Chủ Trương Phòng Thủ Nam Việt Nam Của Hoa Kỳ
Trong cuộc chiến từ 1954
đến 1975, chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam
thay đổi tùy hoàn cảnh, tủy quyền lợi và tùy sự chọn lựa của dân
chúng Hoa Kỳ qua các đời tổng thống khác nhau, nhưng suốt trong cuộc chiến,
quân đội Hoa Kỳ theo một chủ trương không thay đổi, là
chỉ phòng thủ Nam Việt Nam
(NVN), không đưa bộ binh tiến đánh Bắc Việt Nam (BVN), ngoại trừ việc gởi phi cơ tấn
công các căn cứ quân sự BVN.
CHỦ
TRƯƠNG PHÒNG THỦ NAM VIỆT
NAM
Trong chiến tranh
Triều Tiên (1950-1953), Hoa Kỳ áp dụng
chiến lược tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều
Tiên, tức lấy công làm thủ. Khi can thiệp vào
Việt Nam, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến
tranh Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War,
1954-1965, Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) Vì vậy, lần nầy Hoa
Kỳ chủ trương giúp Nam Việt Nam (NVN) phòng thủ tại chỗ, chứ Hoa
Kỳ không dùng bộ binh tấn công BVN, tránh khiêu khích Trung Cộng,
nghĩa là Hoa Kỳ không đánh bắc thủ nam như ở Triều Tiên.
Phòng thủ một
vùng đất rộng lớn nhiều rừng núi như NVN rất khó
khăn, nhứt là để đối phó với chiến tranh du kích. Du kích là lối
đánh quy mô nhỏ, không sắp thành trận tuyến, di
động nhanh chóng, bất ngờ đánh nơi nầy,
phá nơi khác , không theo quy ước nhất định, trà trộn
trong quần chúng và dựa vào quần chúng để được che
chở. Du kích cộng sản (CS) hoạt động khắp nước,
núp trong bóng tối, khi ẩn khi hiện, nên khó có đối sách hữu hiệu
tiêu diệt du kích. Muốn chống du kích là phải chận đứng nguồn tiếp tế cho
du kích. Cần chú ý thêm, một dân quân du kích CS không cần huấn luyện
chính quy dài ngày, không cần quân trang, quân dụng, quân phục, võ
khí đầy đủ theo kiểu hiện đại.
Nguồn tiếp tế võ khí cho du kích CS ở NVN
đến từ hậu cứ của CS là BVN. Nếu không đánh BVN, thì nguồn võ
khí từ BVN cứ liên tục chuyển mãi vào NVN cho du kích CS ở khắp NVN
qua nhiều đường như đường Trường Sơn, đường Lào, đường Cambodia, đường biển. Vì
vậy không thể nào tiêu diệt được du
kích CS trên toàn cõi NVN nếu không chận đường tiếp tế võ khí từ BVN.
Đô đốc Ulysses Simpson Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng
Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (từ 1964 đến1968)
đã tiết lộ: “Chính phủ
chúng ta [Hoa Kỳ] lập lại rõ ràng nhiều
lần rằng các mục
tiêu tranh chấp ở Việt
Nam rất giới hạn.
Chúng ta không được tiêu diệt chế
độ Hà Nội, không cưỡng
ép dân chúng Bắc Việt Nam phải
thay đổi nhà cầm quyền,
và không tàn phá Bắc Việt Nam. Chúng ta chỉ
đơn giản muốn
Bắc Việt Nam ngừng
điều khiển và yểm
trợ Việt cộng
nổi dậy ở
trong Nam và đưa lực lượng
Bắc Việt Nam trở
ra Bắc. Chiến lược
điều khiển chiến
tranh của chúng ta phản
ảnh những mục
tiêu giới hạn trên đây.” Nguyên
văn: “Our Government has repeatedly made it clear that our objectives
in the Vietnam conflict are limited. We are not out to destroy the Hanoi
regime, or to compel the people of North Vietnam to adopt another form of
government, nor are we out to devastate North Vietnam. We simply want North
Vietnam to cease its direction and support of the Vietcong insurgency in the
South and take its forces home. Our strategy for the conduct of the war
reflects these limited objectives.” (William D. Pawley & Richard
R. Tryon, Jr., Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in
1990,http://www.gratisbooks.com/.)
Đáng chú ý là ngày 30-4-1964, ngoại trưởng
Hoa Kỳ Dean Rusk nhờ J. Blair Seaborn, trưởng đoàn đại diện
Canada trong Ủy ban Kiểm soát Quốc tế (International Control
Commission), báo cho Hà Nội biết chủ trương trên đây của Hoa Kỳ và đề nghị Hà Nội ngưng ủng hộ CS
miền Nam để đổi lấy viện trợ kinh tế. Seaborn trình bày lại cho Phạm Văn
Đồng, thủ tướng BVN ngày 18-6-1964, nhưng BVN không chấp nhận.
(John S. Bowman (tổng biên tập), The Vietnam War, Day by Day,
New York: Maillard Press, 1989, tr. 37. Mark Moyar, sđd. tr.
307.)
QUY TẮC
THAM CHIẾN
Do chiến lược
phòng thủ NVN, Hoa Kỳ chủ trương chiến
tranh giới hạn (limited war), không dùng bộ binh
tấn công BVN, tránh sự can thiệp của
Trung Cộng như vụ Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ còn buộc quân
đội của mình phải tuân thủ những
quy tắc tham chiến (rules of engagement) tức những
quy tắc ứng xử khi lâm chiến, như một thứ cẩm nang chiến
tranh. Những quy tắc tham chiến nhắm hai mục
đích chính: 1) Giới hạn sự hủy hoại tài sản và thương vong của những người không ở vị trí
chiến đấu. 2) Đặc biệt trong những cuộc chiến không có giới tuyến rõ
ràng như ở Việt Nam, tránh bắn hay tấn
công lầm vào các đơn vị bạn. (Spencer C. Tucker, Editor,
Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History,
Volume two, Santa Barbara, California: ABC-CLIO, 1998, tt. 625-626.)
Riêng tại Việt
Nam, những quy tắc tham chiến còn nhằm
ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến có thể làm bùng nổ những tranh chấp bất ngờ ở vùng
biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự (vĩ tuyến
17), nhất là do những hoạt động của Không quân. (Spencer C. Tucker,
sđd, tt. 625-626.)
Những quy tắc nầy do
bộ Quốc phòng soạn thảo, thêm bớt tùy
hoàn cảnh và giai đoạn, quy định những hạn chế phức tạp mà
quân đội Hoa Kỳ phải tuân hành ở các nước
Đông Dương.(J. Terry Emerson, How Rules of Engagemnet
Lost Vietnam War, Human Events, Vol. 45, No. 20, May 18, 1985.)
Những quy tắc
tham chiến được đề cập trong hồ sơ của quốc hội Hoa Kỳ, ghi lại những
phát biểu của thượng nghị sĩ Barry Goldwater, đảng Cộng Hòa, tiểu
bang Arizona, nhiệm kỳ 1953-1965 và 1969-1987, ứng cử viên
tổng thống, đại diện đảng Cộng Hòa năm 1964, đặc biệt những phát biểu của
Goldwater năm 1985, trong Congressional Record-Senate, nhiều số liên
tiếp. (Heinonline, Citation: 131 Cong.Res; http://heinonline.org)
Lúc đầu (thời tổng thống
Kennedy), trước năm 1965, những Quy tắc
tham chiến giới hạn các cuộc tấn công của máy bay Hoa Kỳ như phi công Hoa Kỳ không được
phép dội bom các dàn hỏa tiễn Sam do Liên Xô chế tạo đang được xây
dựng, và chỉ có thể tấn
công khi các dàn hỏa tiễn nầy hoạt động. Phi công và lực lượng trên bộ
không được phép phá hủy các phi cơ CS
đang đậu trên mặt đất mà chỉ được phép tấn công các phi cơ có võ trang và nguy hiểm
trên không.
Quân đội Hoa Kỳ chỉ được tấn
công những xe vận tải CS khi đang di chuyển trên đường lộ, nhưng
không được tấn công những bãi đậu xe ở cách
xa lộ 200 yards (khoảng 182 mét). Phi công Hoa Kỳ phải lơ qua
đối với tàu bè đang trên đường tới cảng Hải Phòng dầu những
chiếc tàu nầy
chuyên chở võ khí có thể được dùng để giết
quân đội Hoa Kỳ. (http://centerformoralliberalism.wordpress.com/2009/11/11/why-we-lost-in-vietnam-the-untold-story/<http://centerformoralliberalism.wordpress.com/%202009/11/11/why-we-lost-in-vietnam-the-untold-story/> Steve
Farrell, “Why we lost in Vietnam – The Untold Story”, The Moral
Liberal, November 11, 1989.)
Về sau, qua thời tổng thống
Lyndon B. Johnson, khi chiến dịch Rolling Thunder bắt đầu oanh tạc
BVN, phi công Hoa Kỳ được nới rộng phần nào từ ngày 21-8-1965. Khác với trước đây, từ ngày
nầy, phi công Hoa Kỳ được phá hủy những
dàn hỏa tiễn Liên Xô mà phi công thấy được trong các chuyến bay
không kích BVN. Điều nầy có thể gây thương vong cho quân nhân Liên Xô. (John S. Bowman, sđd. tr.
93.
Ai vi phạm quy
tắc tham chiến sẽ bị trừng phạt tùy theo mức độ. Ví
dụ đại tướng John Daniel Lavelle, chỉ huy Không lực Hoa
Kỳ tại Việt Nam, bị cất chức tháng 3-1972, hạ hai cấp và
về hưu vì ông đã ra lệnh oanh kích những mục
tiêu giới hạn, không được quyền oanh kích. (John
S. Bowman, sđd. tr.198.) Những quy tắc tham chiến hạn chế các mục
tiêu tấn công và hạn chế nhiều nhất các hoạt động của
không lực Hoa Kỳ, giới hạn việc oanh kích, tránh xa vùng biên giới Hoa
Việt.
Trong chiến
tranh hiện đại, quan trọng nhất ở chiến trường là hỏa lực yểm trợ.
Quân đội CS dựa trên hỏa lực yểm trợ của xe tăng, thiết giáp. Quân đội Hoa
Kỳ dựa trên hỏa lực yểm trợ của không quân. Các quân chủng Hoa Kỳ đều có
riêng những phi đội chiến đấu hay oanh tạc. (Ngoài Không quân, Bộ Binh
và Hải quân đều có phi cơ.)
Quy tắc
tham chiến giới hạn hoạt động của phi cơ, sẽ giới hạn toàn bộ hỏa lực yểm trợ, làm giảm sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. Tác giả Steve Farrell, trong sách Why We
Lost in Vietnam – The Untold Story, cho rằng “These
rules insured that we could not win and that the communists could not lose.” (Tạm dịch: “Những
quy tắc nầy bảo
đảm rằng quân đội
chúng ta [Hoa Kỳ] không thể thắng
mà cộng sản không thể
thua.” (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam – The Untold Story,
University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal.)
Barry Goldwater, thượng
nghị sĩ đảng Cộng Hòa bang Arizona, gọi đây là “no win
policy” (chính sách không thắng). (The Bryan Times, Thursday
April 17, 1975, tr. 6. http://news.google.com/newspapers.)
HOA KỲ NGĂN CHẬN
CHỦ TRƯƠNG BẮC
TIẾN
Đánh rắn phải
đánh đầu. Bứng cây phải đào tận gốc. Muốn dẹp du
kích CS tại NVN, thì phải tấn công sào huyệt của du
kích ở BVN, chận đứng hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp tế võ khí liên tục của CS, và buộc BVN
từ bỏ cuộc tấn công NVN. Nếu không đánh BVN, CS ở NVN
liên tục được tiếp liệu về võ khí, kinh tế và cả cán bộ, bộ đội, và
nhờ thế CS cứ tiếp tục chiến tranh du kích không ngừng nghỉ, hết chỗ nầy đến chỗ
khác.
Các tướng
lãnh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) thấy rõ điều nầy và
nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui
về phòng ngự đất Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền
Nam, hoặc dựa vào đó để thương thuyết với CS,
buộc CSBVN chấm dứt tiếp tế du kích miền
Nam, như liên quân LHQ đã làm ở Triều Tiên.
Tuy nhiên Hoa Kỳ chủ trương
chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc tiến,
không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng
ngay các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH. Sau đây có thể kể vài ví dụ:
Ngày 4-5-1964, trung tướng
Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ Cabot Lodge mở rộng
chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force – Office of
the Secretary of Defence, United States – Vietnam Relations 1945-1967,
Washington D.C.: 2011. Part IV. C. 1., p. a-7.) Trong cuộc
mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến. (John S. Bowman, The Vietnam
War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt. 42.) Kết quả,
Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra
nước ngoài làm đại sứ. Không biết Hoa
Kỳ có nhúng tay vào vụ nầy hay không?
Ngày 1-12-1965, trung tướng
Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật
kiêm tư lệnh Quân đoàn I (giáp ranh với
BVN) viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến. Tướng
Thi cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm
sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.) Tướng
Thi sau đó bị cách chức vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung, và cũng được đưa qua
Hoa Kỳ chữa bệnh “thối
mũi”.
Theo hồi ký
của cựu đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng
tham mưu trưởng quân lực VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra
một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên
Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình). Tuy nhiên kế hoạch nầy
không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những
ngày cuối của Việt Nam
Cộng Hòa, Washington D.C.: Vietnambibliography, 2003, tr.
288.)
Cũng trong năm 1966, nhận thấy
quân BVN tiến qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh Quảng Trị, tư lệnh
quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng
William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến
KANZUS, chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và
bảo vệ miền Nam Việt Nam. KANZUS viết tắt của các chữ
Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại sứ các nước nầy tại Sài
Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch KANZUS bị
Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York:
Da Capo Press, 1989, tr. 197.) Westmoreland không giải
thích vì sao chính phủ Hoa Kỳ từ chối. Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây
sự hiểu lầm về sự hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự?
Khi mở cuộc
hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn
tiến qua phía bắc vĩ tuyến 17
như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp thuận.
(Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter , Hồ sơ mật
dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm
xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)
Trong mùa hè đỏ lửa năm
1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn
công VNCH. Viện dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra
đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe dọa hậu cứ địch,
nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến
quân ra BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh
20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn
pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương
khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết
giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Cuối năm
1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.
Về Không quân, ban đầu Hoa
Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho
Không quân VNCH. Trong năm 1965, khi mở màn tấn
công BVN, các phi công VNCH lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và
AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà
Tĩnh, rồi lại phải quay về liền. Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra BVN nữa.
Khi cung cấp phản lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung
cấp loại phản lực F-5 và A-37, chứa nhiên liệu ít,
nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được, để khỏi tấn
công đất Bắc.
Rõ ràng vì chủ trương “chiến
tranh giới hạn”, Hoa Kỳ
không chấp nhận tất cả những kế hoạch tấn công BVN bằng bộ binh như ở Triều
Tiên. Nếu không tấn công hậu cứ CSVN
ở BVN để CSVN
lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn du
kích ở miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của
CSVN, để CSVN phải chấm dứt những trận đánh lớn trên khắp NVN. Các tướng
lãnh cầm quân Hoa Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù
được tăng cường tối đa và được trang bị tối
tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận đứng
chiến tranh du kích của CSVN.
HOA KỲ LUI QUÂN
Trong khi chiến
tranh đang diễn ra, hai yếu tố mới xuất hiện: 1)
Phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ càng ngày càng hoạt động mạnh mẽ, đòi chấm dứt chiến
tranh, rút thân nhân về nước. Phong trào phản chiến gây xáo trộn xã
hội Hoa Kỳ không ít trong một thời gian dài 2) Sự rạn nứt giữa hai
cường quốc CS là Liên Xô và Trung Cộng
càng ngày càng trầm trọng; cao điểm là chiến
tranh biên giới Nga-Hoa ngắn ngày tại
vùng đông bắc Trung Hoa trên sông Ussuri (Ô Tô Lý Giang), bùng nổ ngày
2-3-1969.
Sau khi Richard Nixon cầm quyền
ngày 20-1-1969, trong niên khóa 1969-1970, xảy ra
1,800 cuộc biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt
phá, 462 người bị thương mà hai phần ba (2/3) là cảnh
sát và 8 người chết. Nạn bạo động trở thành một bệnh dịch trên toàn quốc HK. Từ
tháng 1-1969 đến tháng 2-1970 có 40,000 vụ ném bom, hay âm mưu ném
bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến tranh, gây thiệt hại 21
triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết.
(Richard Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)
Nixon đưa ra
kế hoạch “Việt
Nam hóa chiến tranh”, chuyển
giao công việc chiến đấu chống CS cho quân đội NVN và Hoa Kỳ rút quân Hoa Kỳ về nước.
Hoa Kỳ cũng giảm thiểu gần như chấm dứt viện trợ cho NVN. Phong trào phản chiến từ từ giảm dần cho đến khi
Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris với CSVN ngày 27-1-1973.
Trong khi đó, nhận ra
được sự mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, Hoa Kỳ bỏ rơi
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và bỏ rơi Việt Nam Cộng
Hòa (NVN), bắt tay với Trung Cộng năm 1971, và nhờ
Trung Cộng áp lực BVN ký hiệp định Paris, để Hoa
Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, mà BVN vẫn lưu quân tiếp tục ở lại NVN
và tiếp tục tấn công VNCH.
Vì tham vọng
quyền lực, bành trướng chủ nghĩa, cộng sản BVN
được sự viện trợ to lớn của Trung Cộng, Liên Xô và khối CS,
động binh quyết đánh chiếm
NVN. Nam Việt Nam không đủ sức chống đỡ cả khối CS,
phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và đồng minh. Tuy nhiên, khi cần thì
Hoa Kỳ đến, tung hô NVN là “tiền
đồn thế giới
tự do”. Khi không cần thì Hoa Kỳ bỏ cuộc ra
đi.
Sau hiệp định
Paris (27-01-1973), NVN một mình can đảm tiếp tục chiến đấu chống lại cả khối CS
đang dồn sức cho BVN tấn công NVN, thì bộ trưởng
Ngoại giao của Hoa Kỳ là Henry Kissinger lại còn
trù ẻo NVN: “Tại
sao họ không chết lẹ
đi cho rồi? Điều tệ
nhất có thể xảy
ra là họ cứ sống
dai dẳng hoài.”(Lời của Henry Kissinger nói với Ron
Nessen. Ron Nessen thuật lại trong sách It Sure Looks Different from the Inside,
Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 98. Nguyễn Tiến Hưng trích dẫn, Hồ sơ mật
dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, INC., 1987, tr.
512.).
Cuối cùng, vì thiếu võ khí, đạn dược,
nhiên liệu, NVN sụp đổ ngày 30-4-1975.
KẾT
LUẬN
Nói chung, chính sách của Hoa
Kỳ dưới thời bất cứ tổng thống nào cũng chỉ phục vụ quyền lợi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ can thiệp vào
NVN để giúp NVN chống lại BVN, nhằm
ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa CS, nhứt là
sự bành trướng của Trung Cộng xuống Đông Nam Á. Đây là cách Hoa Kỳ
phòng thủ từ xa để CS không lây lan rộng lớn và lây lan sang tận Mỹ Châu.
Do kinh nghiệm chiến
tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ quan ngại sự can thiệp của
Trung Cộng nên Hoa Kỳ chỉ giúp NVN phòng thủ ở NVN,
không đưa bộ binh tiến ra BVN. Chỉ khi cần,
Hoa Kỳ gởi phi cơ oanh tạc các mục tiêu quân sự ở BVN. Chẳng những thế, Hoa
Kỳ còn ngăn cản sáng kiến của các tướng
lãnh VNCH bắc tiến để chận đứng CS miền Bắc tiếp tế cho du kích CS miền Nam. Không đánh BVN để chận đường tiếp tế cho
du kích CS, mà chỉ phòng thủ NVN thì không thể diệt hết du
kích được.
Chủ trương phòng thủ ở NVN,
quân đội Hoa Kỳ có thể chiến thắng từng trận một, từng nhóm du kích địa phương,
mà không tiêu diệt được du kích trên toàn quốc,
không ngăn chận được làn sóng CS đúng như mục đích ban đầu.
Trong khi đó, số tử vong mỗi ngày một ít, nhưng “tích tiểu
thành đa”, lâu ngày cộng lại thành nhiều, khiến dân
chúng Hoa Kỳ ở hậu phương xa xăm lo ngại. Phong trào phản chiến lên cao, làm cho xã hội Hoa
Kỳ xáo trộn, nhứt là ở các đại học, nơi sinh viên ở độ tuổi quân dịch.
Cuối cùng, không thua trận nào
trên chiến trường, nhưng quân đội Hoa Kỳ phải rút
lui, xem như Hoa Kỳ thất bại trong chủ trương
phòng thủ Nam Việt Nam.
TRẦN GIA PHỤNG
Comments
Post a Comment