TƯỚNG CAO VĂN VIÊN KỂ LẠI 2 BUỔI HỌP LỊCH
SỬ THÁNG 3/75
Đại tướng Cao Văn Viên
Trong loạt bài viết về cuộc triệt thoái
khỏi Cao nguyên trong tháng 3/1975, được phổ biến trên Việt Báo cách đây hai
năm, chúng tôi có trình bày sơ lược về một số cuộc họp đặc biệt của Hội đồng An
ninh Quốc gia do Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa để duyệt xét tình
hình chiến sự. Thể theo lời yêu cầu của đông đảo bạn đọc, VB xin giới thiệu bài
viết trình bày chi tiết về hai cuộc họp lịch sử di-n ra trong tháng 3/1975, một
cuộc họp tại Dinh Ðộc Lập vào ngày 11/3 và cuộc họp mang tích cách quyết định
chiến trường Quân khu 2 tổ chức tại Cam Ranh ngày 14/3. Phần này được biên soạn
dựa theo loạt bài của cựu đại tướng Cao Văn Viên viết cho Trung tâm Quân sử Lục
quân Hoa Kỳ (nguyên bản bằng tiếng Anh, do dịch giả Duy Nguyên chuyển sang tiếng
Việt), có đối chiếu với các bản tin chiến sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị
QL.VNCH phổ biến cho báo chí, và hồi ký của cựu trung tướng Trần Văn Ðôn.
* Cuộc họp ngày 11/3/1975 tại Dinh Ðộc Lập
Một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công
vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng Ba, 1975, Tổng thống Nguy-n Văn Thiệu đã mời
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Tổng tham mưu
trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn Quang, phụ tá An ninh của Tổng
thống đến dinh Ðộc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà phê xong, các
nhân viên phục dịch đi hết, Tổng thống Thiệu lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ
của Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình hình quân sự ở mỗi nơị Sau đó, Tổng
thống Thiệu nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta thì không thể nào giữ
hết nổi lãnh thổ như ý chúng ta được”. Vì vậy chúng ta cần phối trí lực lượng lại
để phòng thủ những nơi nào đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo vệ những nơi
nào hiểm yếu.
Nhắc lại chuyện này, đại tướng Viên đã
ghi lại trong hồi ký như sau: Kết luận này làm chúng tôi ngạc nhiên vì nói như
vậy tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường như ông chưa muốn công bố quyết
định này nên tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn sáng này biết trước.
Tổng thống Thiệu đã vạch ra một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Ða số các vị
trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4 cùng với hải phận của hai quân khu này.
Chỉ một vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản chiếm và như vậy
Quân đội VNCH phải ra sức tái chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ mà
Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v.
Chính phủ cần giữ những nơi trù phú và đông dân đó. Thêm nữa, ngoài thềm lục địa
vừa mới khám phá có dầu, và chính phủ xem đó là những vùng yết hầu bất khả xâm
phạm, nơi cần giữ vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận và vùng châu thổ sông
Cửu Long.
Theo lời đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu
đã thao thao bất tuyệt về kế hoạch tái phối trí vùng địa lý chánh trị, nhưng
khi đề cập đến Quân khu 1 và Quân khu 2 thì Tổng thống Thiệu không còn vẻ khẳng
khái. Còn Cao nguyên Trung phần thì ông vừa nói, vừa dùng tay chỉ vào khu vực
Ban Mê Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại
vì vị trí kinh tế và dân số. Những tỉnh dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan trọng
không kém vì các tỉnh này có thềm lục địa nhiều tiềm năng khai thác. Còn đối với
Quân khu 1 thì ông chủ trương giữ vững những gì giữ được. Tại đây, ông phác họa
một kế hoạch nhiều giai đoạn đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để rút xuống
phía Nam. Ông nói: Nếu chúng ta đủ sức, hì sẽ giữ đến Huế hay Ðà Nẵng. Nếu
không thì rút về và giữ từ Chu Lai hoặc từ Tuy Hòa trở vào. Ông nhấn mạnh làm
như vậy chúng ta mới tái phối trí được khả năng mình, giữ vững được các yếu điểm
của lãnh thổ một cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển đất nước giàu mạnh
được.
Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu nói hết ý định
của mình, và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế nhưng dụng ý của toàn bộ kế
hoạch thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhất là về phương diện
quân sự. Với tư cách một Tổng tham mưu trưởng, cố vấn quân sự cho Tổng thống, đại
tướng Viên cảm thấy có bổn phận phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến của đại tướng
Viên trình bày tại buổi họp: Tôi (đại tướng Viên) nói rằng khi tái phối trí thì
quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy hệ quả của nó không thể tránh khỏi, và tôi
cũng đã từng nghĩ đến tình trạng này từ lâụ Tuy nhiên tôi chưa nói ra vì chưa
phải lúc. Trước hết, tái phối trí là trái với chủ trương duy trì chính sách quốc
gia, và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy
có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối trí lúc này đã quá tr- và không chắc
thành công được. Ngoài ra tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ
loại trừ được bất cứ chỉ trích có lợi nào. Dù sao, với tư cách tổng tư lệnh
Quân đội, Tổng thống có toàn quyền và trách nhiệm để đưa ra mọi quyết định ứng
phó với cuộc chiến. Chắc ông đã nắm vững những gì ông đang làm chứ.
Nhận xét tổng quát về quyết định của Tổng
thống Nguy-n Văn Thiệu, đại tướng Viên viết: Cho dù quyết định này có đi sai
chính sách quốc gia hiện hành đến cách mấy, bản thân quyết định đó vẫn hợp lý
mà một nhà lãnh đạo có thể làm được. Ðã hai năm kể từ ngày Hiệp định Ba Lê được
ký kết, tình hình cứ suy sụp đến mức báo động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống
là ở điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra quyết định. Trong cuộc họp,
ông không hề giải thích hay có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi ông
quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên ngoài đưa tới.
* Cuộc họp ngày 14/3/1975 quyết định
tình hình chiến trường
Cũng theo hồi ký của đại tướng Cao Văn
Viên, hai ngày sau cuộc họp lịch sử tại Dinh Ðộc Lập (ngày 11/3/1975), Tổng thống
VNCH Nguy-n Văn Thiệu muốn lên thăm tướng Phạm Văn Phú ngay tại bộ tư lệnh Quân
đoàn 2 ở Pleikụ Nhưng lúc đó, Ban Mê Thuột đang bị Cộng quân vây hãm, còn
Pleiku thì bị áp lực địch vì hỏa lực pháo binh của địch cứ nã vào thị xã từng hồi.
Do đó Tổng thống Thiệu không thể đến được. Lo lắng cho sự an toàn của Tổng thống,
thiếu tướng Phú đề nghị họp tại một địa điểm khác. Sau một hồi bàn bạc, Tổng thống
Thiệu quyết định họp tại Cam Ranh. Buổi họp di-n ra ngày thứ Sáu, 14 tháng
3/1975.
Ðịa điểm họp này là một tòa nhà nằm vắt
vẻo trên đỉnh đồi. Ðó là nơi mà vào năm 1966 binh sĩ Hoa Kỳ cấp tốc xây dựng để
chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Johnson khi ông ghé thăm lực lượng
Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Cùng đi với Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu ra Cam Ranh
có Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn
Quang.
* Diễn tiến cuộc họp lịch sử
Mở đầu cuộc họp là phần trình bày của
thiếu tướng Phú. Với tư cách là tư lệnh Quân đoàn 2 & Quân khu 2, tướng Phú
thuyết trình về tình hình bạn và địch trong khu vực trách nhiệm của mình. Phần
thuyết trình chấm dứt, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên
quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban
Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là thiếu tướng Phú không khẳng
định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Tướng Phú chỉ yêu cầu
tăng thêm viện binh.
Quay sang đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu
hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy
nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Ðại tướng Viên cho biết đơn vị cuối
cùng là Liên đoàn 7 Biệt Ðộng Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của thiếu
tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến
thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972. Theo lời đại tướng Viên thì vào giờ phút
nghiêm trọng như vậy mà bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2
được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của
quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì.
* Kế hoạch rút quân khỏi Cao nguyên
Một lần nữa, cũng như lần ăn sáng trước
tại Dinh Ðộc Lập, Tổng thống Thiệu đứng bên tấm bản đồ Việt Nam Cộng Hòa, còn
thiếu tướng Phú nhìn chăm chú. Tổng thống Thiệu vừa chỉ, vừa nói, giải thích những
điểm trọng yếu mà tướng Phú có nhiệm vụ phải bảo vệ. Theo Tổng thống Thiệu, vì
lý do dân số và địa lý, Ban Mê Thuột lúc nào cũng quan trọng hơn cả Pleiku và
Kontum cộng lại. Vì vậy bây giờ Quân đoàn 2 phải dùng lực lượng cơ hữu của mình
chiếm lại thị xã Ban Mê Thuột bằng mọi giá, và như thế phải triệt thoái lực lượng
tại Pleiku và Kontum.
Sau đó, Tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú
là sẽ bố trí lực lượng ra sao để chiếm lại và đường nào sẽ dùng để chuyển quân
đến Ban Mê Thuột. Tướng Phú đã trình bày rằng Quốc lộ 19 chạy từ Pleiku về hướng
Ðông ra đến biển thì không thể dùng được, đại đơn vị còn đầy đủ quân số và khả
năng chiến đấu tốt là Sư đoàn 22 Bộ binh đã không khai thông được đoạn đường tại
Bình Khệ Quốc lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột và Pleiku theo trục Nam-Bắc cũng bị cắt
tại Thuận Mẫn, phía bắc thị xã Ban Mê Thuột.
Tướng Phú nhận định rằng có thể giải tỏa
đường này nhưng rất khó khăn vì làm như vậy địch quân sẽ biết có quân cứu viện.
Vì vậy, theo tướng Phú cho rằng ông muốn sử dụng con đường liên tỉnh lộ 7B. Ðây
là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển.
Ðường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến.
* Lộ trình rút quân và những bài học từ
cuộc chiến Ðông Dương
Theo phân tích của đại tướng Viên, ngoài
trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùng được, đoạn còn lại không biết tình
hình giao thông như thế nào. Tuy nhiên, có một điều biết chắc là cầu bắc qua
sông Ba về phía Nam của Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thể sửa chữa được,
và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì những năm trước, lực lượng Ðại Hàn
hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc. Thế nhưng tướng Phú lại tin tưởng về kế
hoạch chuyển quân theo lộ trình này. Giải thích về sự chọn lựa này, tướng Phú
nói yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế. Tướng Phú chỉ yêu cầu bộ Tổng
Tham Mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôị Với quyền hạn của một
tổng tham mưu trưởng, đại tướng Viên chấp thuận ngay lời yêu cầu của tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống
Thiệu và kế hoạch chuyển quân của tướng Phú, đại tướng Viên cho rằng “đưa một lực
lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn
đường dài hơn 260 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không
biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh.
Có tạo được yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng
là một người chỉ huy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình
trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.
Trong phần thảo luận, với tư cách tổng
tham mưu trưởng, tướng Viên đã nhắc nhở tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm
sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Tướng Viên cũng đã đề cập đến
sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm
1947. Ông cũng nhắc cho tướng Phú về hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn
Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một
binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại
chân núi xung quanh Ðông Khê, dọc theo Quốc lộ Thuộc Ðịa số 4. Về địa thế và
con đường mà thiếu tướng Phú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng
6/1954, Lực lượng cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Pháp tại Ðông Dương đã bị
thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại
Ðeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo tướng Viên, đó là “những bài học máu xương
và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở
của vùng Cao nguyên là vậy.”
Comments
Post a Comment