Hiệp
Định Genève Niềm Đau và Nỗi Nhục của Đất Nước.
August 24, 2011 at 12:12am
Tại Hội nghị thượng đỉnh Malta, ngày
3/12/1989, Gorbachev và George H.W.Bush tuyên bố cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt.
Cuộc chiến tranh giữa khối tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản
đã đem lại đau nhục cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên điều này không thể hiện rỏ
ràng vì được lồng vào bên trong cái vỏ bọc « giành độc lập dân tộc và thống nhất
đất nước ». Và cũng nhờ cái vỏ bọc này những người cộng sản đã dành được chiến
thắng và luôn còn gây ngộ nhận cho thế hệ sao.
Để nhìn lại thực chất của cuộc chiến
tranh Việt nam phải nhìn lại Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Sau chín năm chiến tranh triền miên
(1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ hòa bình
vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc chia đôi !
Giòng sông Bến Hải, giữa nhịp cầu Hiền Lương luôn luôn là niềm đau và nỗi nhục
của đất nước. Người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết
định tương lai của chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại
bang, dù đó là ngoại bang tư bản hay ngoại bang cộng sản. Bất cứ một ngoại bang
nào đến với Việt Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì
yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam của chúng ta. Chẳng bao giờ có tình nghĩa
xã hội chủ nghĩa hay tình nghĩa tư bản chủ nghĩa. Chỉ có ‘’quyền lợi chủ
nghĩa’’ giữa các nước mà thôi.
Nhiều câu hỏi luôn được đặt ra ngay tới
tận ngày nay
1/ Cách nhận định của hai miền Nam Bắc
sau Hiệp định Genève ?
2/ Sau trận Điện Biên Phủ (7.5.1954),
khi Pháp quyết định bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Hồ Chí minh không thừa thắng
xông lên, chiếm lấy tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định chia đôi đất nước
?
3/ Ai vi phạm Hiệp định Genève ?
4/ Xương máu của nhân dân Việt Nam đã
đem lại những lợi lọc cho ai ?
Niềm đau nhục của dận tộc:
1/Cách nhận định của hai miền chiến tuyến
:
Sự khác biệt trong nhận định của hai miền
Nam Bắc sau hiệp định là :
-Miền Nam xem đó là ngày Quốc Hận vì là
ngày tấm bi kịch huynh đệ tương tàn.
-Miền Bắc xem đó là một thành quả thắng
lợi.
Trong khi ngoại trưởng miền Nam Trần Văn
Hữu đã rơi lệ tại bàn Hội nghị vì viễn cảnh Trịnh Nguyễn phân tranh xắp tái diễn.
Tiếng sáo thở than của Võ Thành Minh đã tuyệt thực ở bên hồ Leman để chống lại
việc cắt đôi đất nước. Thì các lãnh tụ cộng sản thì còn đang lo hô hào cán bộ đẩy
mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực hiện tư tưởng Mao Trạch
Đông. Qua cái đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng Mười Hai năm 1953 mà Hồ
Chí Minh xem là một “bước tiến” trong cuộc cách mạng quốc tế mà ông theo đuổi.
Khi một người tin mình nắm chân lý tuyệt đối trong tay thì họ dám làm bất cứ
cái gì để thực hiện chân lý đó, dù phải hy sinh hàng triệu người chỉ là chuyện
nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi là cần thiết. Hiệp định Genève đối
với người cộng sản luôn luôn là một thắng lợi.
Hôm nay nhìn lại trang sử đau thương của
dân tộc nhiều người Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận việc chia đôi đất
nước năm 1954 là một mối đau nhục, gây nên cảnh nồi da xáo thịt vô ích. Nhưng
chúng ta cũng phải nhìn lại để biết phải làm gì cho một ngày mai của đất.
2/ Vì sao Hồ Chí Minh không thừa thắng
xông lên mà chịu ký Hiệp định Genève : Có nhiều lý do được đưa ra không ai biết
chắc đúng hay sai. Nhiều người cho là Cộng Sản Việt Nam đã chịu áp lực của Liên
Xô và Trung Cộng. Các đàn anh cộng sản này muốn kết thúc cuộc chiến ở Đông
Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Nghĩ như vậy tức
là coi như Cộng Sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất nước. Để làm áp lực,
hai nước cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện Cộng Sản Việt Nam
chịu đến bàn hội nghị ở Genève.
Có người lại nói chính Cộng Sản Việt Nam
muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không
cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The
Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục
cánh chủ chiến trong đảng Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương Đảng vào Tháng Bảy
năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương Đảng muốn tiếp tục chiến
tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp
chính phủ quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp.
Trong thời gian chiến cuộc Điện Biên Phủ,
chính phủ Pháp đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung quanh thung lũng
này để tiêu diệt quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến tranh lạnh” bao
trùm thế giới từ sau Đại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi ngờ nhau. Bộ Quốc
Phòng Mỹ vẫn giả thiết rằng sớm muộn Nga xô sẽ đánh Âu Châu và Trung Cộng sẽ tấn
công chiếm các nước Đông Nam Á. Mà các nước trong vùng đó đều có một (hay hai)
đảng Cộng Sản địa phương đang nổi dậy, làm nội ứng. Lúc đó Mỹ đã rảnh tay ở Cao
Ly mà lực lượng máy bay bom đạn của họ vẫn sẵn sàng ở Nhật Bản và Đài Loan.
Nhưng chính phủ Mỹ đã từ chối không giúp Pháp ở Điện Biên Phủ. Nếu sau đó chính
phủ Pháp chấp thuận những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại nhiều quyền tự quyết
về quân sự và ngoại giao cho chính phủ quốc gia Việt Nam hơn, sau khi Bảo Đại
đã phong nhậm một ông thủ tướng thân Mỹ, thì việc tham dự của Mỹ có thể thành sự
thật. Đó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế
nhiều hơn các lãnh tụ cộng sản khác.
Ông Duiker cũng cho là vì lo ngại Mỹ sẽ
nhúng tay trực tiếp nên Hồ Chí Minh đã lựa chọn giải pháp chia đôi Việt Nam,
thay vì giải pháp ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất mình đang kiểm soát.
Trong trường hợp ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến cố nào đó để lấy
cớ mà viện trợ trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm đánh nhau với Việt Minh trở
lại. Khi chính phủ Mỹ không ký vào Hiệp Định Genève chia đôi Việt Nam, chúng ta
có thể hiểu là họ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, vì nó thích hợp với
mưu đồ của họ hơn, đúng như ông Hồ lo ngại. Mặt khác, nếu chia đất theo lối “da
beo” thì ông Hồ khó thi hành được chương trình đấu tố trong cải cách ruộng đất
mà ông đã bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung Quốc.
Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt
Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng
Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng
Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy
một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy động gần 50,000 quân chủ lực,
55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết
khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người
trong đó 10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng
trận ở Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu
thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ
không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện
viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng màHồ Chí Minhbiết. Tướng Navarre thì nói sau
trận Điện Biên Phủ các hoạt động tấn công của Việt Minh đã giảm hẳn đi, nhưng
khi ông ta xin thêm 2 sư đoàn viện binh thì chính phủ Pháp từ chối. Mặt khác,
thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendes France, đã hứa trước quốc hội khi nhậm chức
là sẽ giải quyết chiến tranh Đông Dương trước ngày 21 Tháng Bảy, cho nên có ký
hiệp định đình chiến thì ngôi thủ tướng của ông mới tồn tại.
Bên cạnh các giả thuyết của các sử gia,
có một tài liệu có thể coi là khách quan đối với tình hình quân sự tại Việt Nam
lúc đó, trong cuốn Hồi Ký Khrushchev (Khrushchev Remembers), của người lãnh đạo
Liên Bang Xô Viết năm 1954, bản dịch cuốn sách này xuất bản năm 1971 ở Mỹ. Gọi là
khách quan, vì ông Nikita Khrushchev rất có cảm tình với ông Hồ Chí Minh. Hơn nữa,
lúc đó ông nắm đủ các tin tức mà người ngoài không biết, do guồng máy các cố vấn
Nga Xô bên cạnh Việt Minh cũng như ở Trung Quốc cung cấp.
Khrushchev kể rằng đầu năm 1954 Chu Ân
Lai, Hồ Chí Minh đến Mát Cơ Va họp để bàn một lập trường chung tại Hội Nghị
Genève, “dựa trên tình hình ở Việt Nam.” Và Khrushchev mô tả, “Tình hình rất
nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt Nam đang trên đà sụp đổ. Các dân
quân hy vọng Hội Nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa hiệp ngưng bắn để họ có thể tiếp
tục cuộc chiến đấu chống Pháp...” Đó là nhận xét của Khrushchev. Ông còn thuật
lại lời Chu Ân Lai. Sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai kéo Khrushchev
vào một góc, nói, “Đồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi rằng tình hình ở Việt
Nam đang tuyệt vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng bắn sớm, thì
người Việt Nam không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, họ đã quyết định
nếu cần sẽ rút lui về biên giới Trung Quốc, và họ xin Trung Quốc sẵn sàng tiến
quân sang Việt Nam, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên. Nói cách khác, người Việt
Nam muốn chúng tôi đánh đuổi Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể nào đáp ứng yêu
cầu của đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã tổn thất quá nhiều ở Triều Tiên, cuộc
chiến đó tốn kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào dự vào một cuộc
chiến tranh khác trong lúc này.”
Nghe Chu Ân Lai xong, Khrushchev đã tìm
cách thuyết phục ông ta đừng từ chối ngay, “Đồng chí không thể nào nói với ông
Hồ là đồng chí sẽ không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh phải rút quân về biên
giới Trung Quốc. Tại sao đồng chí không cứ nói dối một cách vô hại đi? Cứ để
cho người Việt Nam họ tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần, cái đó sẽ khích lệ họ
chiến đấu chống quân Pháp hăng hái hơn.” Chu Ân Lai đã nghe lời khuyên đó,
Khrushchev kể, ông ta “không nói với ông Hồ là Trung Quốc sẽ không đánh nhau với
Pháp trên lãnh thổ Việt Nam.”
Chúng ta có thể tin những lời Khrushchev
thuật lại là đúng, vì ông ta tỏ ra rất hâm mộ Hồ Chí Minh. Lần đầu Khrushchev gặp
ông Hồ là vào Tháng Hai năm 1950, khi ông Hồ sang Mát Cơ Va xin Stalin viện trợ.
Khrushchev mô tả Hồ Chí Minh là một con người “thành thật, nhân từ, trong
sáng;” và nói rằng “Ông ta có thể chinh phục tất cả mọi người với tấm lòng chân
thành và niềm tin tưởng không thể nào lay chuyển của ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản
là tốt nhất cho dân tộc ông và cho cả loài người.” Khrushchev tả Hồ Chí Minh có
đôi mắt “chân thành trông thơ ngây như trẻ em.” Khrushchev ca ngợi, coi Hồ Chí
Minh đáng là một vị “thánh tông đồ” của chủ nghĩa Cộng Sản.Nhưng cáo già Stalin
thì không tin. Trong cuộc gặp gỡ đầu năm 1950 này, Hồ Chí Minh đã rút ra một tờ
báo hình ảnh của Liên Xô, có hình Stalin, xin ông ta ký tên vào đó làm kỷ niệm.
Stalin vui vẻ ký, nhưng sau đó đã ra lệnh mật vụ tới phòng Hồ Chí Minh lén thu
hồi lại, vì Stalin cũng sợ ông Hồ sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi
người đều biết hồi ông Hồ ở bên Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức tình
báo Mỹ, ông có xin Tướng Chennault, chỉ huy phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc,
ký tặng Hồ một bức hình. Sau đó ông Hồ mang bức hình về Việt Nam, rồi khi họp hội
nghị Tân Trào thì đem bức hình đó trưng bày, để mọi người nghĩ rằng ông đã được
Mỹ ủng hộ, mà Mỹ thì đang thắng Nhật. Chưa chắc Stalin biết câu chuyện này,
nhưng một lãnh tụ cộng sản như ông ta thì chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng
những lãnh tụ cộng sản khác.
Câu chuyện Khrushchev kể trong cuốn hồi
ký về cuộc đối thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. Vì ông ta không
có lý do nào để nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện ra nói với
Khrushchev. Năm 1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa còn rất thân thiện,
mà nếu Chu Ân Lai nói dối thì Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết liền. Cho
nên chúng ta có thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đã thú nhận với cả hai lãnh tụ
Nga và Trung Quốc tình hình lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới mức có thể
phải rút sang Trung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí Minh đã xin
Trung Cộng đem quân vào Việt Nam.
Khi Chu Ân Lai nói với Khrushchev rằng
Trung Cộng không thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đã tiêu hao lực lượng ở
Cao Ly, điều này cũng đúng. Nhiều người vẫn nghĩ là chính Stalin thúc đẩy Trung
Cộng đem quân sang Cao Ly để làm tiêu mòn lực lượng nước cộng sản anh em này,
vì ai cũng biết chính Stalin bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành gây chiến. Nhưng
sau khi ký hiệp ước đình chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đã thấy sự thiệt hại của họ
quá lớn, cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến khác. Theo William Duiker
thì vào Mùa Thu năm 1953, Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles đã cảnh cáo nếu Trung Cộng
dính vào Chiến Tranh Đông Dương thì sẽ “có hậu quả nghiêm trọng” khiến Bắc Kinh
chấp nhận chính sách ôn hòa của Nga Xô, sau khi ông Stalin qua đời.
Như vậy thì việc ký Hiệp Định Genève một
phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu tiếp tục chiến tranh thì Mỹ sẽ can thiệp, mà sức
lực Việt Minh lúc đó đang yếu; một phần khác cũng vì chủ trương ôn hòa của Nga
Xô khiến cho ông Hồ lo ngại nếu không theo thì sẽ không còn được Nga và Trung
Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất nước đó dẫn tới cuộc
chiến tranh Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam, cũng vì ông Hồ là một
người cộng sản kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca ngợi. Ông “thánh cộng sản”
đó muốn cả hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế độ cộng sản để tiến hành việc
“giải phóng” cả vùng Đông Nam Á và cả thế giới. Chính phủ Ngô Đình Diệm lúc đó
không chịu ký vào Hiệp Định Genève, cũng vì không muốn chịu trách nhiệm trước lịch
sử việc tái diễn Hận Sông Gianh.
3/Ai vi phạm Hiệp định Genève ? :
Có thể nói không ai vi phạm cả vì Hiệp Định
Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách
thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển
quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa là không phải
là một Hiệp định Hòa Bính.
Và điểm đặc biệt không có phái đoàn nào
ký tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường
nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú ý và ít được sách
báo viết đến ?
Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những
đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và
ấn định lịch Tổng Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý nguyện của
chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Pháp quyết ký Hiệp Định Genève (20.7.1954), để
vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì đến Việt
Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch Tổng Tuyển Cử vào năm
1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử nầy lại không được
các phái đoàn tham dự ký kết để bảo đảm thi hành. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy
cộng sản luôn luôn ký kết hiệp ước để làm kế hoãn binh và không bao giờ tôn trọng
hiệp ước đã ký kết, huống gì là những văn bản không có chữ ký như bản ‘’Tuyên bố
cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’
ngày 21.7.1954.
I/Tình hình thế giới đưa đến HỘI NGHỊ
GENÈVE
Chiến tranh Triều Tiên kết thúc bằng hiệp
ước đình chiến được ký kết tại Bàn Môn Điếm (Panmunjon), ngày 27.7.1953, chia
Triều Tiên thành hai vùng Bắc và Nam Triều Tiên, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây
chỉ là hiệp ước đình chiến, chứ không phải là hòa ước giữa các bên lâm chiến. Dầu
vậy, hiệp ước và giải pháp chia hai nước Triều Tiên được một số nước, kể cả
Pháp, xem là mẫu mực để giải quyết vấn đề Đông Dương.
Ngày 4.8.1953 Liên Xô đề nghị họp Hội
Nghị ngũ cường gồm Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
vào tháng 9.1953 để tiếp tục giải quyết những tranh chấp ở Triều Tiên, đồng thời
tại khu vực Á Châu, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề Việt Nam.
Đề nghị nầy bị Hoa Kỳ bác bỏ ngày
2.9.1953. Trong cuộc họp tay ba Anh, Pháp và Hoa Kỳ trong ba ngày kể từ
16.10.1953, cả ba nước đưa ra tuyên bố không chấp nhận đề nghị của Liên Xô, chủ
yếu vì các cường quốc Tây phương không muốn thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa là một cường quốc ngang hàng với họ. Lúc đó, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa
chưa được vào Liên Hiệp Quốc. Chiếc ghế thường trực tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc do Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) nắm giữ.
Lúng túng trong chiến tranh Việt Nam,
ngày 27.10.1953, Thủ Tướng Pháp là Joseph Laniel tuyên bố sẵn sàng tìm kiếm cơ
hội tái lập hòa bình ở Đông Dương. Ông được Quốc Hội Pháp ủng hộ để thương thuyết
và đi đến một giải pháp chính trị. Ra trước Thượng Viện Pháp ngày 12.11.1953,
Thủ Tướng Laniel lập lại ý kiến trên thêm một lần nữa. Laniel hy vọng kế hoạch
hành quân của Đại Tướng Henri Navarre tại Việt Nam sẽ có thể đem lại thành công
trên chiến trường, để có thể thương thuyết trong thế mạnh.
Đề nghị của Laniel được phía cộng sản
đáp ứng ngay. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Expressen (Norway = Na Uy) vào
cuối tháng 10.1953, Hồ chí Minh cho biết rằng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa do đảng lao động và mặt trận Việt Minh điều khiển, sẵn sàng tìm hiểu các đề
nghị của Pháp và chỉ thương thuyết với Pháp, chứ không nói chuyện với chính phủ
Quốc Gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Đại làm Quốc Trưởng.
Về phía Liên Xô, vừa trả lời cho tam cường
Tây phương, vừa trả lời cho đề nghị của Thủ Tướng Pháp (Laniel), Ngoại Trưởng
Mikhailovich Molotov tuyên bố ngày 26.11.1953 đồng ý tham dự Hội Nghị tứ cường
Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, nhưng dành quyền sẽ triệu tập Hội Nghị ngũ cường
sau đó. Mãi đến ngày 29.11.1953, bài phỏng vấn Hồ chí Minh mới được báo
Expressen công bố, và được Nhân Dân Nhật Báo ở Bắc Kinh đăng lại ngày
1.12.1953, kèm theo bài xã luận hoàn toàn ủng hộ lập trường của Việt Minh.
Ngày 6.12.1953, theo quyết định của các
cố vấn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quân đội Việt Minh bắt đầu mở cuộc tấn công
Điện Biên Phủ. Một tuần sau, Hồ chí Minh tuyên bố chấp nhận thương thuyết với
Pháp ngày 14.12.1953. Hỗ trợ ý kiến của Hồ chí Minh, ngày 26.12.1953, Liên Xô
đưa ra đề nghị họp tứ cường tại Berlin ngày 25.1.1954, và được các nước Anh,
Pháp, Hoa Kỳ chấp thuận.
Vào ngày nói trên (25.1.1954), Hội Nghị
tứ cường vừa khai mạc tại Berlin, thì Ngoại Trưởng Liên Xô, Mikhailovich
Molotov, đề nghị mời Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cùng họp để giải quyết các vấn
đề tranh chấp trên thế giới. Mãi đến ngày 18.2.1954, ý kiến của Liên Xô mới được
ba nước Tây phương đồng ý. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được mời tham dự Hội Nghị
Genève, sẽ bắt đầu từ ngày 26.4.1954 để bàn về các vấn đề Triều Tiên và Đông
Dương.
Hội Nghị ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tại Genève chính thức khai mạc ngày
26.4.1954, một ngày bàn về Đông Dương, một ngày bàn về Triều Tiên. Liên Xô đề
nghị mở rộng những nước tham dự bằng cách mời thêm các phe lâm chiến ở Đông Dương.
Ý kiến nầy được chấp thuận tại phiên họp ngày 2.5.1954. Như thế, về vấn đề Đông
Dương, hội nghi Genève sẽ có tất cả là 9 phái đoàn tham dự: Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (Việt Minh), Lào và Cambodge (Cambodia).
Hội Nghị Genève về Đông Dương với sự
tham dự của 9 phái đoàn, chính thức khai mạc ngày 8.5.1954. Một ngày trước đó,
cứ điểm Điện Biên Phủ tại Việt Nam của liên quân Pháp-Việt bị thất thủ vào tay
quân đội Việt Minh ngày 7.5.1954.
II.- HỘI NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về vấn đề Đông Dương có
thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ khi khai mạc (8.5.1954) đến
khi tạm nghỉ ngày 20.6.1954. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ ngày 10.7 đến ngày
21.7.1954. Giữa hai giai đoạn là sự thay đổi chính phủ tại Pháp và Hội Nghị Liễu
Châu giữa Châu Ân Lai (Trung Cộng) và Hồ chí Minh (Việt Minh).
GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT HỘI NGHỊ GENÈVE
Hội Nghị Genève về Đông Dương với 9 phái
đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và bốn
chính phủ liên hệ ở Đông Dương là Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
(Việt Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8.5.1954, một ngày sau khi
kết thúc trận Điện Biên Phủ.
Thời điểm khai mạc Hội Nghị Genève về
Đông Dương rõ ràng rất thuận lợi cho phía cộng sản: Liên Xô và Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa lúc đó chưa rạn nứt mà còn liên lạc ngoại giao gắn bó trong tinh
thần cộng sản quốc tế, tích cực giúp đỡ Việt Minh. Trong khi đó, sau khi thất
trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), nội tình nước Pháp chia rẽ. Pháp đang muốn kiếm
cách rút lui khỏi Đông Dương. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam gặp nhiều khó khăn,
quân đội mới được thành lập nên chưa vững mạnh.
Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng
Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, Quốc Gia
Việt Nam gởi phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng Đoàn, Nguyễn Quốc Định
phụ tá. Khi Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, thì tân Ngoại Trưởng Trần
Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lãnh đạo.
Lúc đó ông Đồng đã được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày
26.5.1954, Pháp và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những
khu vực chỉ định. Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai
nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa
quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam chủ
trương thống nhất, không chia cắt. Tại Sài Gòn, Thủ Đô của chính phủ Quốc Gia
Việt Nam, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26.5.1954, phản
đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước.
Tại Genève, trong cuộc họp mật riêng với
Pháp ngày 10.6.1954, Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Minh, nói với đại
diện Pháp là Delteil rằng:
‘’Chúng tôi cần một thủ đô [Hà Nội] và cần
một hải cảng [Hải Phòng]’’. Hội Nghị toàn thể tại Genève gặp bế tắc ngày 12.6
khi phái đoàn Việt Minh không chấp nhận sự kiểm soát quốc tế, mà đòi rằng ban
kiểm soát chỉ có đại diện Pháp và Việt Minh. Việt Minh còn đòi giải pháp ngưng
bắn ở Đông Dương bao gồm luôn cả vấn đề Việt-Miên-Lào.
Khi họp riêng ngày 15.6.1954, với đại diện
Liên Xô (Ngoại Trưởng Molotov) và đại diện Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Thủ Tướng
kiêm Ngoại Trưởng Châu Ân Lai), Phạm văn Đồng bị đại diện hai nước nầy ép phải
chấp nhận những giải pháp riêng biệt về ba nước Đông Dương, nghĩa là Việt Minh
phải rút quân ra khỏi Lào và Miên. Kể từ 20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ
và về nước tham khảo ý kiến.
NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG THỜI GIAN HỘI NGHỊ
GENÈVE TẠM NGHỈ
Mendès France, Thủ Tướng Pháp: Sau thất
bại Điện Biên Phủ (7.5.1954), chẳng những Pháp thay lãnh đạo ở Đông Dương, mà
thay luôn cả chính phủ Pháp ở Paris. Nội các Joseph Laniel từ chức ngày
13.6.1954, và Mendès-France, người Pháp gốc Do Thái, thuộc đảng Xã Hội Cấp Tiến
(Socialiste Radical), một thành viên Hội Tam Điểm Pháp, được mời lập chính phủ.
Điều trần trước Quốc Hội Pháp,
Mendès-France tuyên bố sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ
(chưa đầy một tháng). Nói cách khác, với ý nguyện của Quốc Hội Pháp, chính phủ
Mendès-France quyết định bỏ rơi Quốc Gia Việt Nam, và bằng mọi giá ký kết hiệp
ước đình chiến, rút quân Pháp ra khỏi Đông Dương. Mendès-France chính thức nhậm
chức ngày 21.6.1954. Nếu tính thêm bốn tuần lễ thì vào khoảng 21.7.1954.
Hội Nghị Liễu Châu: Trong thời gian nghỉ
họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp qua
Liễu Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ
ngày 3.7.1954.
Trong cuộc gặp gỡ nầy, đại để Châu Ân
Lai cho rằng có ba cách để đối phó với tình hình mới:
1.- Thượng sách là hòa.
2.- Trung sách là đánh rồi hòa.
3.- Hạ sách là đánh tiếp.
Châu Ân Lai khuyên Hồ chí Minh chấp nhận
thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp tục mở rộng chiến
tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng biệt
chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với
kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên Việt Minh không nên đòi
hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.
Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp
Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có
thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây.
Như vậy Việt Minh sẽ đuổi được kẻ địch yếu,
nhưng lại rước kẻ địch mạnh. Hơn nữa, Việt Minh nên giúp Tân Thủ Tướng Pháp là
Mendès-France, để ông ta không bị Quốc Hội Pháp lật đổ. Nếu Mendès-France không
thành công, chính phủ Mendès-France sẽ bị đổ, thì có thể sẽ bất lợi đối với
phía cộng sản.
Về phía phái đoàn Việt Minh, trong Hội
Nghị nầy, Võ nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, thì chỉ rút những người làm
công tác chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại miền Nam chờ thời cơ, có
thể khoảng 10,000 cán bộ.
Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ
chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5.7.1954. Nhân Dân Nhật Báo
của Bắc Kinh ngày 8.8.1954, đăng
‘’Tuyên bố về cuộc hội đàm Trung Việt của
chính phủ Trung Quốc’’, được dịch nguyên văn như sau:
‘’Thủ Tướng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa Châu Ân Lai và Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ chí Minh đã cử
hành hội đàm tại biên giới Trung Việt từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Thủ
Tướng Châu Ân Lai và Chủ Tịch Hồ chí Minh đã trao đổi ý kiến đầy đủ về vấn đề
khôi phục hòa bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan khác. Tham gia Hội
Nghị còn có: Hoàng văn Hoan, Đại Sứ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Trung Quốc
và Kiều Quán Hoa, cố vấn Đoàn Đại Biểu nước Cộng Hòa Nhận Dân Trung Hoa tại Hội
Nghị Genève’’.
Về lại Việt Nam, Hồ chí Minh họp bộ
chính trị đảng lao động (tức đảng cộng sản Việt Nam) tại Thái Nguyên, ra nghị
quyết theo quyết định của Hội Nghị Liễu Châu, nghĩa là Việt Minh chấp nhận giải
pháp chia hai đất nước, tạm thời hòa hoãn và chuẩn bị tiếp tục tranh đấu sau
khi ký kết hiệp ước đình chiến.
Chủ trương mới nầy được Hồ chí Minh nêu
ra trong báo cáo ngày 15.7.1954 tại Hội Nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung
ương đảng lao động (tức đảng cộng sản) khóa II từ 15 đến 17.7.1954 tại Việt Bắc,
trong đó có đoạn viết: ‘’Trước kia khẩu hiệu của ta là: ‘’Kháng chiến đến
cùng’’. Nay vì tình hình mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ’’.
Trong khi đó, thực hiện sự thỏa thuận
ngày 26.5 tại Hội Nghị Genève, các phe lâm chiến ở Việt Nam mở Hội Nghị Trung
Giá từ ngày 4 đến 27.7.1954 để bàn về chi tiết việc ngưng bắn. Trung Giá, hay
Trung Giã, nằm về phía Nam Thị Xã Thái Nguyên khoảng 30 cây số. Đại diện cho
Pháp là Đại Tá Lennuyeux, đại diện cho Quốc Gia Việt Nam là Thiếu Tá Nguyễn Phước
Đàng, đại diện cho Việt Minh là Thiếu Tướng Văn tiến Dũng.
GIAI ĐOẠN THỨ HAI HỘI NGHỊ GENÈVE
Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France đích
thân đến Genève để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov
ngày 10.7, và Ngoại Trưởng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai trong hai
ngày 12 và 13.7. Pháp, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thỏa thuận giải
pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ
tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn Đồng, đại
biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm văn Đồng
đành chấp nhận. Đại Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc
chia cắt đất nước bất cứ ở đâu.
Cuối cùng, sau những tranh cãi và mặc cả
vào buổi chiều ngày 20.7.1954, hiệp ước đình chiến được soạn thảo xong và ký kết
sau 12 giờ đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở ký kết vẫn
giữ nguyên ở 12 giờ đê
20.7.1954.
III.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức của Hiệp Định
Genève là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được viết bằng
hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp
ước đình chiến Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân
Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các nước khác cùng ký vào Hiệp Định Genève còn
có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia. Hai chính phủ Quốc
Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản Hiệp Định nầy. Hiệp Định đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam gồm có 6 chương, 47 điều, trong đó các điều chính như sau:
- Việt Nam chia làm hai vùng tập trung,
ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải (Tỉnh Quảng Trị), theo dòng sông, đến
làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Không nói đến vĩ tuyến 17. Trong thực tế,
sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ
tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía Bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía
Nam.
- Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu
phi quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm ‘’khu đệm’’, có hiệu lực từ ngày
14.8.1954.
- Thời hạn tối đa để hai bên rút quân là
300 ngày kể từ ngày Hiệp Định có hiệu lực.
- Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng
ngày 27.7 ở Bắc Việt, 1.8 ở Trung Việt và 11.8 ở Nam Việt.
- Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội
của mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng.
- Cấm phá hủy trước khi rút lui. Không
được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối phương.
- Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được
tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia.
- Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập
thêm căn cứ quân sự mới.
- Tù binh và thường dân bị giữ, được
phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn.
- Sự giám sát và kiểm soát thi hành Hiệp
Định sẽ giao cho một Ủy Ban Quốc Tế.
- Thời hạn rút quân riêng cho từng khu vực
kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300
ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200
ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).
Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam
chỉ là một Hiệp Định có tính cách thuần túy quân sự. Cũng giống như hiệp ước
đình chiến Panmunjon (Bàn Môn Điếm) ngày 27.7.1953, Hiệp Định đình chiến Genève
không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho
tương lai Việt Nam.
IV.- BẢN TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG KHÔNG CHỮ KÝ
Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt
Nam được ký kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản
‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách
dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản
Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ ký.
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden
(Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia)
trả lời miệng rằng ‘’đồng ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam
không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.
Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ gồm 13 điều, trong đó
quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng:
‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt
Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên
tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam
được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập
sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển
đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng
Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm
đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói
trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những nhà đương cục có
thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề
đó’’.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự
kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử
sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều
nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc.
Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ
chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp
Định Genève. Thật ra Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự
(đình chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về
một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào
năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954
về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’.
Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn
Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái
đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc
chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không
đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên
Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết:
‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu
cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối
cách ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa
của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự
dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của
dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ
sở’’.
Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký
vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là
không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự
cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.
Về phía Hoa Kỳ, Trưởng Phái Đoàn là
Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21.7.1954 theo đó, tuy không ký
vào Hiệp Định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng võ lực để sửa đổi Hiệp
Định, Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi phạm thỏa hiệp
trên, đe dọa hòa bình và an ninh thế giới, Hoa Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống
nhất Việt Nam bằng Tổng Tuyển Cử tự do đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.
Ông Bedell Smith kết luận:
‘’Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng
các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của họ,
trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng hòa bình
của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định đoạt
lấy tương lai của mình’’.
V.- VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Hội Nghị Genève kết thúc với ba văn kiện
chính thức (ngày 20.7.1954) và một Bản Tuyên Bố chung (ngày 21.7.1954) là:
1.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt
Nam.
2.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Lào.
3.- Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở
Cambodge (Cambodia).
4.- Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngoài bốn văn kiện trên, còn có hai văn
kiện do hai phái đoàn đưa ra là:
1.- Tuyên ngôn của phái đoàn Quốc Gia Việt
Nam.
2.- Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.
Cần chú ý hai điểm:
Thứ nhất, Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở
Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự,
nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không
đề cập đến giải pháp chính trị.
Thứ hai, không có phái đoàn nào ký tên
vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954. Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường
nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú ý và ít được sách
báo viết đến.
Điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy mở đầu bằng
câu ‘’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam...’’ (La Conférence déclare qu’en
ce qui concerne le Vietnam…), nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội Nghị nghĩ rằng,
đưa ra ý kiến rằng, hay dự kiến rằng…một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ được tổ chức vào
tháng 7.1956…, còn làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không thi
hành, là tùy các bên liên hệ. Hội Nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các
bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành Tổng Tuyển Cử, vì bằng chứng rõ ràng nhất là
Hội Nghị không yêu cầu bên nào ký vào Bản Tuyên Bố nầy, để cam kết hay để giữ lời
cam kết. Những Hiệp Định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống
gì là những Bản Tuyên Bố không chữ ký.
Hơn nữa, đây là một Bản Tuyên Bố chứ
không phải là một bản hiệp ước. Môt Bản Tuyên Bố lại không có chữ ký của bất cứ
phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương,
có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lý để thi hành hay không ?
Vì những lý do căn bản nầy, bản ‘’Tuyên
bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương’’, trong đó đặc biệt điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy về dự kiến một cuộc Tổng
Tuyển Cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lý để bắt buộc bất cứ nước nào
thi hành.
Nói cho cùng, có thể nói rằng Bản Tuyên
Bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai
Đông Dương sau khi hai bên đình chiến.
Tinh thần của Bản Tuyên Bố Genève ngày
21.7.1954 khiến người ta liên tưởng đến ‘’Tối hậu thư Potsdam’’ mà các nước
Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật Bản ngày
26.7.1945. Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quy định
rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía Bắc vĩ
tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16
(ngang qua Tam Kỳ). Tuy nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến việc ai sẽ cai
trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là
không đưa ra một giải pháp chính trị cho Đông Dương.
Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành
chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định trong tối
hậu thư Potsdam được thi hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim
do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, thì ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông
Dương ? Đây là thâm ý của Anh và Hoa Kỳ, cố tình bỏ ngỏ khoảng trống chính trị
để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương.
Nay bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị
Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ cũng đi vào vết xe cũ,
không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương, ngoài một
Bản Tuyên Bố không có người ký. Từ đó, các bên liên hệ đến Bản Tuyên Bố có thể
tùy tiện giải thích Bản Tuyên Bố một cách khác nhau, tùy theo chủ trương chính
sách của mỗi bên, và nhất là tùy theo ‘’lý của kẻ mạnh’’.
Ngay trong Hội Nghị Liễu Châu từ ngày 3
đến ngày 5.7.1954, cả Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lẫn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
đã thỏa thuận tạm hòa để tiếp tục chiến tranh. Cũng trong Hội Nghị Liễu Châu,
những nhà lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trình bày kế hoạch hậu chiến,
trường kỳ mai phục, gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chờ đợi thời
cơ nổi dậy. Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam, vi phạm Hiệp Định
Genève đã được phía cộng sản dự tính trước khi ký kết Hiệp Định.
Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ
thể nào cho biết tại sao bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn
đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’, lại không không có chữ ký của phái đoàn các
nước ? Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn quá mệt mỏi với những
tranh cãi triền miên, nên chỉ hỏi ý kiến bằng miệng cho chóng thông qua ? Hay
phải chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ
ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị kế tiếp sau Hiệp Định
Genève ? Và ai là người đã chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy ? Nước
nào chủ xướng thì chưa biết, nhưng chính phủ Quốc Gia Việt Nam rất yếu thế,
ngay từ đầu lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối Hiệp Định Genève, nên
chắc chắn Quốc Gia Việt Nam không phải là nước chủ xướng.
Ngày 22.7.1954, Thủ Tướng chính phủ Quốc
Gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt
Nam. Tuy nhiên cuối cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam vẫn chấp nhận thi hành Hiệp
Định Genève ngày 20.7.1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến
17. Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ riêng biệt,
theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt.
Thi hành Hiệp Định đình chiến Genève, việc
ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27.7.1954 tại Bắc Việt, ngày 1.8.1954 tại
Trung Việt, và ngày 11.8.1954 tại Nam Việt. Vấn đề cấp thời của hai chính phủ
là tập trung và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ của mình và cả dân chúng,
về khu vực cai trị của mình. Điều 2 của Hiệp Định Genève (20.7.1954) cho phép
thực hiện việc di chuyển các lực lượng của hai bên về vùng tập hợp ở hai bên giới
tuyến tạm thời trong thời gian 300 ngày.
Ngày 9.10.1954 là hạn chót cho những người
muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội. Hôm sau, ngày 10.10.1954, quân đội Việt
Minh vào tiếp thu Hà Nội. Chủ Tịch ủy ban quân quản Hà Nội của Việt Minh là
Vương thừa Vũ tức Nguyễn văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày
19.12.1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của Việt Minh là sư đoàn 308.
Hải Phòng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền
Nam, do Việt Minh tiếp thu ngày 13.5.1954. Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối
cùng rút lui khỏi Đảo Cát Bà (Vịnh Hạ Long, vùng Hải Phòng) ngày 16.5.1955. (Nếu
tính từ ngày ngưng bắn có hiệu lực ở Bắc Việt (27.7.1954) cho đến ngày
16.5.1955 là 9 tháng 20 ngày.)
Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc
không được thống kê đầy đủ. Theo sự trình bày của Võ nguyên Giáp tại Hội Nghị
Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3.7.1954 giữa Hồ chí Minh và Châu Ân
Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, Việt Minh dự tính bước đầu rút khoảng
60.000, trong đó 50.000 người là bộ đội và 10.000 người làm công tác chính trị,
nhất là những người ‘’đỏ’’ quá, không thể ở lại. Ngoài ra, Việt Minh dự tính sẽ
lưu lại miền Nam từ 5.000 đến 10.000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu
được thì cất giấu sau khi quân đội rút đi. Theo một tài liệu khác cũng của cộng
sản, số người tập kết ra Bắc khoảng 175.000 người và 15.0000 học sinh. Số lượng
nầy có thể đã được phóng đại và không thể kiểm chứng được.
Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam
lên đến khoảng gần 900.000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công
chức) và quân nhân chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ
nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa
lớn lao nhất trong lịch sử nước ta.
Vài điểm đáng chú ý về cuộc di cư vĩ đại
của dân chúng miền Bắc vào miền Nam như sau:
Thứ nhất, số người ra đi đông đảo như
trên rời đất Bắc có lợi cho đảng lao động, vì những thành phần chống cộng, đối
lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái Quốc Gia, đều rút về
miền Nam, nên không còn, hay ít còn người ở lại đối kháng với chế độ mới ở
ngoài Bắc.
Thứ hai, người Việt Nam vốn rất ràng buộc
với quê cha đất tổ, mà gần một triệu người đành phải bỏ xứ ra đi. Trong chiến
tranh, bộ máy tuyên truyền của Việt Minh luôn luôn ca tụng chế độ cộng sản và
chê bai chính thể Quốc Gia Việt Nam. Nay cuộc di cư vĩ đại có thể xem là cuộc
trưng cầu dân ý cho thấy số người miền Bắc chọn lựa vào miền Nam đông hơn số
người miền Nam tập kết ra Bắc, chứng tỏ lòng dân như thế nào đối với chế độ của
đảng lao động (tức là đảng cộng sản Việt Nam)?
Thứ ba, sự chọn lựa nầy củng cố niềm tin
nơi chính phủ Quốc Gia Việt Nam, giúp chính phủ Quốc Gia Việt Nam vững tâm hành
động, và làm tăng giá trị của chính thể Quốc Gia Việt Nam đối với thế giới.
Thứ tư, ngoài những cán bộ cộng sản được
cài lại ở miền Nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng, chắc chắn đảng lao động
không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len lõi vào đoàn người di cư vào miền
Nam để làm tình báo.
Đúng một năm sau Hiệp Định Genève, để kiếm
cớ gây chiến, Phạm văn Đồng, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tức Bắc Việt
gởi thư ngày 19.7.1955 cho Thủ Tướng Quốc Gia Việt Nam tức Nam Việt là Ngô Đình
Diệm, yêu cầu mở Hội Nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20.7.1955, để bàn về việc
Tổng Tuyển Cử thống nhất đất nước theo quy định của Hiệp Định Genève.
Ngày 10.8.1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
đã bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Phạm văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ Quốc
Gia Việt Nam không ký vào Hiệp Định Genève và nhất là vì không có bằng chứng
nào cho thấy Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi
quốc tế cộng sản.
Chính thể Quốc Gia Việt Nam đổi thành Việt
Nam Cộng Hòa vào ngày 26.10.1955. Tuy chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nhiều lần từ
chối, Phạm văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11.5.1956,
18.7.1957, và 7.3.1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đình Diệm,
lúc đó là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26.4.1958.
Do vào sự bác bỏ của của chính phủ Nam
Việt, Bắc Việt tố cáo chính phủ Nam Việt không tôn trọng Hiệp Định Genève.
Trong khi đó, Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định đình chiến và đã được các
phe liên hệ tức là chính phủ Việt Minh và chính phủ Quốc Gia Việt Nam thi hành
xong ngay từ 1954, chia hai nước Việt Nam thành Bắc Việt và Nam Việt dưới sự
giám sát của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, gồm đại diện các nước Canada
(Gia Nã Đại), Poland (Ba Lan), India (Ấn Độ). Còn bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của
Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ không có chữ ký,
thì chẳng có giá trị pháp lý để thi hành. Tuy nhiên, kẻ gây hấn thì luôn luôn
có lý do để gây hấn.
4/ Cuối cùng đất nước của chúng ta trở
thành nơi thử nghiệm các phương tiện kỹ thuật giết người của Hoa-kỳ và Liên-xô.
Và khi Mao Trạch Đông chiếm lục địa Trung Quốc, các cường quốc Tây phương không
công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và không cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Nhờ chiến tranh Việt Nam, Trung
Quốc được các cường quốc mời họp Hội Nghị Genève. Nghĩa là Trung Quốc được ngồi
ngang hàng với các cường quốc Tây phương nhờ chiến tranh Việt Nam, nhờ xương
máu của dân tộc Việt Nam. (Việc nầy tái diễn trong chiến tranh 1960-1975, vì do
cuộc chiến nầy, Nixon qua Bắc Kinh dàn xếp với Mao Trạch Đông và Châu Ân Lai.
Sau đó, Hoa Kỳ mở cửa cho Trung Quốc cộng sản vào Liên Hiệp Quốc.)
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA HIỆP ĐỊNH
GENEVA 1954
17thParalell
Vĩ tuyến
17
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định
Genève về Việt Nam đã được ký kết. Vĩ tuyến 17 đã là ranh giới chia đôi hai miền
đất nước. Gần một triệu người miền Bắc đã rời bỏ quê hương di cư vào Nam. “Chấm
dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lãnh thổ sẽ dẫn đến một cuộc
chiến tranh khác…”. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ký tên vào bản
Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Một nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng dân tộc
Việt Nam không thể nào quên được cái ngày đau thương khi giang san một giải đã
bị chia cắt bởi dã tâm của thực dân và cộng sản.
Không có tham vọng viết sử, tiểu luận
này chỉ nhằm nhắc lại những biến cố, những hậu quả của việc chia đôi đất nuớc hầu
đáp ứng phần nào nhu cầu tìm hiểu về một quá khứ gây nhiều ẩn ức của các thế hệ
trẻ ngày nay. Tiến bộ khoa học cộng với thời gian đủ dài để ta có thể phóng tầm
nhìn tìm về hoàn cảnh Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, về cuộc Chiến Tranh Đông
Dương (1946-1954) với trận đánh Điện Biên Phủ, về Hội Nghị Genève và bản Hiệp Định
đình chiến ngày 20/07/1954, về cuộc Di Cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào Nam,
về những vết thương hằn sâu trên da thịt dân tộc Việt Nam gây ra bởi giòng sông
Bến Hải…
Việt Nam sau Đệ nhị thế chiến
Thực dân Pháp đã có mưu đồ xâm lược nước
ta từ cuối thế kỷ thứ 18 khi Gia Long đưa Hoàng Tử Cảnh sang Pháp làm con tin để
cầu viện giúp mình đánh nhà Tây Sơn. Mưu đồ này đã được thực hiện bằng đường lối
ngoại giao và nhất là quân sự. Chúng sử dụng chiến thuyền bắn phá cửa biển Đà Nẵng
(1847), chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ (1859-1867) rồi đánh ra miền Bắc. Hòa ước năm
Giáp Thân (1884) hay còn gọi là hòa ước Patenôtre đã biến Việt Nam thành thuộc
địa của Pháp. Từ đó, Pháp đã coi Việt Nam, gồm cả 3 kỳ và hai nước láng giềng
là Ai Lao và Cao Miên là Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française). Nước ta
hoàn toàn mất độc lập chủ quyền. Triều đình chỉ làm vì, mọi việc hành chánh,
kinh tế, ngoại giao đều do người Pháp làm chủ.
Từ khi thực dân Pháp khởi sự đánh chiếm
nước ta và suốt trong thời kỳ đất nước mất vào tay người Pháp, nhân dân ta luôn
luôn tìm cách khởi nghĩa kháng Pháp. Từ vua quan trong triều đến dân dã khắp
nơi, những anh hùng dân tộc như Vua Duy Tân, vua Thành Thái, như Trương Công Định,
Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Hoa Thám, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung
Trực, Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều vv… đã tổ chức những cuộc khởi nghĩa võ
trang đánh đuổi thực dân. Những nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học và bao nhiêu người khác đã nổi lên đấu tranh
giành độc lập. Tình thế chỉ tạm yên vào khoảng năm 1935.
Từ năm 1933, tình hình thế giới sau Đệ
nhất thế chiến (1914-1918), hai cường quốc Âu Châu là Pháp và Anh tỏ vẻ mệt mỏi,
nhất là Pháp còn lúng túng về chính trị trong các công cuộc xây dựng lại. Lúc
đó, Hitler (Đức), Mussolini (Ý) và Nhật Bản đã ký thỏa ước 3 bên (25/11/1933) lập
thành lực lượng “Trục”. Bắt chước Hitler vẫn coi Áo và Ba Lan thuộc Đức,
Mussolini coi Ethiopia và Libya thuộc Ý, quân đội Nhật đã tiến chiếm Mãn Châu
vào ngày 7/7/1937.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhì đã
chính thức bắt đầu vào ngày 1/9/1939 tại Âu Châu. Từ Tiệp Khắc, quân đội Đức Quốc
Xã của Hitler đã xua quân vào Ba Lan trước hết rồi đồng loạt tấn công các nước
các nước trên chiến trường phía Đông nước Đức. Đến năm 1940, Hitler mở mặt trận
phía tây. Quân đội Đức nhảy dù xuống Hòa Lan và Bỉ (10/05/1940), đồng thời dội
bom xuống các thành phố phía Bắc nước Pháp giáp giới với Bỉ. Sau 18 ngày đêm cầm
cự, vua Léopold của Bỉ đã phải đầu hàng vào ngày 28/05/40. Thanh toán được Bỉ,
quân Đức tiến xuống phía Nam và đánh vào nước Pháp. Paris bị dội bom. Trong lúc
Mussolini tuyên chiến với Pháp. Pháp bị lưỡng đầu thọ địch. Chính phủ Pháp lúc
đó do thống tướng Pétain cầm đầu đã tuyên bố ngưng bắn vào lúc nửa đêm ngày
17/06/40. Nước Pháp đã lọt vào tay của Đức. Chính phủ Pétain rút về đóng tại Vichy
và có chính sách cộng tác với kẻ xâm lược. De Gaulle bay sang Anh và hô hào
kháng chiến, kêu gọi người Pháp vượt biển qua Anh gia nhập “Lực Lượng Pháp Tự
Do”, chiến đấu bên cạnh quân đội Đồng Minh.
Tại Đông Dương, chính quyền bảo hộ nhìn
thấy thế lực của Nhật đang tiến đánh Trung Hoa (1937), nên đã phục tòng chính
phủ Vichy ở mẫu quốc. Với đường lối này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương
trở nên đồng minh của lực lượng “Trục”. Sau khi tiến chiếm Hà Nội vào năm 1939
và sau khi Pháp đầu hàng Đức, quân đội Nhật vẫn để chính quyền thực dân tiếp tục
cai trị và phải có nghĩa vụ hậu cần cho quân đội Thiên Hoàng. Tình trạng này tiếp
tục cho đến năm 1945.
Sau khi quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ
biển Normandie và giải phóng nước Pháp, chính phủ Vichy bị lật đổ và bị bắt, De
Gaulle lên nắm chính quyền. Chính quyền thực dân tại Đông Dương quay lại thần
phục De Gaulle và vì vậy đã ở thế thù nghịch với quân đội Nhật đang bị thua trận
trên chiến trương Thái Bình Dương. Ngày 9/3/45 người Nhật trao tối hậu thư cho
toàn quyền Pháp, Decoux, yêu cầu đặt toàn bộ quân đội Pháp tại Đông Dương dưới
quyền chỉ huy và điều động của Nhật. Decoux từ chối và đã bị bắt ngay, không kịp
ra lệnh cho lực lượng Pháp dưới quyền. Quân đội Nhật bất thần tấn công các
doanh trại và cơ sở của chính quyền thuộc địa. Chỉ trong một đêm họ đã thanh
toán xong toàn bộ cứ điểm của Pháp, bắt giam tất cả các quan chức Pháp. Sử gia
Phan Khoang đã viết : “Sáng ngày 10/3/45 cờ Nhật phất phới từ Nam Quan đến Cà
Mâu. Ngày ấy Đại Sứ Yokohama yết kiến vua Bảo Đại ở Điện Kiến Trung, tuyên bố
trao trả độc lập cho nước Việt Nam”. Bảo Đại, sau đó đã tuyên bố hủy bỏ tất cả
những hiệp ước ký kết với Pháp trước đó và mời nhà trí thức Trần Trọng Kim ra
thành lập chính phủ. Tuy “thoát khỏi” ách nô lệ của Pháp, nhưng chính phủ này vẫn
phải đi theo đường lối thân Nhật và quân đội Nhật vẫn chiếm đóng trên đất nước
ta.
Sự cai trị của Pháp coi như bị gián đoạn.
Trong lúc đó đảng Cộng Sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia hoạt động ráo
riết để giành độc lập. Mặt Trận Việt Minh do cộng sản thành lập đã chiếm ưu thế
nên khi Nhật đầu hàng vào tháng 8/45, trong khoảng trống chính trị lúc đó, họ
đã huy động được quần chúng Việt Nam nổi lên cướp chính quyền ngày 19/8/45. Hồ
Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/45 tại Hà Nội, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong buổi lễ Hồ Chí Minh đã tuyên đọc mấy lời thề mà lời
thề đầu là “Cương quyết không thương thuyết với Pháp”. Tuy nhiên, tình thế phức
tạp lúc đó ở nước ta với sự hiện diện của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng của
Tưởng Giới Thạch tới tước khí giới quân đội Nhật đã gây bất ổn cho Hồ Chí Minh
và đảng cộng sản. Việt Minh rất mong quân đội Trung Hoa sớm rút khỏi Việt Nam.
Đồng thời, tham vọng lấy lại thuộc địa của thực dân Pháp cũng khiến họ thương
thuyết với Trung Hoa để quân đội của họ có thể thay thế quân đội Trung Hoa ở Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã thà phản bội lời thề, thương thuyết với Pháp còn hơn bị hại
bởi Quốc Dân Đảng Trung Hoa và Việt Nam. Vì thế ông ta đã ký với Sainteny Hiệp
Ước Sơ Bộ 6/3/1946 chấp nhận Việt Nam là một nước tự do trong Liên Hiệp Pháp và
để quân đội Pháp tiến vào miền Bắc. Tướng Leclerc của Pháp đã dẫn đoàn quân hơn
10.000 bộ binh và trên 100 chiến xa đổ bộ tại Hải Phòng. Cũng nên nhắc là theo
tinh thần Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/46 quân đội Pháp với 15.000 quân hợp tác với
10.000 quân Việt Nam (Việt Minh) để giữ an ninh trên lãnh thổ miền Bắc. Việt
Minh có sự cam kết của Pháp là sẽ không can thiệp vào những vụ xung đột giữa Việt
Minh và các đảng phái quốc gia, nên đã rảnh tay tấn công vào trụ sở Việt Nam Quốc
Dân Đảng (VNQDĐ) tại Hà Nội và các chiến khu của VNQDĐ tại các tỉnh ở miền Bắc.
Nhưng
ý đồ giành lại thuộc địa của Pháp rất là mạnh mẽ trong giới cầm quyền ở Pháp, đặc
biệt là De Gaulle. Quân đội Pháp đã mang quân tiến chiếm tất cả những công thự
và cơ quan của Pháp trước kia. Thái độ khiêu khích ngày càng gia tăng và cuộc
chiến đã bùng nổ ở nhiều thành phố, đặc biệt là Hải Phòng, Bắc Ninh. Ngày
19/12/1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Những năm đầu, Việt
Minh rất yếu thế : vừa đánh vừa xây dựng lực lượng. Chiến thuật họ thường dùng
là chiến tranh du kích mà họ học được của Mao Trạch Đông với phương châm “tứ
khoái, nhất mãn”. Về chiến lược, họ chủ trương trường kỳ kháng chiến, tiêu hao
địch. Hậu cần họ lấy tại chỗ, trong nhân dân. Vì vậy quân đội viễn chinh của
Pháp phải ngày đêm đi càn quét, đi lùng địch mà không phát hiện. Về vũ khí, Việt
Minh chủ yếu chỉ có súng nhẹ. Vũ khí cộng đồng thường là đại liên, trung liên,
súng cối 60 ly, súng cối 81 ly. Chủ yếu, lúc đầu là những vũ khí cũ của Pháp, Mỹ,
Anh, Nhật để lại sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nhiều nơi còn dùng gậy gộc, giáo mác, tầm
vông vạc nhọn. Họ có lập ra một vài “công binh xưởng” để chế tạo lựu đạn nội
hóa, bom ba càng và một số mìn bẫy. Từ năm 1950, tức là sau khi Mao Trạch Đông
chiếm được toàn bộ Trung Quốc, hỏa lực và quân số của Việt Minh mới phát triển.
Họ đã thành lập được những đơn vị cấp trung đoàn rồi “đại đoàn” (tương đương sư
đoàn hiện nay). Súng ống họ đã có phòng không, đại bác không dật (DKZ) và pháo
binh gồm 105 và sơn pháo 75 ly. Vũ khí và quân trang, quân dụng đã do đàn anh
Trung Cộng tiếp tế qua biên giới phí bắc. Những năm cuối của trận đánh, Việt
Minh đã phản công và quân chính quy chấp nhận trận địa chiến với Pháp, trong
lúc, quân địa phương và dân quân, tự vệ của họ tiếp tục đánh du kích. Kết quả
là hệ thống đồn bót của quân đội Pháp bị cô lập.
Nhận thấy tự mình tiến hành một cuộc chiến
tranh vũ trang không kham nổi, Pháp đã phải nhờ tới ông Bảo Đại. Họ cam kết
công nhận nền độc lập của Việt Nam không cộng sản do Bảo Đại làm quốc trưởng của
“Quốc Gia Việt Nam”. Những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, những người
từng là nạn nhân của cộng sản vô thần đã lần lượt quy thuận Quốc Gia Việt Nam.
Quân Đội Việt Nam được hình thành và chiến đấu bên cạnh quân đội Pháp.
Cuộc chiến kéo dài đến tháng 7/1954. Sự
tính toán chủ quan, sai lầm của tướng lãnh Pháp đã dẫn đến việc dồn quân vào
thung lũng Điện Biên Phủ, xa mọi hậu cứ tiếp vận, tạo cơ hội cho Việt Minh tổ
chức trận địa tiến hành một trận đánh lớn dẫn đến sự thất thủ của tập đoàn căn
cứ Điện Biên Phủ, quân Pháp đầu hàng lúc17 giờ 30 chiều ngày 5/5/1954. Hội nghị
Genève về Việt Nam khai mạc ngay ngày hôm sau khi Điện Biên Phủ thất thủ.
Hội nghị và Hiệp định Genève
Trong suốt gần 9 năm chiến tranh Đông
Dương, tình hình chính trị ở nước Pháp rất rối ren. Năm 1946 nền Đệ Tứ Cộng Hòa
Pháp ra đời với tổng thống Vincent Auriol. Dưới nhiệm kỳ của ông, vừa phải lo
chỉnh đốn nền chính trị, hành chánh, kinh tế, xây dựng lại nước Pháp sau chiến
tranh, vừa tiến hành một cuộc chiến tranh thu hồi thuộc địa ở Đông Dương cách mẫu
quốc hàng chục ngàn cây số. Chính khách Pháp lo tranh giành địa vị. Chỉ trong 9
năm đó đã có 2 đời tổng thống và 17 lần thay đổi chính phủ. Có nhiều chính phủ
lên chưa được mấy ngày đã bị lật đổ… Nắm được yếu tố này nên Hồ Chí Minh với sự
hỗ trợ của Liên Xô và Trung Cộng đã nắm chắc phần thắng trong tay. Nói cách
khác, đây là một trong những yếu tố khiến Pháp bại trận thê thảm ở Đông Dương.
Thật sự, người ta đã bỏ rơi những người lính của Pháp đang thi hành nhiệm vụ
trên chiến trường Đông Dương.
Trong lúc Điện Biên Phủ thất thủ thì
cũng là lúc chính phủ Laniel sụp đổ và người lên thay thế vào ngày 17/6/54 là
Mendès France. Ông có một lời hứa “Nếu trong 4 tuần lễ, vào ngày 20/7 tới đây,
tôi không đạt được một cuộc ngưng bắn tại Đông Dương, tôi sẽ từ chức”. Thực
tình, nếu ông không thành công mà có từ chức thì cũng như 16 ông “chủ tịch hội
đồng bộ trưởng” (thủ tướng) tiền nhiệm của ông thôi. Nhưng ý chí quyết liệt thực
hiện lời hứa của ông bằng bất cứ giá nào kể cả hy sinh số phận hàng triệu con
người thì ngoại trừ đảng viên cộng sản hay xã hội, khó ai làm nổi. Ông thuộc đảng
Xã Hội Pháp.
Sau Đệ nhị thế chiến, thế giới, đặc biệt
là Á Châu đã là sân khấu của một cuộc chiến tranh khác. Đó là cuộc chiến tranh
ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản bành trướng do Liên Xô và Trung Cộng thống
lãnh và khối các nước dân chủ Tây Phương, đứng đầu là Hoa Kỳ. Hình thức cuộc
chiến tranh lạnh là “chiến tranh ủy nhiệm”. Các cường quốc lãnh đạo không trực
tiếp đụng độ với nhau, nhưng khơi mào, nuôi dưỡng các cuộc chiến tranh ở những
quốc gia nhỏ bé. Cuộc chiến tranh mà cộng sản gọi là “chiến tranh giải phóng”
trên chủ trương, phong trào “giải phóng dân tộc” thực chất là chiến tranh bành
trướng chủ nghĩa cộng sản. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam bùng nổ từ cuối năm
1946 và cuộc chiến tranh Triều Tiên khởi sự vào ngày 25/6/1950. Cả 2 cuộc chiến
đều khốc liệt, đều là gánh nặng cho các quốc gia tham chiến. Nhưng thực sự thì
khối “thế giới tự do” sốt ruột nhiều hơn với cuộc chiến tranh Triều Tiên vì có
nhiều quốc gia Tây Phương tham dự. Sức ép nội bộ của từng quốc gia khiến họ cần
phải có một cuộc đàm phán để chấm dứt sự tham chiến của họ. Họ cũng chẳng tha
thiết gì đến vấn đề chiến tranh Đông Dương vì chỉ có Pháp liên quan và vì thế
Pháp đã tìm đủ cách để đưa vấn đề Việt Nam vào cuộc đàm phán mà họ rất cần. Họ
thực sự hết lực theo đuổi và muốn rút ra trong danh dự. Vì thế trong Hội Nghị tứ
cường (Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô) ngày 25/1/1954 tại Bá Linh, Pháp đã tìm mọi
cách thuyết phục các nước kia đưa vào nghị trình vấn đề “chấm dứt chiến tranh,
tái lập hòa bình tại Đông Dương”.
Hội Nghị Genève khai mạc vào ngày
26/4/1954 với sự tham dự của đại biểu 19 quốc gia để bàn về chiến tranh Triều
Tiên và chiến tranh Đông Dương. Một ngày bàn về Triều Tiên, một ngày bàn về Việt
Nam. Có các phái đoàn cường quốc đứng đầu 2 phe : Phe cộng sản có Liên Xô do
Molotov làm trưởng đoàn, Trung Cộng do Chu Ân Lai hướng dẫn. Phe thế giới tự do
có Hoa Kỳ với ngoại trưởng John Foster Dulles, Anh Quốc với Anthony Eden và
Pháp với Georges Bidault. Các nước liên hệ có phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Việt
Minh, Lào, Cao Miên, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Sau đây, chỉ nói về các
cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam mà thôi.
Hội nghị Genève về Việt Nam chính thức
được đẩy mạnh ngay sau khi Điện Biên Phủ thất thủ và đã khai mạc vào ngày
8/5/1954.
Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam gồm có các
ông : Nguyễn Quốc Định, ngoại trưởng (chính phủ Bửu Lộc) là trưởng đoàn, Nguyễn
Khắc Khê, Trần Văn Tuyên, Trương Văn Chình, Bửu Kính, Đoàn Thuận. Đến ngày
10/5, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được cử làm trưởng đoàn và tăng cường
thêm ông Nguyễn Duy Thanh.
Phái đoàn Việt Minh có Phạm Văn Đồng là
trưởng đoàn và các ông Phan Anh, Trần Công Tường, Hoàng Văn Hoan, Tạ Quang Bửu,
Nguyễn Thanh Hà, Hà Văn Lâu, Nguyễn Thanh Sơn, Đặng Tính, Trần Lâm, Hoàng
Nguyên, Trần Thanh, Lê Văn Chánh.
Phái đoàn Pháp có ngoại trưởng Bidault.
Phái đoàn Anh, có ngoại trưởng Eden. Phái đoàn Mỹ có thứ trưởng ngoại giao
Bedell Smith. Phái đoàn Liên Xô có Molotov. Phái đoàn Trung Cộng có Chu Ân Lai.
Phái đoàn Lào có Phumi Sananikone. Phái đoàn Cao Miên có Tep Than.
Lúc đầu, nghị trình họp cách ngày và họp
công khai, có báo chí tham dự. Mỗi bên lên đọc quan điểm của mình. Sau 4 phiên
họp như vậy, tại phiên họp ngày 14/5, Molotov đã thông báo kể từ kỳ họp tới là
ngày 17/5 các phiên họp sẽ không công khai và được thu hẹp lại : mỗi phe chỉ có
3 đại biểu. Tại phiên họp ngày 26/5, Pháp và Việt Minh thỏa thuận về ngưng bắn
và rút quân về các khu vực ấn định. Việt Minh đề nghị chia đôi lãnh thổ Việt
Nam, Pháp rút về phía Nam, Việt Minh rút về phía Bắc. Hội nghị cũng lập ra một
tiểu ban quân sự để bàn cụ thể về ngưng bắn và rút quân.
Phía Việt Minh có Tạ Quang Bửu thứ trưởng
quốc phòng, Đại tá Hà Văn Lâu và Hoàng Nguyên, thông dịch viên.
Phía Pháp Việt có Tướng Delteil, Đại tá
Brébisson…, Đại tá Lê Văn Kim, LS. Trần Văn Tuyên, Đại tá Trần Văn Minh và LS.
Bửu Kính. Phiên họp đầu tiên của tiểu ban này diễn ra ngày 2/6. Trên địa thế,
đã có những cuộc gặp gỡ, đàm phán về quân sự giữa hai phái đoàn quân sự Việt
Minh và Pháp Việt tại Trung Giá.
Trong suốt tiến trình Hội Nghị, Việt
Minh luôn đòi chia đôi lãnh thổ. Thoạt đầu, với chiến thắng Điện Biên, họ đòi
chia đôi ở vĩ tuyến 13. Phía Pháp đòi vĩ tuyến 18. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam
từ đầu luôn chống lại biện pháp chia đôi đất nước. Dưới sức ép của Liên Xô và
Trung Cộng, Việt Minh từ bỏ đòi hỏi vĩ tuyến 13 và chấp thuận vĩ tuyến 17. Trưởng
phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Định đã tuyên bố ngay : “Tôi để
cho phái đoàn Việt Minh trách nhiệm đối với lịch sử… Chia đôi, nghĩa là sớm muộn
cũng lại có chiến tranh”.
Trong lúc đang diễn ra Hội Nghị Genève
thì tại Việt Nam, Bảo Đại đã mời Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/54, ông
Diệm thành lập chính phủ và BS. Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng ngoại giao thay thế
Nguyễn Quốc Định. Ông cũng thay ông Định làm trưởng phái đoàn Việt Nam tại
Genève. Ông Đỗ khi biết Việt Nam sẽ bị chia đôi, đã đứng lên phản đối, giọng
nghẹn ngào vì xúc động trong bầu không khí im phăng phắc của cả Hội Nghị. Biến
cố này được nhà báo Pháp Jean Lacouture và LS. Trần Văn Tuyên viết lại.
Nội dung hiệp định Genève về Việt Nam
Hiệp Định Genève về Việt Nam đã được
chính thức ký kết vào lúc 3 giờ 50 phút sáng ngày 21/7/1954. Nhưng trên tường,
theo đề nghị của Mendès France, đồng hồ vẫn chỉ 12 giờ khuya ngày 20/7 để hắn
có thể giữ được lời hứa. Một sự gian lận lịch sử. Một mối nhục cho nước Pháp
ngay trong một Hội Nghị quốc tế, tại một quốc gia ngoài lãnh thổ Pháp.
Nội dung Hiệp Định có 47 điều và một phụ
lục và được tóm tắt như sau :
Lệnh ngưng bắn có hiệu lực từ ngày
22/7/54 vào lúc 0 giờ, giờ Genève, tức 7 giờ sáng giờ Sài Gòn. Tuy nhiên thời
điểm ngưng bắn cụ thể được ấn định tại Bắc Việt lúc 8 giờ sáng ngày 27/7; tại
Trung Việt lúc 8 giờ sáng ngày 1/8; và tại Nam Việt lúc 8 giờ sáng ngày 11/8.
Lằn ranh giới tuyến chia đôi Việt Nam là
vĩ tuyến thứ 17 Bắc. Cụ thể trên địa thế là từ cửa sông Bến Hải, theo giòng
sông đến làng Bồ Hô Su và biên giới Việt-Lào. Hai bên bờ sông, một vùng phi
quân sự rộng 5 km là trái độn giữa 2 vùng. Theo Hiệp Định, lằn ranh này chỉ tạm
thời và sẽ có cuộc tổng tuyển cử để thống nhất 2 miền vào tháng 7/1956 (thời điểm
này chính Pháp đã đơn điệu ấn định không có sự đồng ý của Quốc Gia Việt Nam).
Trong thời gian chờ tổng tuyển cử, mỗi bên có quyền quản trị hành chánh ở khu vực
của mình.
Cấm phá hủy cơ sở trước khi rút quân; cấm
trả thù hoặc ngược đãi những người đã cộng tác với đối phương khi trước; cấm
đưa thêm quân đội, vũ khí hoặc lập căn cứ quân sự ở vùng đối phương. Việc giám
sát đình chiến được giao cho một Ủy Hội quốc tế gồm Gia Nã Đại, Ba Lan và Ấn Độ.
Lúc đầu Việt Minh từ chối và đòi chỉ có Việt Minh và Pháp mà thôi.
Trong vòng 300 ngày dân chúng 2 miền có
quyền di chuyển từ vùng này sang vùng khác không bị hạn chế, không bị ngăn cản.
Việt Minh và các trưởng đoàn đại biểu đã
ký vào bản Hiệp Định và bản thông cáo chung ngoại trừ phái đoàn Quốc Gia Việt
Nam không ký. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng không ký.
Cuộc di cư vĩ đại
Tin tức về việc chia đôi đất nước đã là
một cú ỀsốcỂ mạnh đối với dân Hà Nội nói riêng và dân chúng toàn miền Bắc nói
chung. Thực ra, đối với đồng bào miền Nam và đồng bào cả nuớc chia đôi đất nước
là một mối đau của dân tộc. Xưa kia Trịnh Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm
biên giới đã khiến cho người đời nguyền rủa cho đến ngày nay. Phái đoàn Quốc
Gia, ngay sáng ngày 21/7 đã ra một bản tuyên ngôn mang chữ ký của Trưởng phái
đoàn, Bs. Trần Văn Đỗ : “long trọng phản đối việc ký kết hấp tấp thỏa hiệp
ngưng chiến do hai cơ quan Tư Lệnh Tối Cao Pháp và Việt Minh mà thôi” và “yêu cầu
Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký
kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của nhân
dân Việt Nam”.
dicu1954_2
Đối với một số dân chúng miền Bắc, không
có chuyện ở lại với Việt Minh vì họ đã chống Việt Minh cộng sản hoặc đã làm việc
trong bộ máy hành chính của quốc gia tại Hà Nội và các tỉnh lớn. Chính sách trả
thù và những hình ảnh đấu tố dã man trong cải cách ruộng đất của Việt Minh đã
làm cho họ lo sợ thêm. Bỏ lại tất cả sản nghiệp để di cư vào Nam, dù là chỉ
trong vài năm đã là điều trước đây không bao giờ họ nghĩ tới. Nhưng, do Hiệp Định
ký kết bởi thực dân và Việt Minh cộng sản, hôm nay, họ chỉ còn 300 ngày để quyết
định, để chuẩn bị, để gom góp của cải và bỏ xứ lên đường vào Nam ! Dư luận rất
xôn xao. Những người thức thời đã nhanh chân lên đường ngay những tháng sau đó.
Nhìn thấy xu hướng có hàng triệu người sẽ
bỏ miền Bắc vào Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm đã phải có đối sách khẩn cấp bằng
cách ban hành Nghị Định số 111.TTP/VP, thành lập một Tổng Ủy Di Cư. Cơ quan này
đầu tiên được giao cho bộ trưởng Nguyễn Văn Thoại làm tổng ủy trưởng và ông
Đinh Quang Chiêu làm phụ tá. Ngày 21/8 ông Ngô Ngọc Đối được cử thay thế ông
Nguyễn Văn Thoại và đến ngày 4/12 Bs thú y Phạm Văn Huyến được cử thay thế ông
Ngô Ngọc Đối.vn54_03
Cầu không vận do không quân Pháp thiết lập
từ ngày 10/8/54 với mỗi ngày khoảng 70 chiếc vận tải cơ Dakota để chuyển vận đồng
bào di cư vào Nam. Tại Tân Sơn Nhất, Bộ Xã Hội đón tiếp đồng bào và di chuyển về
các trại định cư. Mỗi ngày, vài ngàn đồng bào ở các tỉnh miền Bắc kéo nhau về
Hà Nội để được chuyển vận vào Nam. Một số rất đông đã được di chuyển xuống Hải
Phòng để được các chiến hạm của Pháp chở bằng đường biển. Với nhịp độ như vậy,
trong 10 tháng ngắn ngủi (300 ngày) đã có trên 860.000 người miền Bắc bỏ xứ di
cư vào Nam. Những đồng bào di cư gồm những thành phần nào ? Họ gồm các công chức,
một số các nhà trí thức đi theo trường mình dạy, thành viên các đảng phái quốc
gia, các nhà tư bản, doanh thương và đại đa số đồng bào Công Giáo. Trên con số
860.000 đồng bào di cư thì có đến 650.000 người Công Giáo. Trước Hiệp Định, miền
Bắc có gần 1,1 triệu người Công Giáo, nay chỉ còn lại 300.000 người. Hàng giáo
phẩm đã có 1.127 vị theo tín đồ di cư, còn lại khoảng 300 người gồm những vị
già cả, bệnh tật, không đi nổi. Con số đồng bào di cư còn có thể cao hơn nữa nếu
còn thời gian và nếu Việt Minh không ra sức ngăn cản. Nhiều người ở xa Hà Nội
và Hải Phòng đã không thể đi được. Việt Minh đã đàn áp dã man những người hô
hào, tổ chức đưa đồng bào di cư. Nhiều người đã bị bắt, bị thủ tiêu. Nhất là những
đồng bào ở vùng Nghệ Tĩnh (Quỳnh Lưu). Sau khi hết hạn 300 ngày, nhiều người
còn tiếp tục vượt biên bằng thuyền bè và đã bị Việt Minh cho thuyền võ trang đuổi
theo bắn bỏ. Một số người tìm cách vượt sông Bến Hải cũng bị chúng dùng tên độc
bắn trong lúc đang bơi chưa tới bờ phía Nam. Họ dùng tên độc vì trong vùng phi
quân sự không được nổ súng. Chưa có ai nghiên cứu để làm bản thống kê những người
chết trên đường đi tìm tự do hồi năm 1954.
hiep_dinh_geneve_2
Đồng bào đã được tạm định cư trong các
trại xung quanh Sài Gòn trước khi được đưa đi định cư vĩnh viễn ở các vùng Biên
Hòa, Bà Rịa, Vũng Tàu, Ban Mê Thuột, Diling, Blao, Liêng Khàng, Long Khánh, Nha
Trang, Cam Ranh, vv… Riêng trên vùng Cao Nguyên Miền Trung, có khoảng 300.000 đồng
bào đã được định cư. Sau một thời gian đầu khó khăn, nhưng được sự giúp đỡ tận
tình của chính phủ và của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, đồng bào di cư đã ổn định được
cuộc sống, làm ăn ngày càng phát đạt tạo thêm phong phú cho nền kinh tế cũng
như văn hóa, giáo dục tại miền Nam.
Bức màn tre đã buông xuống. Rất ít tin tức
về miền Bắc lọt ra ngoài. Nhưng chắc chắn dân chúng sẽ đói khổ và mất hết quyền
tự do căn bản dưới chế độ độc tài cộng sản. Một tài liệu về Nhân Quyền của một
cơ quan mang tên MISSIO thuộc Giáo Hội Công Giáo Đức đã làm một cuộc khảo sát về
Giáo Hội Miền Bắc và Miền Nam sau Hiệp Định Genève đã ghi những số liệu sau đây
: Vào năm 1953, tại miền Nam có 3 trường trung học tư thục Công Giáo. Đến năm
1969 có 226 trường đón nhận 82.927 học sinh Công Giáo và 70.101 học sinh ngoài
Công Giáo. Các trường tiểu học tư thục Công Giáo gia tăng, phát triển lên đến
con số 1.030 trường vào năm 1969. Mọi giới, mọi ngành trong miền Nam đã phát
triển mạnh mẽ.
Quốc hận phân chia đất nước
Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường khoe
khoang có công giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước. Họ dùng hai
công trạng này để bắt người dân mang ơn đảng CSVN và biện minh cho sự độc tôn độc
tài trên chính quyền tại Việt Nam. Các thế hệ sau có thể không rõ và có thể tin
vào luận điệu tuyên truyền này của họ. Phải biết là chính CSVN đã chủ trương và
đã đề nghị với quốc tế chia đôi đất nước tại Hội Nghị Genève năm 1954. Họ và thực
dân Pháp đã đặt bút ký văn bản quốc sỉ này. Trước đó, CSVN ký kết Hiệp Định Sơ
Bộ với Pháp để quân đội Pháp được trở lại miền Bắc. Hồ Chí Minh với tư cách chủ
tịch một nước đã đang đêm (2 giờ sáng đêm 13 rạng 14/9/46) gõ cửa Bộ Trưởng thuộc
địa Marius Moutet để ký cho bằng được bản “thỏa hiệp quan hệ” (modus vivendi)
là một bằng chứng cộng sản không tôn trọng danh dự, quốc thể và độc lập của Việt
Nam.
Dân tộc Việt Nam không thể tha thứ cho
CSVN về cái tội chia cắt đất nước. Năm 1954, họ đã cắt một nửa giang sơn dâng
cho thực dân Pháp. Hành động này không khác gì trong những năm gần đây, họ cắt
đất, cắt biển dâng cho Trung Cộng.
Đúng như trưởng phái đoàn Quốc Gia tham
dự hội nghị : “Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lãnh thổ sẽ
dẫn đến một cuộc chiến tranh khác…”.
Quả vậy, CSVN đã phản bội chữ ký của
chính họ mang quân tấn công miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam với bao
tang tóc thê lương. Lịch sử sẽ phán xét tội phản dân hại nước của CSVN.
Trần Đức Tường
Comments
Post a Comment