp và một số anh em trẻ từ Mỹ, từ Đông Âu sang.
Anh
xuất hiện trong các buổi họp mặt khá mờ nhạt, ít nói, ít phát biểu bên cạnh những
khuôn mặt trổi bật như các anh Bùi Tín, Vũ Thư Hiên.
Quả
thực, anh không phải là mẫu người của đám đông, của những xuất hiện công khai.
Bản
tính vốn dản dị, ăn mặc đến xuyềnh xoàng không tươm tất. Dáng người lại gầy gò,
ốm yếu, xanh xao. Anh đến các buổi họp mặt của Đàn Chim Việt để nghe, để quan
sát nhiều hơn để nói.
Cho
đến khi anh về lại thủ đô Hoa Thạnh Đốn, tôi cũng ít có dịp để nói chuyện riêng
với anh.
Có
lẽ cái xa hoa duy nhất của Uyên Thao là ngồi với bạn bè đấu láo, phì phèo hút
thuốc lá ba số 555. Vì thế khi sang Mỹ ở nhà anh Phạm Bá Cát thì thấy trên bàn
khách anh Cát đã biết ý mua vài ba thuốc lá ba số 555 để dành cho anh.
Đãi
khách hôm ấy, chủ nhà cho uống trà tầu và ăn vài cái bánh rán. Vậy mà nhớ lại
không khí tọa đàm hôm ấy nổ ran từ việc này sang việc khác.
Hôm
ấy chủ yếu là gặp lại bạn bè, nhưng chính là đì tìm lại chính mỗi người qua những
câu chuyện quá khứ đã một thời làm nên họ.
Hành
Trình thời tuổi trẻ của Uyên Thao
Theo
như lời Uyên Thao kể lại thì anh học tại các trường Thăng Long Hà Nội nơi có một
số lãnh đạo cộng sản giảng dạy như Võ Nguyên Giáp. Anh cũng theo học ở trường
Văn Lang mà hiệu trưởng là giáo sư Ngô Duy Cầu. Một giáo sư toán dạy nổi tiếng ở
miền Nam thập niên 1955-60. Các trường tư ở Hà Nội lúc bấy giờ vẫn còn giảng dạy
theo chương trình Pháp.
Những
nhắc nhở này gợi nhớ lại thời niên thiếu của mỗi người. Chẳng hạn như đạp xe đạp
trên cong đường Cổ Ngư - một thứ con đường tình như con đường Duy Tân sài Gòn
thuở nào.
Hà
Nội còn có những toa xe điện tiêu biểu cho một thành phố thuộc địa cách đây hơn
một thế kỷ.
Những
kỷ niệm chung như thế giúp người ta gần nhau hơn.
Năm
1953, anh đỗ tú tài một xong thì quyết định thôi học. Tại sao lại bỏ học ngang
xương như thế?
Bình
thường, một học sinh đỗ tú tài hoặc sẽ chọn con đường tiếp tục học tú tài hai để
rồi học tiếp lên đại học. Nếu không thì cũng sẽ đi sĩ quan theo con đường binh
nghiệp như một số thanh niên thời bấy giờ.
Uyên
Thao đã không chọn lựa hai con đường đó như mọi thanh niên khác đã làm.
Anh
chọn lựa một con đường cho riêng anh, theo cách lý giải của riêng anh.
Anh
đã bỏ học một cách thản nhiên, không nuối tiếc. Anh cũng không theo con đường
binh nghiệp như nhiều người đã làm mà sau này trở họ thành những nhân vật có
tên tuổi. Anh nhắc lại vài người cùng thời với anh như tướng Ngô Quang Trưởng.
Hiểu ngầm là nếu anh cũng đi học khóa sĩ quan thì biết đâu giờ này cũng “nên
ông nên bà”.
Nhưng
anh cũng nhắc đến một trường hợp khác chẳng may mắn gì. Đó là trường hợp Trung
úy Kiều Duy Vĩnh chỉ hơn Uyên Thao hai tuổi khi chọn lựa ở lại miền Bắc.
Sau
1954, thay vì di cư vào Nam như nhiều sĩ quan quân đội quốc gia khác. Kiều Duy
Vĩnh vì lý do nào đó không biết đã ở lại Hà Nội và đã bị bắt tù lên trại Cổng Trời.
Chính
ở nơi đây, bị đầy lên Cổng Trời - nơi sinh ra để chết, theo một lối nói của Tạ
Duy Anh. Kiều Duy Vĩnh còn sống sót trở về viết lại. Theo anh Uyên Thao, Kiều
Duy Vĩnh cả đời chỉ cần viết hai bài đủ nổi tiếng một thời về trại Cổng Trời.
Bài thứ nhất mang tên “Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời” đăng tải trên tờ Thế Kỷ
21, số 98, tháng sáu 1997 và bài thứ hai: “Đức thánh Tử vì đạo thứ hai mà tôi
được gặp”, số 10 Thế kỷ 21, tháng 8, 1997 lúc Phạm Phú Minh làm Chủ bút.
Theo
lời tòa soạn, bản viết chỉ để tên tắt K. Vĩnh và viết bằng bút mực lem nhem,
không dễ đọc.
Mặc
dầu vậy, đây là hai bài viết “động trời”, đọc xong đến lạnh gáy về cái độ tàn bạo
của chế độ cộng sản.
Trại
Cổng Trời qua ngòi bút của Kiều Duy Vĩnh trở thành một bản án về sự tàn bạo
tiêu biểu nhất của chế độ XHCN, nơi giam cầm những người tù như Nguyễn Hữu
Đang, Nguyễn Chí Thiện, tu sĩ Lâm Đình Túy (người mà Kiều Duy Vĩnh gọi là Đức
Thánh tử đạo).
Xin
được trích dẫn một vài đoạn biết đâu may ra có thể “làm gương” cho những lãnh đạo
tôn giáo nào còn vẫn tin tưởng ngây thơ vào cộng sản.(1)
Đồng
ý với anh Uyên Thao, tôi đọc Kiều Duy Vĩnh và xúc động khôn cùng về những gì xảy
ra trên trại tù Cổng Trời ngày xưa, gợi nhớ đến người Anh Cả của tôi cũng từng
bị giam trên Cổng Trời. Tôi xót xa và hình dung ra những gì anh tôi từng phải
chịu đựng đói khát và rét và gông cùm. Và những gì đang xảy ra cho TGM Ngô
Quang Kiệt với cùng thứ ngôn ngữ mạ lỵ, bôi bẩn của cán bộ trên Cổng Trời.
Tôi
phải tự dằn lòng để không dùng thứ ngôn ngữ “bất xứng” của cán bộ Cự và nghĩ tới
các tu sĩ lãnh đạo cao cấp của Thiên Chúa giáo như Hồng Y Mẫn, Tổng Giám mục Thể
và Tổng Giám mục Nhơn.
Mời
mọi người đọc để ra một phút đễ suy nghĩ về những điều tên cán bộ Cự phát biểu.
Cán bộ Cự tiêu biểu cho những tên lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày hôm nay đối với
TGM Ngô Quang Kiệt.
Phần
anh Uyên Thao, sự chọn lựa của anh thật hiếm người đã làm.
Do
ngay từ khi lúc 18 tuổi đầu, anh đã cầm bút viết cho tờ Cải Tạo. Tờ Cải Tạo là
một tờ báo chuyên về văn học và chính trị, giới thiệu văn học cổ điển Pháp.
Uyên Thao coi đây như giai đoạn vỡ lòng của nghiệp cầm bút. Nhưng cũng không
thiếu say mê và hứng khởi mà sau này anh đành cay đắng viết bài “Giấy bút lầm
than”.
Người
viết lấy tựa đề này làm chủ đề cho bài viết này.
Anh
cộng tác bằng cách dịch sách báo Pháp và viết bình luận về Văn Học Pháp. Anh
coi công việc này chỉ là chuyển tải có tính cách trường ốc những gì đã đọc được
của Pháp mà thôi.
Rồi
do mối quan hệ quen biết với văn chương, anh quen biết một vài người đàn anh
trong giới văn học chính trị như Trần văn Ân, Nguyễn Đức Quỳnh trên tờ Đời Mới.
Anh
đã vào Nam, do ảnh hưởng của những người trên chăng và anh đã gia nhập quân đội
Cao Đài của tướng Trịnh Minh Thế với cấp bậc như thiếu úy.
Một
quyết định quan trọng như thế liên quan đến số phận đời người, số phận tuổi trẻ,
anh bình thản cho là quyết định của một đứa con nít, “Có gì đâu”.
Anh
giải thích về quyết định gia nhập quân đội Cao Đài chỉ vì một lẽ đơn giản là
không muốn bị bắt đi lính cho Tây và cũng không muốn đi theo cộng sản.
Đã
có bao nhiêu người tuổi trẻ chọn con đường của Uyên Thao? Tôi không chắc có được
bao nhiêu người! Hiếm hoi có những người như Đinh Thạch Bích hay lớn tuổi hơn
như Trần Văn Ân, Nhị Lang, v.v...
Anh
trực thuộc Trung Đoàn 60 của Cao Đài ở miền Đông. Hỏi anh về giai đoạn làm sĩ
quan trong quân đội Cao Đài. Anh rất kiệm lời như thể không có gì đáng nói cả.
Anh kể lại một cách bình thản về đời sống quân ngũ mà từ việc ăn uống thiếu thốn,
lương bổng kể như không có - tiền lương lính cùng lắm đủ để phì phèo thuốc lá,
uống vài ly cà phê.
Xem
ra anh chọn lựa Cao Đài một cách hầu như một xung động, như một bất đắc dĩ vì
không có chọn lựa nào khác. Có vẻ như anh cũng không thiết thân gì lắm với công
việc của môt người lính tác chiến ở thế lưỡng đầu thọ địch với Pháp, với Quốc
Gia thời Bảo Đại và với cả Việt Minh.
Hỏi
thêm các chi tiết về con người tướng Trịnh Minh Thế, về tổ chức quân đội, về
tinh thần binh đội Cao Đài, về trang bị võ khí, về các trận đánh, về mối liên hệ
giữa binh đội cao Đài của tướng Thế và Tòa thánh Tây Ninh, v.v... Anh thường kiệm
lời, trả lời nhát gừng bằng đôi ba câu.
-
Nói chung quân đội ấy có kỷ luật, có tổ chức, nhất là có cái tình, lương bổng
thì có gì đâu.
-
Về tướng Thế thì anh cho biết anh chỉ là một sĩ quan quèn, xa mặt trời, lâu lâu
gặp tướng Thế có biết gì mà nói. Anh nhận xét là binh lính phải quý mến tướng
Thế lắm nên mới quen gọi là anh Tư.
-
Về các vấn đề khác thì anh tóm gọn: Chả có cái chó gì để nói . Như ông Văn
Thành Cao chỉ là sĩ quan lo ẩm thực. Khi hết lương thực thì bất đắc dĩ đi ăn cướp.
Lâu lâu ông sai lính sang Cao Mên lùa trâu, lùa bò về giết thịt cho anh em ăn.
Nhưng lùa trâu, lùa bò của Cao Mên thì được coi là “hợp pháp”.
-
Về ông Nhị Lang thì anh Uyên Thao có cơ hội gặp gỡ nhiều hơn vì đã có dịp ngồi
nói chuyên với Nhị Lang. Anh nhận xét Nhị Lang là người ghét Tây. Nhị Lang cũng
là người đàng hoàng, luôn nói sự thật, được tướng Trịnh Minh Thế tin dùng. Vì
thế cuốn sách viết về Trình Minh Thế của ông Nhị Lang là đáng tin cẩn.(*)
-
Có một người trẻ tuổi cỡ 20 tuổi cũng gia nhập Cao Đài thời đó là ông Đinh Thạch
Bích (sau này là luật sư Đinh Thạch Bích cũng đứng tham gia biện hộ cho tờ Sóng
Thần. Trong phần tiểu sử của luật sư Đinh Thạch Bích có đôi chỗ “cường điệu”.
Đinh Thạch Bích sinh 14/8/1932 tại Ninh Bình, năm 1951 thì vào miền Nam. Anh
Uyên Thao muốn cải chính một vài điều như Đinh Thạch Bích là người vấn kế cho
Nhị Lang và tướng Thế đưa ra đề nghị truất phế Bảo Đại. Anh nhận xét: Ở tuổi
đó, độ 20 tuổi, Đinh Thạch Bích còn là loại “măng sữa” làm sao có đủ uy tín để
đóng vai cố vấn.
Trong
phần tiểu sử của luật sư Đinh Thạch Bích có ghi như sau: tham dự việc thành lập
Chiến khu Quốc Gia kháng chiến với tướng Trình Minh Thế. Khi đó ông mới vừa 19
tuổi.
-Về
cái chết của tướng Trình Minh Thế(*). Uyên Thao cho rằng không dễ để biết hết
những âm mưu bên trong. Nhiều điều chỉ là những lời đồn. Nhưng mặc dầu không
nói thẳng ra, Uyên Thao xem ra không ưa chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và luôn ở thế
tránh ra xa.
Bằng
chứng là sau khi tướng Trình Minh Thế bị thảm sát thì có một số lớn binh sĩ Cao
Đài gia nhập quân đội Quốc Gia. Một số nhỏ quay lại núi Bà Đen, hoặc trốn sang
Cam Pu Chia và một số rất nhỏ chọn ở lại Sài Gòn.
Họ
chọn sống lang bang ở Sài Gòn.
Uyên
Thao lại một lần nữa chọn nằm trong số ít ỏi những người này! Phải chăng, anh
là người luôn luôn đứng về thế đối lập với cái gì chính thức - một thái độ của
một số người trí thức thiên tả? Và cũng như thế, sau này anh làm Chủ nhiệm tờ
Sóng Thần, gây chống đối với chính quyền của TT Nguyễn Văn Thiệu về luật báo
chí với vụ án lịch sử 31/10/1974, Ngày Công Lý và báo chí thọ nạn.
Uyên
Thao lại ở trong số ấy. Tôi gọi đó là cách chọn lựa “rất Uyên Thao”. Chọn lựa của
Uyên Thao. thường khác người theo cách suy nghĩ của anh. Nó gần như ngược dòng,
không đi theo số đông bất kể những bất lợi xảy đến cho những chọn lựa này.
Anh
nói: “Còn tôi, tôi chọn lựa tan hàng, rã đám, sống tự do.”
Sống
tự do thật ra chỉ là chọn lựa sống lang bang ở Sài Gòn và anh đã tìm một chỗ
trú ẩn trong các ngôi chùa như một chỗ “nương nhờ cửa Phật” đối với các vị sư
cho anh tá túc. Nhưng đối với anh có thể là một thứ “tỵ nạn chính trị”, hay một
thứ Chờ Thời tương đối an toàn.
Trong
nhiều tình hình chính trị khác nhau, trong nhiều năm tháng, từ năm 1956 khi rời
bỏ Cao Đài, anh thường tìm chỗ trú ẩn trong chùa. Trước 1963 để trốn tránh chế
độ Đệ nhất Cộng Hòa, anh cũng vào ở trong chùa. Sau 1963 đi tù được thả về lại
anh cũng vào chùa. Sau 1975, không nhà không cửa khi đi học tập về, nhà chùa một
lần nữa lại là chỗ để anh nương tựa.
Anh
luôn luôn sống nhờ vào tấm lòng nhân hậu của một số tăng sĩ Phật giáo.
Anh
nói đùa: “Tôi ở dưới trướng các vị sư.”
Và
điều căn bản là các vị sư đều quý mến con người Uyên Thao và tận tình giúp đỡ.
Điều đó đối với tôi rất là tự nhiên và không lấy gì làm lạ. Ai đã gặp Uyên
Thao, ai đã có cơ hội nói chuyện với anh ấy rồi thì dễ bị cái tình cảm quý mến
anh ấy chi phối. Nơi anh toát ra một cái chất thiện, một sự trung thực trong một
thứ ngôn ngữ ngắn gọn, hà tiện lời làm cho người đối diện tin tưởng.
Nó
giống như một cô con gái nhà lành mà từ phong cách, lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ
toát ra sự tinh tuyền, không tỳ vết.
Sự
trung thực và tấm lòng qua thân xác hiển lộ mà không cần một lời biện bạch.
Sự
trung thực nơi Uyên Thao như thể là bản tính con người của anh.
Uyên
Thao lộ ra một nhân cách làm cho người tiếp xúc với anh tin những điều anh nói.
Mà không cần anh phải dài dòng thuyết phục.
Thời
gian “nằm chùa đợi thời”, anh đánh cờ tướng với các vị sư. Anh tự hào là anh
đánh cờ tướng từ sài Gòn ra Huế, xuống Cà Mâu “không có đối thủ”. Đánh là chấp
xe, chấp pháo đối thủ tùy trường hợp. Những vị sư mà anh quý mến nhất là sư Đức
Tuệ (sư thúc của TT. Thích Tâm Châu) rồi các vị sư khác như Đức Nhuận, Thích
Thiện Hoa và Thích Tâm Châu.
Đã
có lần thày Tâm Châu nhận xét về cách đánh cờ của Uyên Thao và nói đùa: “May là
chú không ở trong quân đội, vì nếu thế chú trở thành tên sát thủ.”
Nói
đánh cờ chỉ là một thời gian chờ thời. Phần lớn thời giờ còn lại anh đọc sách,
học hỏi thêm.
Những
bài viết của anh sau này, dù chỉ là một lời giới thiệu một cuốn sách cho thấy
anh trích dẫn khá nhiều các tác giả ngoại quốc. Kiến thức của anh cho thấy đọc
nhiều, rộng rãi, quảng bá. Cộng thêm lối hành văn khá trải chuốt, mượt mà, có lửa,
dụng ý thâm thúy, có nhiều khi phải tìm đọc ý nghĩa giữa hai hàng chữ với chiều
sâu của suy tưởng.
Văn
viết của anh vì thế khác hẳn với lối nói chuyện đơn chất, đơn điệu của anh.
Nhìn
lại mối liên hệ của anh với các vị sư trong chùa cho thấy có điều đặc biệt.
Tình thày trò, tình của một người chân tu với kẻ ngoài đời, lang bạt kỳ hồ có
duyên gặp gỡ, hiểu nhau trong chiều hướng chia xẻ có lúc sẽ sinh hoa kết trái.
Mối
giao duyên đó gợi nhớ cho tôi câu chuyện “Đôi Bạn Chân Tình” của nhà văn Đức
Hermann Hesse do Vũ Đình Lưu dịch. Nó miêu tả một kẻ chân tu và gã lang bạt
ngoài đời đến một lúc nào đó - với hai con đường đi khác nhau - một khổ hạnh
trong sự chiêm nghiệm và một phóng lãng giang hồ vào một lúc nào đó hiểu được
chân lý ở đời, hiểu thế nào là đau khổ là hạnh phúc.
Và
nhất là họ hiểu nhau. Họ trở thành Đôi bạn mặc dầu hành trình đi vào đời mỗi
người một nẻo đi khác nhau.
Anh
kể chuyện khi ở chùa, nhà sư Đức Tuệ ra lệnh cho nhà bếp mua thịt cá cho các
chú ăn uống như ngoài đời, vì chúng nó có đi tu đâu. Nhưng khi được tin đệ tử
ruột của nhà sư về thăm - sư Tuệ Hải - ông vội nói nhà bếp đừng mua thịt cá gì
hết, bởi vì “thằng” Hải nó lên, nó rất nghiêm khắc biết được, nó sẽ la lối.
Thật
là đẹp. Chúng tôi cùng cười về thái độ của thầy Đức Tuệ.
Cũng
chính vì thế sau 1963 khi vừa ở tù ra, Uyên Thao lại ghé tạm trú nhà chùa. Sư Đức
Tuệ đã vét quỹ công quả trong thùng được 1.200.000 đồng đưa cả cho Uyên Thao muốn
làm gì thì làm.
Nhà
sư Đức Nhuận góp ý là nên để anh Uyên Thao viết lại cuộc đấu tranh của Phật
giáo. Anh Uyên Thao đã nhận lời và thế là cuốn sách được ra đời với lời đề tựa
của TT. Thích Tâm Châu. Cuốn sách được in xong nhờ số tiền 1.200.000 của các
thày cho, sau đó sách được giao cho các Phật tử mang đi bán. Phần Uyên Thao kể
như công việc của anh đã hoàn tất và không còn biết điều gì xảy ra tiếp theo nữa.
Rất mong là có ai đó còn giữ được cuốn sách này thì quý hóa biết bao nhiêu như
một tài liệu lịch sử!
Và
cuốn sách đó cần được in lại.
Cũng
vậy mong là cuốn sách của anh viết về một số nhà văn nữ trước 1975 chóng được
in lại như lời hứa đứng ra in lại của nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Bình.
Cũng
rất là “Uyên Thao”, anh là người trách nhiệm nhà xuất bản Tiếng Quê Hương nay
đã xuất bản gần tới con số 100 đầu sách của các tác giả khác.
Nhưng
sách của Uyên Thao thì để người khác lo!
-------------------------------
Nhà
văn Uyên Thao nhận xét về hai vị sư tiêu biểu nhất của miền Nam: Thích Tâm Châu
và Thích Trí Quang
Nhân
tiện nói về mối liên giữa các vị sư và nhà văn Uyên Thao, anh có dịp đưa ra một
số nhận xét vắn tắt khá trung thực về hai vị sư lãnh đạo thời 1963 như sau:
Ông
Trí Quang là người có nhiều tham vọng, tham vọng ấy đã đẩy ông đi rất xa. Người
ta có cảm tưởng ông chỉ nghĩ đến bản thân mình biết lợi dụng công việc, hoàn cảnh
cho riêng mình.
Uyên
Thao nhắc lại chỉ một sự việc nhỏ sau đây thôi làm anh thất vọng. Và chỉ một sự
việc nhỏ nhoi này làm anh mất tất cả sự kính trọng đáng nhẽ phải có đối với nhà
sư này. Anh cũng nhìn nhận có nhiều người tôn sùng ông Trí Quang như trường hợp,
“thằng” Lý Đại Nguyên. Lý Đại Nguyên coi ông Trí Quang như một thần tượng, một
bậc thầy không cần bàn cãi nữa. Nhưng đó là dựa trên những mối liên hệ tình cảm
giữa hai bên.
Anh
Uyên Thao kể lại trước 1963, đang ở đài phát thanh ở ngoài Huế về thì bị bắt
không có lý do gì cả. Vì thế anh không có cơ hội theo dõi những biến động trước
1963 cũng như phong trào tranh đấu của Phật giáo.
Tôi
hỏi tại sa anh bị chính quyền bắt? Anh trả lời dấm dẳng:
“Tuyền
những chuyện vớ vẩn. Giam vài tháng trong đó có cả Trần Quang Thuận, Vũ Tài Lục,
Lý Đại Nguyên, Hư Chu (hoạt động cho cộng sản), v.v... thì đảo chánh. Sau đó,
Thủy quân lục chiến vào khám, dùng súng bắn vỡ ổ khóa cửa nhà tù để thả tất cả.”
Anh
được phóng thích. Khi mới ở tù ra, sau 1963, anh có dịp đến chùa Xá Lợi. Lần đầu
tiên, anh được nhìn thấy ông Trí Quang xuất hiện. Nhìn thấy ông Trí Quang đứng
trên khán đài mà ở dưới có hàng ngàn Phật tử đang đứng nghe, trong đó có Uyên
Thao. Anh nhìn thấy ông Trí Quang chắp tay sau đít, mặt lạnh như tiền, mắt thì
ngước lên nhìn trời như không thèm để ý gì đến đám đông đang đứng ở phía dướ chờ
đợi để được nghe ông nói.
Anh
nhận thấy con người đó không ích lợi gì cho đại cuộc.
“Tôi
thấy con người đó không được,” Uyên Thao chỉ nói tóm tắt như thế. Đó là những
nhận xét trực cảm nhậy bén bắt được do cảm nghiệm mà không cắt nghĩa được.
Anh
nói thêm, “Hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi mãi. Con người ấy không thể làm nên chuyện
lớn tốt đẹp được.”
Sau
này, để lên án nhóm Phật giáo Ấn Quang, anh Uyên Thao đã viết bài: Con ngựa gỗ Ấn
Quang (Trích lại câu chuyện Con ngựa gỗ thành Troie - Le cheval de Troie - đưa
đến tai họa mất thành Troie). Bài viết này phải chăng bắt đầu từ cái cái cảm nhận
của anh lúc lần đầu tiên gặp ông Trí Quang.
Về
nhà sư Tâm Châu: Ông thày Tâm Châu, theo Uyên Thao trái lại có thể gần gũi hơn,
“người hơn” thực tế hơn, biết điều hơn, hiểu thấu công việc mà không có tham vọng
nên không cực đoan. Đó là mẫu người lãnh đạo tốt, mặc dầu về bản thân có những
giới hạn.
Chính
vì hai người có những quan điểm nhìn, tính tình khác biệt và hành động khác
nhau như thế nên đi đến chỗ bất đồng, những tranh chấp không tránh được đưa đến
chia rẽ thành hai khối Giáo Hội sau này.
Uyên
Thao nhà báo đấu tranh
Cái
nghiệp dĩ của anh Uyên Thao, chính là làm báo dấn thân. Đó là Giấy bút lầm than
đã làm nên cuộc đời anh.
Từ
tờ Cải Tạo khi ở miền Bắc, rồi tờ Mùa Lúa Mới (Đỗ Tấn làm tổng thư ký tòa soạn)
đến các tờ Dân Chủ, báo Sống của Chu Tử đến Sóng Thần. Anh đã cộng tác và viết
cho nhiều báo rồi làm đài phát thanh. Cũng chính vì thế, anh biết nhiều chuyện
trong làng báo. Và điểm kết thúc nghiệp báo là khi anh làm chủ nhiệm tờ Sóng Thần
vào đầu thập niên 1970.
Khi
làm tờ Dân Chủ thì anh nhớ lại xảy ra câu chuyện “Ăn chè nhà Bè “của nhạc sĩ Phạm
Duy. Anh kể là ngay sáng hôm sau, bà Thái Hằng đã đến tòa soạn yêu cầu, “Xin
các anh đừng đăng chuyện gia đình của tôi.” Thật đúng là mẫu mực người phụ nữ
VN. Tuy nhiên câu chuyện vẫn đổ bể lớn không bịt miệng được thiên hạ và cái
scandale Phạm Duy trở thành giai thoại “ăn chè nhà Bè”.
Khi
viết cho tờ Mùa Lúa Mới ở miền Trung có Võ Phiến cộng tác. Anh Uyên Thao cho biết
lúc bấy giờ, Võ Phiến chưa nổi danh như khi ông cộng tác với tờ Bách Khoa sau
này. Võ Phiến với “Chữ Tình” được kể là hay lắm. Văn Võ Phiến tỉ mỉ, chi ly từng
chi tiết một, nhưng không rườm rà mà súc tích, đào sâu, hấp dẫn. Nó khác với lối
viết của Mai Thảo bay bướm mà có phần hời hợt. Anh nói thêm, Mai Thảo có thể dễ
dãi quá với mình nên viết trở thành nhạt, nội dung không có. Anh gọi Mai Thảo,
Vũ Khắc Khoan là thứ văn chương ưỡn ẹo còn nhà văn Túy Hồng ngược lại là ưỡn ẹo
văn chương. Nhưng về lúc cuối đời, Mai Thảo viết xuất thần trong: “Ta thấy hình
Ta những miếu đền”.
Khi
kể về chuyện di cư của Kiều Chinh - Không biết bằng cách nào, câu chuyện đàm đạo
giữa chúng tôi lại dẫn đến cuộc di cư từ miền Bắc vào miền Nam, trong đó có câu
chuyện thật đặc biệt về Kiều Chinh. Phần tôi, chỉ tình cờ gặp nữ nghệ sĩ điện ảnh
Kiều Chinh tại nhà một nhạc sĩ trong một bữa phở buổi trưa năm 2010.
Tôi
còn nhớ khi viết về cuộc di cư, anh Nguyễn Duy Chính có gửi tặng cuốn: “50 năm
Bắc Kỳ di cư, 1954-2004”, trong đó Kiều Chinh có viết về cuộc di cư của bà.
(Bài này bà đã phát biểu trong dịp được trao giải thưởng Emmy Award tại Hàn Lâm
viện khoa Học Truyền Hình Hoa Kỳ với nhan đề, “Kieu Chinh, a Journey Home,
1996”.
Câu
chuyện của Kiều Chinh là một bi kịch và đầy bất ngờ của cuộc di cư 1954. Xin
ghi lại lời của KC:
“Là
con út trong ba chị em, tôi được Bố thương nhất. Suốt thời niên thiếu, tôi chỉ
biết có Bố. Bố tôi, ông Nguyễn Cửu, một Viên chức tài chánh Quốc Gia, Hà Nội,
ngay khi cuộc di cư bắt đầu vào tháng tám, 1954, đã quyết định vào Nam. Bố sửa
soạn cho chính mình và mỗi đứa con một túi vải đeo vai, gồm giấy tờ, thuốc men
khẩn cấp, lương thực khô ... Đêm trước ngày ra đi, anh tôi bỏ nhà trốn ra khu
theo phong trào thanh niên cứu quốc. Anh Lân là con trai duy nhất của Bố, năm
đó mới 20 tuổi.
Sáng
hôm sau, chỉ còn hai bố con ra phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Hàng ngàn người già
trẻ lớn bé nằm ngồi la liệt dưới nắng cháy, chờ đợi để được lên máy bay di cư
vào Nam. Mãi tới cuối ngày mới tới lượt bố con tôi. Bố đẩy tôi lên máy bay rồi
bất ngờ nói “Con vào Nam trước, Bố ở lại tìm anh Lân rồi sẽ vào sau”. Tôi la
khóc cố nhào ra với Bố, nhưng bị đám đông xô lấn đẩy lui. Cửa máy bay xập xuống.
Đó là lần cuối được nhìn thấy Bố”.
(Trích
bài viết của Kiều Chinh, 50 năm di cư tị nạn, trang 81-82)
Kịch
bản đau thương của Kiều Chinh không dừng lại ở đó. Sau này, có dịp sang Pháp dự
đại hội điện ảnh thế giới, gặp lại chị Tĩnh, người chị ruột sống ở Pháp Kiều
Chinh mới được biết “Cả bố và anh tôi đều bị cầm tù ở miền Bắc nhiều năm không
xét xử. Và sau 50 năm di cư: “Bố tôi đã chết, anh tôi đã chết. Nhiều người di
cư thời 50 năm trước đã ra đi vĩnh viễn. Thế hệ tôi cũng sắp ra đi.
Xin
thắp một nén nhang cho những người quá cố”. (Trích KC, Ibid)
Tuy
nhiên, có thể bà Kiều Chinh đã không thể biết sự thực đời sống của anh và Bố
như thế nào ở miền Bắc.
Ở
đây, xin ghi lại trung thực đầy đủ những điều mà nhà báo Uyên Thao tiết lộ nhằm
mục đích cho thấy thêm một lần nữa sự tàn bạo của chế độ cộng sản như thế nào.
Theo
anh Uyên Thao kể lại thì “thằng” Quốc Văn có ra Bắc gặp Quốc Giao và Quốc Giao
kể lại thì ông già Kiều Chinh sau ngày ra tù sống khốn khổ, vô nghề nghiệp, bị
bỏ rơi đến phải đi ăn mày.
Đây
là một câu chuyện thương tâm có thật vì ai nên nỗi! Bố Kiều Chinh và người anh
ruột bị đầy đọa nhiều năm tù rồi sống lang bang như thế ở ngoài miền Bắc.
Trong
khi Kiều Chinh ở miền Nam, coi như mồ côi cả cha lẫn mẹ lại có đủ các cơ hội trở
thành một diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất miền Nam thời bấy giờ và tôi tự hỏi
phải chăng những vai điện ảnh Kiều Chinh đóng là cớ sự đưa đến tù đầy của anh
và bố?
Anh
Uyên Thao có yêu cầu Quốc Văn viết lại chuyện này cũng như số phận một số nhân
vật như Trương Tửu ở miền Bắc, “nhưng nó cứ lần lữa 10 năm chưa viết gì cả”.
Những
mối giao tình giữa Uyên Thao và chủ nhiệm Nguyễn Quang Lãm và tờ báo Xây Dựng
Anh
Uyên Thao đã thích thú kể lại kinh nghiệm làm báo và trường hợp Lm Nguyễn Quang
Lãm. Lm Lãm là một người du học từ Pháp về, bạn bè của những Lý Chánh Trung,
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu, bác sĩ Nguyễn Văn Ái về VN sau 1954. Những
ai học trường Nguyễn Bá Tòng, đường Bùi Thị Xuân đều biết Lm Lãm là hiệu trưởng
đầu tiên của trường. Giám học là ông Nguyễn Đình Đầu.
Lm
Lãm tướng cao lớn, nhưng gầy, mặt rỗ hoa cà, trán nhô và miệng rộng quá khổ.
Sau khi rời chức vụ Hiệu trưởng trường Nguyễn Bá Tòng, ông ra đứng chủ nhiệm và
chủ bút tờ báo Xây Dựng. Ông viết bài dưới bút hiệu Thiên Hổ. Tờ Xây Dựng cũng
là nơi mà nhà văn Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp viết báo lấy bút hiệu Thương
Sinh.
Theo
anh Uyên Thao, anh không có mấy thiện cảm với Thương Sinh trong cung cách viết
phóng sự.
Nó
có phần “ma giáo” để làm tiền các nhân vật có tai tiếng. Nó lợi dụng ngòi bút.
Sau này, khi làm chủ nhiệm báo Sóng Thần, anh đã đuổi mấy thằng ký giả hù người
ta lấy tiền. Về những phóng viên làm tiền các ông Tỉnh trưởng cũng được ghi lại
trong bài viết của Nguyễn Mộng Giác Sống và viết tại Hải ngoại, 1998, đăng lại
trên Diễn Đàn Thế kỷ như sau:
“Trước
khi vượt biên, tôi rất lơ mơ về nghề báo, cũng không thân thiết và xin thú thực,
không mấy cảm tình với các ký giả. Có thể tôi không may mắn gặp được những ký
giả chân chính và uyên bác. Tôi bị định kiến vì hồi còn dạy học ở Qui Nhơn, lâu
lâu lại gặp những ký giả một tờ nhật báo nổi tiếng ở Sài Gòn ra thu tiền hụi mấy
ông tỉnh trưởng quận trưởng, sau một bài báo thuộc loại điều tra phóng sự hứa hẹn
nhiều khám phá động trời và sẽ đăng làm nhiều kỳ”.
Nhưng
riêng với Lm Lãm, anh Uyên Thao quý mến cái tính xuề xòa và “tếu”, nhất là
không chấp nhất, không thù vặt và có lòng của vị linh mục này nghĩ tới công việc
chung. Ngồi đâu là Lm Lãm cũng có cái điếu cầy để hút thuốc lào với thái độ ngất
ngưởng rất “nhà quê Bùi Chu”.
Anh
nói mà không dấu được cảm động kể lại rằng khi thấy anh cứ hùng hục làm báo, suốt
ngày ngồi ở tòa soạn. Lm Lãm trách nhẹ: “Thứ bảy, chủ nhật, mày phải dành thì
giờ đưa vợ con đi chơi chứ. Không có xe, lấy xe của tao.”
Có
lần Uyên Thao đùa hỏi cắc cớ, “cha không đi nhậu làm sao làm báo?” Ông Lãm cười
khà khà, nhe hàm răng rộng hỏi ngược lại, “tao không đi nhậu nhẹt thì làm sao
biết chúng mày tán gái ra sao để viết báo?”
Sau
này, TT Nguyễn Văn Thiệu bắt đóng ký quỹ 20 triệu mới cho ra báo. Đối với các tờ
như Thần Chung của ký giả Nam Đình thì nhằm nhò gì. Nhưng báo Xây Dựng của ông
Lãm nghèo không đóng nổi đành đóng cửa.
Thế
là Thiên Hổ, Trần Tấn Quốc, Ngọa Long về cộng tác với Sóng Thần.
Một
giai thoại khác là tướng Nguyễn Cao Kỳ nhờ Lm Lãm giới thiệu một nhân vật Thiên
Chúa giáo tham gia nội các. Lm Lãm giới thiệu một người quen biết từ hồi còn du
học ở bên Tây, kỹ sư Võ Long Triều, người miền Nam, không dính dáng đến chế độ
Đệ nhất Cộng hòa. Thế là Võ Long Triều bèn ôm gà chọi làm lễ ra mắt đứng chờ đợi
để được diện kiến Nguyễn Cao Kỳ. Trong Hồi ký của ông, Võ Long Triều đã viết
khác hẳn.
Lm
Lãm còn kể những chuyện “vượt thẩm quyền giáo hội” khi biết được những đôi trai
gái khác đạo muốn lấy nhau. Thay vì bắt học đạo, rửa tội, cha làm lễ đám cưới
cho họ.
Uyên
Thao nói: “Tôi chịu cái tính của Thiên Hổ.”
Ông
nói: “Mày thấy không, những ông cha khác từ chối làm đám cưới. Phần tao, tao
làm hết, vì chúng nó yêu nhau.”
Anh
Uyên Thao nhắc nhớ lại kỷ niệm lần chót gặp Nguyễn Quang Lãm vào ngày 27, 28
tháng tư gì đó. Uyên Thao đến thăm ông Lãm, ông buồn rầu hỏi: “Mày không đi à?”
Sau
đó, Uyên Thao thấy Lm Lãm ôm mặt khóc. Ông Lãm là người lúc nào cũng cười khà
khà bất cứ trong tình cảnh nào.
Lần
đầu tiên trong đời, Uyên Thao thấy một ông linh mục biết khóc. Khóc vì biết miền
Nam sẽ không còn như trước nữa
Câu
chuyện tờ Chính Luận với bác sĩ Đặng Văn Sung-Thái Lân và câu chuyện bà Ba
Góp
mặt trong buổi trà đàm này quy tụ nhiều người, trong đó có anh chủ nhà Phạm Bá
Cát, cựu giám đốc đài phát thanh ở Sài gòn, anh Hồng Dương, cựu ký giả báo
Chính Luận, anh Trần Phong Vũ, chủ nhiệm Nguyệt san Diễn đàn giáo dân, anh Uyên
Thao, chủ trương tủ sách Tiếng Quê Hương và tôi.
Buổi
trà đàm rất náo động, vui vẻ, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề kia, nhưng đều tập
chung vào chuyện làm báo ở Sài Gòn.
Trước
hết, chúng tôi xoay quanh cái chết của ký giả Từ Chung, báo Chính Luận vào cuối
năm 1965. Chính Luận vốn được coi là tờ báo của CIA tài trợ. Đấy là dư luận,
đúng hay sai nay chỉ có mình ký giả Thái Lân, nguyên là Tổng Thư Ký Chính Luận
biết được.
Ký
giả Từ Chung, báo Chính Luận và Chu Tử, báo Sống là đích nhắm, là những người cộng
sản muốn trừ khử. Trong hai người, chẳng may Từ Chung bị bắn chết. Chu Tử, chủ
nhiệm báo Sống chỉ bị thương.
Cho
đến nay, không có tài liệu điều tra nào về phía chính quyền Quốc Gia để tham khảo.
Chỉ có tài liệu phía cộng sản được viết trong “Trui rèn trong lửa đỏ” thừa nhận
vụ ám sát này cũng như vụ đặt bom nổ tòa soạn báo Chính Luận.
Theo
sách “Trui rèn trong lửa đỏ”, trang 111, tháng 9-1969 khi Hồ Chí Minh qua đời,
Chính Luận nhân dịp đó có viết bài “bôi xấu” Hồ Chí Minh. Thành đoàn Cộng sản cử
hai tên Ba Gia và Ba Trung đến tòa soạn Chính Luận trên đường Lê Lai để một chiếc
cặp da trên quầy báo trong đó có mìn gài sẵn. Tòa soạn của Chính Luận bị hư hại
nặng.
Ký
giả Hồng Dương báo Chính Luận chỉ nói về những sự việc liên quan xa gần đến đời
tư của nhà báo Từ Chung. Nhưng không ai trong những người ngồi lại với nhau nói
chuyện làm báo thời VNCH được biết hư thực về cái chết này như thế nào ..
Tôi
có đặt một câu hỏi tại sao cộng sản không nhằm ám sát ông chủ nhiệm Đặng Văn
Sung mà nhằm ký giả Từ Chung cũng như đặt mìn tòa soạn Chính Luận? Hỏi để hỏi
thôi. Không có câu trả lời.
Từ
đó câu chuyện xoay quanh bác sĩ Đặng Văn Sung. Nhất là phần cuối đời của ông
liên quan đến việc ông quyết định theo đạo Thiên chúa.
Anh
Phạm Bá Cát có dính dáng đến chuyện này vì anh là người giới thiệu Lm Vũ Đình
Trác đến giúp dạy giáo lý cho ông Đặng Văn Sung. Nhưng theo anh Phạm Bá Cát cái
lý do nào đưa đến quyệt định cuối đời của bác sĩ Đặng Văn Sung là do một người
phụ nữ tầm thường. Người phụ nữ này có tên là bà Ba vốn là người giúp việc lâu
đời của gia đình ông Đặng Văn Sung. Bà ít học, quê mùa đến độ mà theo anh Phạm
Bá Cát kể lại mỗi khi gặp tôi bà xưng bằng Ngài và con, “Thưa ngài con...” Làm
sao một người như thế, lại có thể có sức mạnh tinh thần ảnh hưởng trực tiếp đến
quyết định của ông Đặng Văn Sung?
Nghe
câu chuyện này hay và có ý nghĩa, anh Uyên Thao đề nghị phải gặp bà Ba cho bằng
được, ngoài phần thăm hỏi và giúp đỡ bà còn phải viết lại thành chuyện.
Đó
là một câu chuyện lý thú. Mọi người đều hoan hỉ và hưởng ứng ý của anh Uyên
Thao.
Anh
Phạm Bá Cát đề nghị thêm cái người có thể biết mọi chuyện từ đầu tới cuối trong
mấy chục năm không ai khác là ông Thái Lân, quản lý sau là Tổng Thư ký Chính Luận.
(trong thời gian tranh đấu của báo Chính Luận, Nguyễn Thái Lân và Ngô Đình Vận
và nhiều ký giả khác đã bị mời lên bộ Tư lệnh Cảnh sát để lấy lời khai về việc
làm báo của họ).
Thế
là như một đám thanh niên hăng say, cả đám ùn ùn quyết định phải đến ngay thăm
ông Thái Lân và giao phó cho tôi trách nhiệm làm sao để thuyết phục ông Thái
Lân. Chúng tôi vội vã đi trên hai xe hơi đến nhà ông Thái Lân.
(Ông
Thái Lân, khi làm tờ Ngôn Luận -bộ mới- trong ba ngày liền viết bài kết án Uyên
Thao là cộng sản nằm vùng. Dựa trên những bài bào của Uyên Thao viết về tình
hình đất nước, trích riêng ra đoạn nọ đoạn kia để xuyên tạc, chụp mũ Uyên Thao.
Nhưng sau đó có dịp hiểu nhau. Và mọi chuyện coi như bỏ qua . Sau này, ở hải
ngoại biết Uyên Thao, ông Hồ Anh, chủ nhiệm báo Ngôn Luận mời anh Uyên Thao về
làm báo Văn Nghệ Tiền Phong.)
Ông
Thái Lân mặc dầu lớn tuổi, dáng còn khỏe mạnh đang làm vườn, tiếp đón bọn tôi một
cách vui vẻ và cởi mở. Trong câu chuyện, mỗi người lần lượt yêu cầu ông phải
nói hết mọi chuyện trong giai đoạn làm báo ở Sai Gòn và cho tôi được phỏng vấn
ông.
Nói
đủ thứ lý luận, nài ép cũng có, ông vẫn tìm cách tránh né không chịu mở miệng.
Lý do duy nhất nêu ra là tôi già rồi, trí nhớ kém. Trong nay mai, có dịp gặp
ông, tôi thử “thời vận” một lần nữa xem sao và tiếp tục hỏi anh Phạm Bá Cát xem
về vụ bà Ba đi đến đâu rồi?
Giai
đoạn làm báo Sóng Thần
Có
lẽ đây là giai đoạn xôi động nhất trong cuộc đời làm báo của Uyên Thao và để lại
trong anh niềm hãnh diện cũng có và nỗi đau cũng không thiếu.
Một
người ra một tờ báo mà một đồng xu dính túi cũng không có. Chỉ có một tấm lòng,
một lý tưởng tranh đấu chống tham nhũng bất công xã hội và sự hăng say.
Sóng
Thần như tên gọi chẳng khác gì một cơn nước lũ muốn kéo đi tất cả những rác rưởi
xã hội, cho một bộ mặt mới.
Miền
Nam rơi vào tình thế mất còn với nhiều xáo trộn. Chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu
xem ra bó tay trước áp lực của người Mỹ và tỏ ra thất thế, yếu kém về quân sự
trong việc đương đầu với cộng sản.
Thật
vậy, sau Hiệp Định Paris thì linh mục Cao văn Luận đi nước ngoài có ghé Roma và
đã gặp hồng y Casaroli, Quốc Vụ Khanh tòa thánh. Hồng y Casaroli đã nhắn nhủ
các giám mục VN qua Lm Luận là nên chuẩn bị giai đoạn để phải sống chung với cộng
sản và chấp nhận cái thuận lợi hay không thuận lợi(oppotune, importune) khi phải
đối đầu.
Điều
đó chỉ ra rằng ở ngoại quốc người ta tiên đoán trước được những điều gì xảy cho
miền Nam.
Phong
trào Nhân Dân chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh ra đời trong hoàn cảnh
đó: Chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình bằng cách liên kết mọi
thành phần Dân tộc sau cuộc phân hóa 1963.
Trong
cáo trạng chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh đặc biệt có nêu ra một số
vụ tham nhũng như: Vụ Còi hụ ở Long An, vụ gạo ở miền Trung, vụ buôn bán Bạch
phiến (Thương số buôn bán Bạch phiến lên đến 88 triệu Mỹ kim, tương đương 57 tỷ
bạc VN/một năm. Nếu tính 5 năm thì số tiền lên đến 285 tỉ bạc VN, chia đều cho
19 triệu dân miền Nam thì mỗi người được 13.000 đồng. Tài liệu cũng tố cáo trực
tiếp TT Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm cầm đầu những vụ này.
(Trích
theo cuốn “The politics of Heroine in Southeast Asia” của Alfred W. Mc Coy, năm
1972)
Tiếp
đến là các vụ đầu cơ phân bón, đặc biệt vụ án Đồng ở Đà Nẵng có liên quan đến một
vị tướng hiện còn sống như sau:
“Vụ
án Đồng ở Đà Nẵng, chỉ kết án con buôn, nhưng những ông Tướng, những ông Tá nào
bán Đồng cho họ thì không bị xét xử và của ăn cắp không được thâu hồi cho công
quỹ.
Tài
liệu được trích dẫn là tờ báo Pacific Star and Stripes phát hành ngày 13.6.1973
phanh phui vụ Thủ tướng Trần Thiện Khiêm toa rập cùng một số Tướng lãnh và gian
thương, xuất cảng lậu số đồng phế thải của Quân đội Mỹ trao lại cho Việt Nam Cộng
Hòa, trị giá trên 17 triệu 300 ngàn Mỹ kim, mà Tổng thống cố tình ám nhẹm,
không biết vì lý do gì?
(Trích
tài liệu Vẽ Đường Cho Hươu Chạy, Nguyễn Văn Trung).
Riêng
tờ Chính Luận trong số báo đề ngày thứ năm 04/7/1974, dưới hàng tít chạy 6 cột
trang nhứt, Chính Luận có loan tin: “Một âm mưu xuất cảng lậu 15.000 tấn đồng
phế thải trị giá lối 7.000 triệu bạc VN, tức 7 tỷ, bị Phủ Thủ tướng phát giác
và một tham chánh văn phòng Phủ Thủ tướng, ông Huỳnh Huy Dương đã bị bắt để điều
tra.”
Chỉ
vì vụ này, ông Nguyễn Thái Lân bị gọi ra cảnh sát nhiều lần và nay bị Bộ Tư Lệnh
Cảnh sát giải ra tòa.
Rất
tiếc, ông Thái Lân đã không cho phỏng vấn để biết rõ vụ này như thế nào?
Trong
cái tinh thần và bối cảnh chính trị như thế, tờ Sóng Thần có mặt và hỗ trợ
Phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh từ đầu.
Vì
thế nay không lạ gì trong tập Tài liệu nhật báo Sóng Thần, các anh đã nêu cái
tinh thần Hà Thúc Nhơn với lời ghi: Sóng Thần, đầu sóng ngọn gió có ghi: “Nhóm
chủ trương Hà Thúc Nhơn chủ trương.”
Bác
sĩ Hà Thúc Nhơn bị bắn chết ở Nha Trang do chống tham nhũng ở quân y viện
NhaTrang trở thành biểu tượng của Sóng Thần.
Theo
anh Uyên Thao, trong buổi tạ từ của báo Sóng Thần ngày 30 tháng 10 cho biết:
“Gia đình Sóng Thần gồm những người trẻ đã được khai sinh và nuôi dưỡng bằng
tình thương yêu và thắm thiết của đồng bào anh em khắp nước.”
Cụ
thể là những trí thức, dân biểu, giáo sư, quân nhân các cấp đã đóng “hụi chết”
để Sóng Thần có thể ra đời và tồn tại được mấy năm. Tuổi thọ của Sóng Thần kéo
dài không được bao lâu, nhưng dư âm còn đọng lại và tiếng tốt vẫn còn để lại
trong lòng nhiều người.
Tôi
có đọc một danh sách dài thườn thượt những người đã góp công của cho Sóng Thần
ra đời vào 24/9/1971 khi Sóng Thần ra mắt tại Trung Tâm Văn Bút.
Tôi
nghĩ bụng Uyên Thao phải là con người để bạn bè tin tưởng như thế nào.
Theo
lời kể của anh Uyên Thao, xin tạm không nêu tên, có một ông tướng nổi tiếng
tham nhũng đã gửi một số tiền không nhỏ là 2 triệu đồng qua ông Chu Tử. Anh
Uyên Thao đã từ chối nhẹ nhàng không nhận và gửi trả lại số tiền đó.
Không
dễ mấy ai có thể chối từ một số tiền lớn lao như vậy vào thời đó.
Sự
từ chối này làm nên nhân cách Uyên Thao và làm cho Sóng Thần có uy tín với độc
giả, nhất là trong giới quân nhân là đông nhất.
Cái
uy tín ấy tóm tắt trong lời của Lm Lãm, một đồng nghiệp của Uyên Thao viết:
“Tôi
nghĩ đến vai trò của Sóng thần trong cuộc tranh đấu hôm nay, đến hành động của
anh em Sóng Thần đốt báo rực đường phố, đốt sắc luật 007 làm rung chuyển Hội
Trường Quốc Hội hôm nào.
Và
mai đây vào sáng ngày 31-10 này, hai chữ Sóng Thần lại sẽ thực sự được khắc vào
bia đá của lịch sử đấu tranh.”
(Trích
Vẽ đường cho Hươu chạy, Ibid, NVT)
-----------------------
Ngày
Ký giả đi ăn mày và Ngày báo chí thọ nạn
Nguyên
nhân của vụ này là báo Sóng Thần đã đã đăng tải những tin tức, thông cáo của
Phong Trào Nhân dân chống tham nhũng.
Như
thể Sóng Thần là phát ngôn viên chính thức hay cái loa của phong trào này. Xin
ghi lại một số tít chạy trên báo Sóng Thần như sau
“30.000
giáo dân Biên Hòa nhập PTNDCTN bất hợp tác với chính quyền Tỉnh. 4 mối nguy của
Làng báo. Tổng thư ký nhật báo Chính Luận bị bộ Tư Lệnh Cảnh sát bắt giải tòa.
Sổ tay Ngô Đình Vận; Đau quá. Luật 007/72 đã vi phạm công lý ra sao? Giáo dân
Nha trang-Cam Ranh đồng loạt tố tham nhũng. Nhiều linh mục tuyên bố sẵn sàng nhận
cho còng tay dẫn vào tù. LLPG/HGDT công bố cương lãnh 17 điểm. Đưa 6 điểm cáo
trạng số 1 ra thử lửa. LM Thanh tuyên bố sẵn sàng nhận: Đối thoại công khai với
TT. Thiệu với điều kiện báo chí dự khán và được đăng tải đầy đủ mọi chi tiết”.
Những
loạt bài báo như thế như thách thức sự kiên nhẫn chịu đựng của Tổng trưởng
Thông tin và Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã, thách thức chính quyền.
Nhất
là đăng bản cáo trạng với hàng tít chữ chạy như sau: Nguyên văn 6 điểm cáo trạng
số 1.400 chữ làm rung chuyển cả nước. Khối DTXH chất vấn TT Nguyễn Văn Thiệu về
6 điểm cáo giác. Sóng Thần nổi lửa chống đàn áp Tự Do ngôn luận. Ký giả tẩy
chay họp báo, kết án tịch thu báo. Ký giả Trần Tấn Quốc nhập cuộc với bài: Báo
chí trong kềm kẹp của luật 19/69, SL 007.
(Trích
tài liệu báo Sóng Thần trong Vẽ đường cho Hươu chạy)
Liên
tiếp hàng loạt các bài viết trên Sóng Thần đặt chính quyền TT. Nguyễn Văn Thiệu
vào thế bị tấn công và ghế bị cáo.
Để
trả đũa, ngoài sắc lệnh bắt ký quỹ 20 triệu đồng cho mỗi tờ bao, nhiều báo phải
đóng cửa như Xây Dựng, rồi Hòa Bình (có đóng tiền ký quỹ, nhưng báo bị tịch thu
nhiều lần nên cuối cùng phải sập tiệm. Linh Mục Trần Du đã viết một thư gửi TT.
Nguyễn Văn Thiệu ngày 31/5/1974 có câu viết:
“Có
nững tin tức rất “vô tư” như “Công Chúa Anh ngã ngựa”, một bản tin lấy tư thông
tấn xã UPI hay một bản tin đăng lại của Việt Tấn xã như: “Phụ nữ Quốc tế nghĩ
gì về Thanh niên Pháp”. Nhiều báo như Chính Luận, Bút Thép, Độc Lập, Sóng Thần
cũng đăng bài đó, nhưng không bị tịch thu.
Chúng
tôi bó buộc phải tự ý tạm đình bản từ ngày 31 tháng tám 1974 thỉnh cầu Chính phủ
giải quyết vấn đề một cách nghiêm chỉnh vì chính quyền ra lệnh tịch thu báo.
(Trích
tài liệu Ngày Công Lý và báo chí thọ nạn của báo Sóng Thần trong Vẽ Đường cho
Hươu chạy. Ibid) .
Chưa
bao giờ ở Sài gòn lại dấy lên ngọn lửa đấu tranh với nhiều thành phần tham dự,
nhiều tổ chức tham dự, nhiều chức sắc tôn giáo một cách tự phát như vậy.
Thật
chưa bao giờ. Nó như báo trước một biến cố kết thúc và hạ màn của một giai đoạn
sắp tới. Nó đặt mọi người trong tâm thức một báo động đỏ. Nó đại diện cho đủ mọi
khuôn mặt trong mọi giới.
Phía
Phật giáo có Thượng Tọa Quảng Độ, Đức Nhuận, Giác Đức. Phía Thiên Chúa giáo cóm
Linh mục Trần Hữu Thanh, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Phan Khắc Từ. Phía Quốc
Hội có Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, Tôn Ái Liêng, Tôn Thất Đính. Dân biểu Nguyễn Văn Ki,
Nguyễn Trọng Nho, Lê Tấn Trang, Võ Long Triều, Nguyễn Công Hoan. Phía Văn hữu
có LM Thanh Lãng, Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh, Nguyễn Thị Vinh. Các Nghị viên có
Nguyễn Đình Trị, Nguyễn Tấn Khang, Đoàn Kỉnh, Dương Văn Long.
Phía
luật sư có thể là đông nhất chỉ xin nêu một số vị như: luật sư Bùi Tường Chiểu,
Hồ Tri Châu, Nguyễn Phước Đại, Đặng Thị Tám, Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Văn Chức,
Đàm Quang Lâm, Đinh Thạch Bích, thủ lãnh luật sư đoàn ở Huế Lý Văn Hiệp.
Trong
ngày báo Sóng Thần ra tòa được gọi là ngày Công Lý thọ nạn - ngày 31-10-1974,
có tất cả 205 đứng nhận biện hộ cho Sóng Thần.
Bị
cáo đại diện cho Sóng Thần là bà Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái từ phòng luật sư
tiến sang phòng xử với một đoàn hộ tống đông đảo các luật sư).
Trên
báo chí, nhiều tít lớn chạy suốt cột báo như:
31/10
Ngày dài vô tận. Tâm thư của Lm Thanh cho Sóng Thần: Đập các anh là đập cả cả
chúng tôi. Hội chủ báo công bố quyết định số 3: Toàn thể báo chí VN đình bản, dốc
toàn lực yểm trợ Sóng Thần ra toà 31-10. 32 nhà văn, nhà thơ tên tuổi ký tên
chung tuyên bố phản đối báo chí, truy tố Sóng Thần. 60 phút công lý bị kẽm gai
bao phủ.
(Trích
tài liệu Ibid )
Đặc
biệt trong số luật sư nhậnn biện hộ cho Sóng Thần có luât sư Đặng Thị Tám. Bà
sinh năm 1939, tại Hải Phòng, tiến sĩ luật khoa Paris, giáo sự đại học luật
khoa Sài Gòn, gia nhập luật sư đoàn 1973.
Bà
có mối kết giao thâm tình với nhà văn Uyên Thao. Trước 1975, học trò trong giới
Hải quân đến mời bà di tản, bà đã từ chối vì đã chán cái cảnh sống ở Âu Châu thời
còn đi du học. Bà đã quyết đinh ở lại như trường hợp Uyên Thao. Sau này chẳng
hiểu bà có hối hận về quyết định này hay không? Cuộc sống của bà cũng gặp nhiều
nỗi truân chuyên, bất hạnh. Phi công Nguyễn Văn Cử đi học tập cải tạo về sống với
bà, nhưng khi sang Mỹ theo diện HO đã để bà ở lại.
Xin
được viết lại đôi dòng sinh hoạt tòa báo Sóng Thần sau lần bị tịch thu báo để độc
giả sống lại cái giai đoạn ấy.
17
giờ: Ủy Ban tiến đến nhà in Tân Minh, lực lượng an ninh đang vây quanh nhà in rất
gắt. Tiếng còi lệnh, tiếng gọi máy, tiếng ra lệnh hô hoán chưởi bởi nổi lên từ
hàng ngũ cảnh sát. Nhiều cấp cảnh sát cấp Trung Tá, đại tá có mặt ngồi trên các
xe chỉ huy. Đồng bào từ khu vườn chuối túa ra chặn xe. Có thêm 4 xe cam nhông cảnh
sát thường phục được tăng cường, đổ quân vây quanh đám biểu tình.
Vừa
thấy “viện binh” kéo đến, anh em Sóng Thần mở cửa nhà in đón tiếp, lực lượng an
ninh ùa vào. Mấy sĩ quan cảnh sát cũng nhảy xô vào dành dựt báo với dân chúng.
Các
vị linh mục, ni sư cản “ba người anh em” vây quanh linh mục Nguyễn Ngọc Lan.
khi cha ôm một chồng báo phát cho dân chúng. Một người 'giật cùi chỏ” cha Lan
té nhào xuống đất. Hai người khác nhào tới”sớt” chồng báo chạy ù về phía an
ninh. Cha Lan phóng theo, đồng báo áp vào, bên kia lực lượng cảnh sát báo động.
Người ta nghe những tiếng la lớn: đừng bắn, đừng bắn ..
Các
nhiếp ảnh viên, phóng viên truyền hình ngoại quốc vây quanh cha Nguyễn Ngọc Lan
vì cha nắm được một nhân viên an ninh, một trong ba người đã hành hung cha. Đồng
bào nhào tới, Linh mục Lan sợ “ người anh em” bị đòn hội chợ nên thả ra cho người
này chạy về phía lực lượng cảnh sát dàn hàng ngay tại cổng xe lửa góc đường Bùi
Chu- Hồng Thập Tự.
Tòa
soạn báo Sóng Thần sau những đợt tịch thu báo vẫn không sờn lòng. Một số Dân biểu
như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung, Nguyễn Văn Bình dựa vào quyền Bất khả xâm
phạm đến cơ sở ấn loát Tân Minh chất hàng chồng báo lên xe riêng của mỗi người
tình nguyện đi phát báo các khu phố để đồng bào có thể đọc được bản Cáo Trạng số
1 tố tham Nhũng của cha THT. Có cảnh xô sát và dằng co giữa dân biểu và cảnh
sát. Cuối cùng cảnh sát lên cò súng, các ông dân biểu phải nhường một bước để cảnh
sát tịch thu lại báo.
Uyên
Thao, người được mệnh danh là “mặt sắt đen sĩ”, ngồi thừ người trên ghế khi
nghĩ lại cái cảnh xô xát dành dựt báo chí ngày hôm qua. Báo Sóng Thần lại bị tịch
thu mặc dầu có sự cổ võ của các dân biểu tu sĩ.
Anh
cố làm vui, hâm nóng anh em bằng những lời khích lệ, nhưng chẳng ai có ý kiến.
Cả đến Tấn Typo cũng lo lắng ra mặt. Trong tòa soạn không khí căng thẳng mỗi
người một việc như Huy Tường, Vị Ý, Cũ Nghim, Trương Cam Vĩnh lui cui dán, kẻ
can trên tấm Report. Hà Thế Ruyệt -(Nghị Viên và cũng là người tổ chức buổi đốt
10 ngàn tờ Sóng Thần sau này để tờ báo không bị tịch thu-) . tới lúc 10 giờ và
phấn khởi nói. Anh em yên trí, chúng ta không cô đơn trong cuộcc dấn thân. Nhiều
bạn Đồng nghiệp sẽ đăng chuyện Sóng Thần ngày hôm qua và sẽ cùng đăng bản Cáo
trang số 1.
Và
công việc lại tiếp tục. Săn tin, chọn hình, đặt tít, sắp, dán, mise. Ông quản
lý thì áy náy vì quảng cáo kẹt lắm rồi.
Bữa
cơm trưa vẫn bà đưa cơm đó, vẫn dưa chua, vẫn canh cải vẫn mấy món cũ mà mọi
người như không nuốt nổi. Có cái gì nghẹn ngào, có cái gì vướng vào cổ, có cái
gì trục trặc trong bàn ăn, trong khắp các xó xỉnh tòa soạn. Niềm tin của TTK
Uyên Thao bơm vào không khí hình như không thấm được và không trấn an được ai
..
Buông
đôi đũa xuống, anh ra lệnh: “Thiệp trực tòa sọan. Điển lo tiếp khách. Hùng
Phong, Vĩnh Hải sang tăng cường với ông Vĩnh ở nhà in. Ông Lý Đại Nguyên cũng ở
bên đó tiếp khác dùm. Còn lại ai lo việc nấy. Hãy tỏ ra là coi được, Sóng Thần
không xệ. Đồng ý không?
Tất
nhiên Sóng Thần không xệ, nhưng cái niềm tin mong manh còn sót lại liệu có bị
tan vỡ như bong bóng trời mưa không?
(Trích
lại Ngày Công Lý và Báo chí thọ nạn. Tài liệu của Sóng Thần Ibid).
Cuối
năm 1974 báo Sóng Thần đóng cửa.
Đỗ
Ngọc Yến đang làm Sóng Thần xin sang giúp tờ Đại Dân Tộc của nhóm Võ Long Triều
gặp Uyên Thao nói: “Các anh phải hồng hồng một chút xíu, anh chống Cộng thế này
thì sao sống được.”
-
Đỗ Ngọc Yến có thể làm cho CIA, mình sao biết được.
Tôi
(anh Uyên Thao) vỗ vai nó nói: “tao chống Cộng đến sáng.”
-
Sau khi Sóng Thần đóng cửa thì anh làm gì?
-
Chẳng làm gì cả. Vì người ta nghĩ rằng chuyện Chống Cộng không cần thiết nữa.
Báo
hại các Thầy Thiện Hải, Đức Nhuận đã đến lúc lại phải chở gạo và các thứ đến
nhà Uyên Thao đều đều. Phần vợ anh lại ra tay đi giao hàng, buôn bán thêm để
nuôi sống gia đình như bà Tú Xương mất.
Nhìn
lại hình ảnh và tài liệu minh chứng thì đây là một biễu diễn dân chủ ngoạn mục
tiêu biểu nhất của chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa và tất cả những ai đã từng tham gia
cách này cách nọ, trực tiếp hay gián tiếp trong phong trào này đều có quyền
hãnh diện. Những người như Linh mục Trần Hữu Thanh được gọi là “Cha già dân tộc”.
Nhìn
lại những giai đoạn tranh đấu hào hùng này, đánh dấu một chặng đường làm báo với
giấy bút lầm than. Anh Uyên Thao vẫn nghĩ rằng việc làm lúc bấy giờ là đúng là
bắt buộc phải làm như vậy.
Có
thể đây là điểm duy nhất tôi không hoàn toàn đồng ý với anh Uyên Thao xét theo
bối cảnh chính trị lúc bấy giờ. Ngày 31 tháng 10, 1974 - ngày báo chí thọ nạn -
cho thấy chỉ còn đúng 6 tháng nữa làm toàn miền Nam bị rơi vào tay cộng sản.
Nếu
có kẻ vẽ đường cho Hươu chạy thì Huơu cuối cùng sẽ rơi vào một cái bẫy sập. Ai
là Bẫy sập? Anh Uyên Thao nhìn nhận là biết nhiều bọn cán bộ cộng sản trà trộn
trong hàng ngũ người Quốc Gia, nhưng để nguyên. Trường hợp Vũ Hạnh ai cũng biết.
Trường hợp Nguyễn Nguyên cũng vậy. Và năm 1980 khi anh đi học tập về gặp một số
nhân viên báo Sóng Thần là những cấp chỉ huy ở quận năm. Bọn chúng nói với Uyên
Thao là xin vào làm Sóng Thần để phá Sóng Thần.
Sau
ngày 30/10, vẫn còn có những buổi đêm canh thức, đốt nến, đốt đuốc cầu nguyện.
Và chẳng bao lâu sau, tháng Ba, 1975, tin Ban Mê Thuột bị mất.
Tin
này đã làm tắt tiếng tất cả những phong trào đấu tranh. Biến cố này làm cho các
phong trào đấu tranh, đặc biệt PTNDCTN rơi vào tình cảnh không biết xử trí ra
sao: Chẳng lẽ trong tình thế mất còn như thế này mà còn tiếp tục chống ông Thiệu?
Trong
Lịch sử ngàn người viết, tâm sự của Nguyên Sa cho thấy cái phi lý của cuộc rút
quân này trong một tình thế hoang mang cực độ.
Nguyễn
văn Trung tóm tắt giai đoạn này một cách khá trung thực là giai đoạn: Vẽ đường
cho Hươi chạy. Vì đâu nên nỗi mất miền Nam. Vì đâu Nguyên Sa choáng váng khi mất
Ban Mê Thuột!
Lúc
Phước Long mất, một bữa ăn uống ở nhà đại tướng Dương Văn Minh. Anh Uyên Thao kể
lại là ông Minh trò chuyện đã yêu cầu: các anh phải xét lại quan điểm chống Cộng,
vì người ta đã tính bỏ Cao Nguyên rồi.
Nghe
thế, anh Uyên Thao nghĩ rằng nếu bỏ Cao Nguyên thì kể như miền Nam bị mất luôn.
Thật
sự nghĩ lại cũng khó quy trách cho ai. Vì lịch sử của một ngàn lời ca trong đó
có những người ca lỗi nhịp.
Về
Phong trào chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh có bàn tay của Mỹ không? Hai
cựu dân biểu cánh tay mặt của Lm Thanh khẳng định với tôi qua điện thoại là
không có chuyện đó. Có thì họ phải được biết.
Thế
nhưng, những tài liệu chống TT Nguyễn Văn Thiệu ai là người cung cấp cho Lm
Thanh? Chính Lm Thanh phân phát một tài liệu, ký tên Broqueto phúc trình phê
phán mạnh mẽ ông Thiệu cho các linh mục khác, sau cùng chính ông nhìn nhận
không có linh mục nào tên Broqueto cả.
Nhưng
nếu tin vào một người bạn của Lm Thanh, một người bạn mà Lm Thanh đã viết như
sau khi Lm Thanh bị bắt.
“Không
biết anh có ái ngại gì vì tôi bị bắt sau khi được anh mời cơm tối ở nhà anh
không. Tôi ra đường Hiền Vương thì thấy các xe xích lô khác giang ra, chỉ còn một
chiếc tôi leo lên xe để về Nhà Dòng. Chiếc xe mới toanh tôi xin ông tài đạp
nhanh nhanh lên, ông cứ tà tà. Lúc quẹo đường Đoàn Thị Điểm thì có công an chạy
theo, chặn lại và lúc nhìn rõ mặt, bảo tôi đi theo về quận ba, rồi xe jeep đưa
đến an ninh nội chính. Tôi nghĩ nhà nước không muốn đến bắt tại nhà Dòng sợ gây
xôn xao nên bắt giữa đường vậy thôi vì sau đó nhiều cha khác cũng bị bắt như vậy.”
Trích
thư riêng gửi cho người bạn vào ngày 18 tháng 10, 1979.
Lm
Thanh bị bắt vào đầu năm 1977. Hồ sơ chống Tham Nhũng cũng được giao cho người
bạn này giữ và Lm Thanh có cho biết người Mỹ đã đến tiếp xúc với ông và khuyên
cha nên đứng ra làm chuyện này. Và ông đã làm.
Tôi
có gặp Lm Thanh năm 2006, linh mục cũng say sưa nói về giai đoạn này. Nhưng
chuyện có người Mỹ nhúng tay vào hay không, ông không nói. Có thể tôi không đủ
mức tin cẩn để ông nói về vấn đề tế nhị ấy. Nếu tin vào điều tiết lộ của người
bạn Lm Thanh thì phong trào chống Tham Nhũng của Lm Thanh chỉ là một dạng khác
của vụ tranh đấu Phật giáo 1963.
Tranh
đấu Phật giáo năm 1963 hay Tranh đấu chống tham nhũng 1974 chống TT Nguyễn Văn
Thiệu đều có một kẻ đứng ra “vẽ đường cho Hươu chạy”? Người Mỹ phải chăng là kẻ
vẽ đường cho Hươu chạy?
Nhận
đinh về Ngày ký giả đi ăn mày, anh Uyên Thao cho rằng nó chẳng ra làm sao cả.
Các ông chủ báo và Nghiệp đoàn ký giả đang ngồi hội họp với nhau để chọn danh
xưng thì ký giả Lê Thiệp báo Sóng Thần đi qua. Lê Thiệp bảo “thì cứ gọi mẹ nó
là Ngày ký giả đi ăn mày”. Nói xong anh bỏ đi một nước. Thế là thấy hay hay, mọi
người đồng ý gọi là ngày ký giả đi ăn mày.
Ngày
hôm sau dẫn đầu là Lm Thanh Lãng, Lm Nguyễn Quang Lãm, ông Hồ Hữu Tường, đội
nón cầm gậy đi trên đường phố Sài Gòn. Và cũng theo anh Uyên Thao, câu chuyện
Ngày ký giả đi ăn mày diễn ra chỉ trong khoảng một tiếng đồng hồ rồi chấm dứt!
Nó chỉ có thế thôi.
Hai
Nghiệp đoàn báo chí đã đi lạc hướng hết. Các ông ấy không nắm được và cũng
không nghĩ ra được mục tiêu đấu tranh là gì. Cộng sản cũng lợi dụng trà trộn
vào.
Ngày
hôm nay, rất nhiều người tham dự vào Phong Trào Nhân Dân chống tham nhũng cũng
như Ngày Ký giả đi ăn mày và Ngày Công Lý thọ nạn, chúng ta có cần viết lại điều
đó để rút ra được bài học gì với tư cách người trong cuộc .
Lịch
sử của ngàn lời ca. Nhưng lời ca nào của Trịnh Công Sơn, của Thích Nhất Hạnh, của
Nguyễn Ngoc Lan, của Huỳnh Công Minh, của Phan Khắc Từ, của Lý Chánh Trung, của
Hoàng Phủ Ngọc Tường- Nguyễn Đắc Xuân, của Hồ Ngọc Nhuận. Và lời ca nào là của
chúng ta?
Và
hôm nay là lời ca của ai?
Uyên
Thao và những chọn lựa cuối cùng trước 1975 và hoàn cảnh của người tù trong
gông cùm cộng sản
Biến
cố 1975 đã làm thay đổi diện mạo miền Nam, dập tắt tất cả những cao trào tranh
đấu dân chủ và công bằng xã hội xảy ra trước đó. Hầu hết mọi người bất kể từ
phía nào đều quyết định ra đi nếu có điều kiện. Ván bài đã lật ngửa rồi còn có
gì để chơi, dù là chơi tháu cáy.
Phần
Uyên Thao, anh quyết định ở lại, dù có phương tiện di tản. Chu Tấn, một phi
công lái máy bay từ Cần Thơ về rủ anh đi cùng. Anh không đi. Chu Tấn cũng quyết
định không đi. Anh ân hận về việc này. Chu Tấn bị 10 năm tù cải tạo.
Một
trường hợp khác liên quan đến luật sư Tám. Uyên Thao nói với luật sư Tám.Tôi
không đi, quyết định ở lại. Luật sư Tám nói: em cũng không đi. Bà vừa nói vừa
khóc: Em đã quá mệt mỏi trong thời gian sống ở ngoại quốc rồi. Bà muốn về quê ở.
Những ngày cuối cùng của VNCH, anh Uyên Thao đến ở nhà bà Nguyễn Thị Tám, nhà
ngay trước dinh Độc Lập.
Tôi
có hỏi lý do tại sao không đi? Anh trả lời rất Uyên Thao, chúng nó đi hết rồi
thì còn ai ở lại. Tôi có nói với bọn Trần Phong Vũ và nghĩ lầm rằng ít nhất
cũng còn 5, 6 tháng, nếu đi hết thì còn ai. Và cho dù Cộng sản có chiếm được miền
Nam thì họ cũng trúng độc và bị tha hóa.
Sau
đó tôi đã không đi trình diện.
Công
an đến nhà nói, “chúng tôi có lệnh bắt ông.”
-
Anh đi học tập với tư cách gì? Sĩ quan hay công chức cao cấp hay nhà báo?
-Tư
cách gì hả, tư cách tôi là một thằng phản động.
Anh
Uyên Thao kể tiếp, “Hai năm đầu bị biệt giam ở Tổng Nha Cảnh sát. Đến năm 1977
thì bị đưa ra Bắc tại K3.”
-
Với vóc dáng và sức của anh, làm sao anh chịu đựng nổi những ngày tháng biệt
giam.
-
Vậy mà chịu đựng nổi đấy.
-Rồi
sau đó, lý do nào anh được thả?
-
Thả về thì biết được thả về. Nhưng cán bộ vẫn cảnh báo, “anh coi chừng, anh vẫn
có thể bị bắt tù trở lại.”
-Ra
tù thì anh làm gì?
-
Ngày hai lần lên trình diện công an. Sáng một lần và chiều một lần về việc làm
trong ngày. Y như đi xưng tội mấy ông cha vậy.
-Sau
đó có trung tá Mục đi sang Mỹ nhường cho cái xe bán cà rem ở các công viên.
Cán
bộ cấm không cho bán cà rem. Tôi hỏi họ: “Không cho bán cà rem thì tôi làm gì để
sống?” Cán bộ, “Này, anh đừng dở cái giọng đó ra với bọn tôi nhé. Tôi tha bắn
cho các anh là phúc rồi.”
-Sau
đó, anh làm gì?
-Lúc
đó đang ở chùa vì nó trục xuất không cho về nhà. Rồi đi theo một ông đại tá bới
rác ở Hạnh Thông Tây, đi kiếm xương bò về bán cho các cơ xưởng chế thức ăn cho
gia súc. Mỗi lần bán xong thì đủ tiền mua thuốc hay một khúc bánh mì.
Cứ
như thế cho mãi đến năm 1988 mới được về nhà với vợ con và không còn phải mỗi
ngày bá cáo nữa. Vợ phải đi bán bún riêu thì nay ở nhà phụ một tay, giúp các việc
lặt vặt.
-
Rồi sau này tại sao anh không nộp đơn được đi theo diện HO?
-
Chẳng tại sao cả. Tôi không nộp đơn, vì thấy các ông HO hung hăng thích thú quá
mức. Năm 1994 thì chương trình đoàn tụ chấm dứt, đóng cửa.
-
Vậy làm thế nào anh lại có thể sang Mỹ vào năm 1999?
-
Tất cả công việc này do bà Khúc Minh Thơ phối hợp với Bộ Ngoại giao Mỹ. Và họ
đã đứng ra bảo lãnh cho tôi mặc dầu tôi không được quen biết với bà Khúc Minh
Thơ. (Bà Khúc Minh Thơ là chủ tịch Hội Tù Nhân Chính trị và chương trình
Humanitarian Operation).
Nghĩ
lại số anh Uyên Thao lúc nào cũng có quới nhân phù trợ dù anh cứ đi ngược dòng!
Sang
Mỹ vào một thời điểm đã quá muộn, 1999, để có thể làm một điều gì cho bản thân
cũng như cho Cộng Đồng. Về bản thân anh Uyên Thao vốn thân xác gầy còm ốm yếu cộng
thêm những năm tù tội cộng sản làm anh đuối rồi.
Cùng
lắm sống tuổi già ra quán cà phê, ngồi tán dóc với bạn bè hay chửi đổng.
Vậy
mà bằng cách nào Uyên Thao đã làm nên chuyện!
Sang
năm 1999, năm 2000, Tủ sách Tiếng Quê Hương ra đời. Tủ sách Tiếng Quê Hương đã
ra đời, quy tụ nhiều tên tuổi chung quanh anh như Minh Võ, Trần Phong Vũ, Lê
Thiệp, Đàm Quang Lâm, Hoàng Hải Thủy, Thái Thủy, Hà Thế Ruyệt, Hồng Dương,
Hoàng Song Liêm, Phan Diên, Vũ Ánh, Trịnh Đình Thắng, Lã Huy Quý, Hoàng Ngọc
Liên, Thanh Thương Hoàng, Trùng Dương, Phùng Thị Hạnh, Lê Phú Nhuận, Nguyễn
Thiên Ân, Chu Tấn, Nguyễn Tuyên, Nguyễn Hữu Diên, Việt Dương, Trương Cam Vĩnh,
Xuân Bích, Phạm Quốc Bảo, Phạm Trần, Đặng Đình Khiết, Dư Thị Diễm Buồn, Phó Hồng
Hà, Mạc Ly Hương ...
Tôi
gợi nhớ đến giai đoạn của Sóng Thần mà một số tên tuổi thời đó còn sót lại. Anh
Uyên Thao phải chăng là điểm quy tụ Oméga của những người có lòng với những lý
tưởng chung. Tiếng Quê Hương là tiếng của mọi người, từ trong nước ra hải ngoại.
Nguyễn Thụy Long, Văn Quang, Tạ Duy Anh, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải có mặt từ trong
nước gửi ra.
Và
dĩ nhiên vô số các tác giả ở hải ngoại. Nay Tiếng Quê Hương được kể là nhà xuất
bản phát hành sách đều đặn nhất và có chọn lọc.
Tôi
cũng có hân hạnh được Tiếng Quê Hương chọn và xuất bản cuốn “20 năm miền Nam”.
Trong tâm sự, anh Uyên Thao bày tỏ một sự kiên nhẫn phi thường nói là anh rất vất
vả vì cuốn sách của tôi với đống tài liệu ngổn ngang và đã rất vất vả, vì có
bài anh để ra 10 lần để đọc và edited lại.
Xin
ghi lại một lời cảm tạ.
Tiếng Quê Hương hoạt động mạnh là nhờ
vào hai người. Người đọc và edited lại là anh Uyên Thao. Và người thứ hai là
anh Trần Phong Vũ, lo in ấn, phát hành trên khắp nơi. Không có sự phối hợp nhịp
nhàng và ăn ý ấy thì mọi chuyện đã không thành ..
Hai anh đều là người đã luống tuổi, ai sẽ
là người tiếp nối công việc của các anh? Đó là câu hỏi đặt ra cho Tiếng Quê
Hương và cho tất cả các sinh hoạt khác của Cộng Đồng người việt Hải ngoại?
Comments
Post a Comment