MỘT BÍ ẨN CẦN TIẾT
LỘ
TRONG CHUYỆN BỨC
TỬ
MIỀN NAM NĂM 1975
(Cập nhật hóa
03/04/2005)
Miền nam Việt Nam đã mất vào tay cộng sản đến
nay cũng đã hơn 25 năm. Biết bao nhiêu cuốn sách đã viết để nói lên sự thất trận
của miền nam. Câu hỏi mà nhiều người đặt ra là tại làm sao một quân đội gồm một
triệu quân binh hùng tướng mạnh như thế lại có thể sụp đổ chỉ trong vòng có 55
ngày. Có phải quân cộng sản miền Bắc quá tài giỏi chăng? Chắc chắn là không phải
như vậy, quân miền Nam đã đương đầu ngang ngửa với miền Bắc trong suốt bao
nhiêu năm trời. Quân đội miền Nam đã từng tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay Bắc
quân, từng giữ vững An Lộc trong khi bị mỗi ngày từ 8000 đến 10000 trái đạn
pháo, thế thì tại sao miền Nam lại sụp đổ quá mau chóng trong trận chiến năm
1975. Phải chăng có một âm mưu bức tử miền Nam? Câu hỏi này đã có nhiều người
nói đến nhưng chưa ai trưng ra được bằng chứng cụ thể về chuyện bức tử miền
nam. Bài viết này nhằm tiết lộ một bí mật lịch sử nhằm trả lời cho câu hỏi đó.
Tôi đến Mỹ năm
1980 . Tình cờ đi thuê phòng ở gia đình một người Việt Nam trong vùng Los
Angeles thì gặp được người chủ nhà người Nam tên HTH. Ở chung nhà với nhau anh
có kể cho tôi nghe chuyện anh ra khỏi Đà Nẵng trong những ngày cuối tháng 3 năm
1975 như thế nào và những lời anh kể đúng là chứng liệu lịch sử giúp người Việt
nhìn lại biến cố 1975 với tất cả những sự thật trần trụi, phũ phàng của nó.
Anh H kể rằng lúc
Đà Nẵng bị tràn ngập thì anh tìm cách đi xà lan ra khơi để cặp vào tàu lớn.(Anh
vốn là một thanh tra hành chánh, đang làm công việc thanh tra tại Đà nẵng vào
những ngày chiến trận sôi động tại Đà Nẵng.) Lúc lên tàu thì anh gặp được Trung
tướng Ngô quang Trưởng đang ở trên tàu. Theo như anh nghe lại những người trên
tàu kể lại là lúc tướng Trưởng lên tàu, ông bị ngất xỉu. Ông được một bác sĩ
quân y tên Ngô quang Nghiêm chích cho một mũi thuốc khỏe và tướng Trưởng tỉnh lại.
Lúc gặp anh H bạn tôi trên tàu, tướng Trưởng có nói một câu như thế này "
Tôi không ngờ tình tình chính trị đi nhanh hơn tình hình quân sự." Có thể
giải thích câu nói này một cách đầy đủ là " Sự sụp đổ quá nhanh chóng của
vùng 1 là do sự dàn xếp chính trị chứ tình hình quân sự không thể nào diễn tiến
tồi tệ đến như vậy". Tướng Trưởng hiện nay định cư tại Virginia và Bác sĩ
Ngô quang Nghiêm hiện đang ở tiểu bang Texas. Ai muốn tìm hiểu sự trung thực của
câu chuyện kể trên, xin liên lạc để kiểm chứng với tướng Trưởng và Bác sĩ
Nghiêm.
Trung tướng Ngô
quang Trưởng là một trong những tướng lãnh giỏi và xuất sắc nhất của quân đội
Việt Nam Cộng Hòa. Tài nghệ dụng binh của ông đã để lại những câu chuyện trở
thành huyền thoại. Năm 1968, cộng sản chiếm thành phố Huế trong vòng 25 ngày.
Ông Trưởng lúc ấy đóng tại đồn Mang Cá tại Huế. Những cuốn sách của Cộng sản xuất
bản sau 1975 nói về trận đánh Huế cho biết Cộng sản đã nhiều lần cho quân xung
phong để chiếm cho được đồn Mang cá do Ngô quang Trưởng chỉ huy nhưng lần nào
cũng thất bại và bị thiệt hại nhân mạng khá nhiều. Ông Trưởng giữ vững đồn Mang
Cá cho đến khi thành phố Huế được quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm trở lại.
Đại tướng Mỹ
Norman Schwarzkopf, một anh hùng của Mỹ trong trận chiến vùng vịnh với Saddam
Hussein, sau khi về hưu có viết một cuốn hồi ký tên " It does not take a
hero " ( Không cần có một anh hùng) kể lại cuộc đời binh nghiệp của ông từ
nhỏ cho đến khi ông về hưu. Ông không quên nhắc đến tướng Ngô quang Trưởng với
sự thán phục về tài điều khiển hành quân của tướng Trưởng . ( Lúc qua Việt Nam,
tướng Schwarzkopf là thiếu tá, làm cố vấn cho Đại tá Ngô quang Trưởng). Trong
cuốn hồi ký có những đoạn đề cập đến Tướng Trưởng như sau:
" ...Colonel
Ngo Quang Truong was General Dong's chief of staff. He did not look like my
ideas of a military genius: only five feet seven, in his midforties, very
skinny, with hunched shoulders and a head that seemed too big for his body. His
face was pinched and intense, not at all handsome, and there was always a
cigarette hanging from his lips. Yet he was revered by his officers and troops-
and feared by those North Vietnamese commanders who knew his ability. Any time
a particular tricky operation came up, Dong put him in commamnd. ( Trang 122)
" Tạm dịch :
Đại tá Ngô Quang Trưởng là tham mưu trưởng của tướng Đống ( Dư quốc Đống). Ông
ta không giống hình ảnh một thiên tài quân sự mà tôi thường nghĩ đến : cao chỉ
5 bộ 7 ( chừng 1m70), ở lứa tuổi giữa bốn mươi, rất ốm, với lưng gù và có cái đầu
dường như quá to so với thân hình của ông. Gương mặt ông nhăn nhúm và rắn rỏi,
không đẹp trai tí nào cả, và trên miệng ông luôn có điếu thuốc lá nằm ở đó. Thế
mà ông được những viên chức và binh lính của ông kính nể - và làm kinh sợ những
cấp chỉ huy của miền Bắc, những người biết khả năng của ông. Bất cứ khi nào có
một chuyện hành quân mưu mẹo đặc biệt nào đó xảy ra, Đống đặt ông vào nhiệm vụ
chỉ huy).
" ....Simply
by visualizing the terrain and drawêing on his experience fighting the enemy
for fifteen years, Truong showed an uncanny ability to predict what they were
going to do."
( Trang 123)
" ... Chỉ
đơn giản hình dung ra địa thế và moi lại kinh nghiệm chiến đấu chống kẻ thù
trong mười lăm năm, Trưởng đã chứng tỏ khả năng kỳ lạ của ông trong chuyện tiên
đoán chúng sẽ làm gì."
" I'd never
heard anything like this at West Point. I was thinking, " What's all this
about eight o'clock and eleven o'clock? How can he schedule a battle that
way?" But i also recognized the outline of his plan: Truong had reinvented
the tactics Hannibal had used in 217 B.C when he enveloped and annihilated the
Roman legions on the banks of Lake Trasimene."
( Trang 123)
" Tôi chưa từng
nghe thấy điều gì như thế này tại trường võ bị West Point. Tôi nghĩ " Cái
gì mà 8 giờ và 11 giờ thế này ? Ông ta sắp xếp trận đánh kiểu gì đây? "
Nhưng tôi cũng nhận ra được nét đại cương của kế hoạch của ông : Trưởng đã tái
sáng chế ra cái chiến thuật mà Hannibal đã dùng vào năm 217 trước Công Nguyên
khi ông bao vây và tiêu diệt quân đoàn La Mã trên những bờ hồ Trasimene."
Những lời ca ngợi
của đại tướng Schwarzkopf về tướng Trưởng nói trên đủû để xác định tướng Trưởng
là một thiên tài quân sự. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng chính là người chỉ huy
quân đội Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm lại thành phố Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa
năm 1972. Thế thì vùng 1 sao lại mất quá dễ dàng vào tay cộng sản trong tháng 3
năm 1975. Nhìn lại tình tình lúc đó thì rõ ràng tướng Trưởng đã lọt vào một
" mê hồn trận " do Saigòn đề ra khiến ông không còn chủ động để điều
binh khiển tướng được nữa. Những lệnh bất nhất từ Sài gòn đưa ra như bảo giữ Huế
rồi lại ra lệnh bỏ Huế, bảo giữ Đà Nẵng rồi lại ra lệnh bỏ Đà Nẵng. Những lệnh
quái gỡ như thế đã trói tay thiên tài quân sự Ngô Quang Trưởng và kết quả là
vùng 1 đã mất vào tay Cộng Sản mà quân đội miền Nam tại vùng 1 chưa có dịp để
đánh trận nào cả. Với con mắt của người chỉ huy quân sự chuyên nghiệp, tướng
Trưởng đã nhìn thấy rất rõ âm mưu giật sập miền Trung của Sàigòn cho nên ông mới
thốt ra câu nói " Tôi không ngờ tình hình chính trị đi nhanh hơn tình hình
quân sự"với anh bạn tôi.
Mấy năm trước
đây, báo chí Việt ngữ hải ngoại có tìm gặp Trung tướng Ngô quang Trưởng để tìm
hiểu về chuyện tan rã của quân đoàn 1 vào tháng 3 năm 1975, tướng Trưởng đã thẳng
thắn kể lại những chuyện xảy ra đối với quân đoàn 1 do ông chỉ huy. Những lời kể
của ông được nghệ sĩ Lê bá Chư ghi lại trong bài viết mang tên " Vì sao
tôi bỏ quân đoàn 1" có nội dung như sau:
" Ngày 13
tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp, tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự
ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng ( Trần thiện
Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài
Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh
chủng khác. Lần này, thì chỉ có một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng
khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay
hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức
tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng
Ngãi, và Đà nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ
sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những
vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của
tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch
là: Phải rút Quân đoàn 1 càng sớm càng hay.
Trở ra quân đoàn
1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng,
và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các
sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ
hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng
khi chỉ với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy cuộc họp hôm đó
cũng chẳng mang lại kết quả nào như ý tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu
yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân đoàn 2 vào
ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm
ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Cái sai lầm của
Trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư
lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn v..v đã không biết gì
về lệnh rút quân của Quân đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng,
Đại tướng Cao văn Viên, tôi ( tư lệnh Quân doàn 1), và tư lệnh Quân đoàn 2 ( tướng
Phạm văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và
các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì
giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ
cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng
nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban mê Thuộc,
Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một
đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp
lực nặng. Tôi ra lệnh cho tướng Trần văn Nhựt rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn
tại Lý Sơn ( Cù Lao Ré) để kiểm soát đường biển, sợ địch ra chiếm đóng thì đường
biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân
chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy
theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua, tuyên
bố với lòng dạ sắt đá, nói cứng rắn với anh em là quyết giữ để không mất một tấc
đất ở vùng 1 là một chuyện thật khó làm.
Sau đó tôi suy
nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi Đại tướng Cao văn Viên nhờ xin tổng thống Thiệu
cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ Huế và
vùng 1 ? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao nhiêu chiến hữu của
tôi đã đổ máu để gìn giữ ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em đã đổ nhiều.
Tổng thống Thiệu
rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp
tướng Lâm quang Thi ( tư lệnh phó Quân đoàn 1) vốn là người đang chỉ huy tại Huế.
Tôi chỉ thị: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được
một lệnh do Đại tướng Cao văn Viên thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi " bỏ
Huế". Lệnh đó làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi
đã ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết
ăn nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đây. Nhưng tôi vẫn phải đành thi
hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng
Thi trả lời ngay, " Ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình
hình cũng tốt cả, mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời,
" Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là
không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến cửa
Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng.
Trong khoảng thời
gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và
báo cáo mọi biến chuyển, từ công việc hành chánh đến quân sự.. Tình hình khó
khăn, địch tấn công mà lại thêm cái lệnh " phải rút càng sớm càng tốt
" lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo
cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3 năm 1975,
Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho tập họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng,
thị trưởng, bộ tham mưu và các trưởng phòng sở hành chánh để thủ tướng nói chuyện.
Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng
tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại
nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình mà giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ
thái độ " trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà
nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong đến phần thắc mắc thì
cũng không có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để
nói cho thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình
Đại tá Kỳ, tình trưởng Quảng Trị, có hỏi một câu, " Thưa thủ tướng, trong
mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở, không đến làm việc,
thế thì phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó? Câu hỏi thật hay
nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm
sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân khu 1 càng sớm
càng tốt.
Đúng ngày 22 tháng
3 năm 1975, tôi được lệnh rút sư đoàn Dù và sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ
Nha Trang. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, Cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận
giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một
lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu đang chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu
liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một
nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát, làm sao tôi có thể làm chuyện tái chiếm
đó được ( tái chiếm Đà Nẵng) ?Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào
Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ cho một mình tôi về Sài
Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi.
Tôi nhờ hạm trưởng
gọi về bộ Tổng tham mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh
dưỡng, nghĩ ngơi cùng tôi. Còn không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh
em Thủy Quân Lục Chiến để cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho
tàu chở tất cả về Sài Gòn.
Về đến Sài Gòn,
tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào
đây tôi gặp phó đề đốc Hồ văn Kỳ thoại ( tư lệnh Hải Quân vùng 1 Duyên Hải) và
Chuẩn tướng Nguyễn văn Khánh ( tư lệnh sư đoàn 1 không Quân) và Trung tướng Thi
thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ
như vây. Họ đâu có tội gì, họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả
thật là bất công. Tướng Thi thật sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước
khi nghe tôi cho biết là tồng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời
thẳng với tôi rằng, " Xã ấp còn tốt quá mà bỏ chạy là sao?" Vậy mà
bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng như tướng Thi bị phạt
oan uổng trong khi họ còn xứng đáng hơn gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn
ở Sài Gòn.
Hôm sau trong buổi
họp tại Bộ Tổng tham Mưu, tôi có nói rằng, " Việc phạt tướng Thi cùng hai
tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm
theo chỉ thị của tôi mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt
tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua tướng Trần văn
Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể
vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh
cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn mới đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế để rút
lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh
phạt. Sau đó, tướng Lê nguyên Khang buột miệng nói với giọng giận dữ, "
Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả! " Tiện đây, tôi cũng xin nói
về trường hợp của tướng Thoại và tướng Khánh. Với chức tư lệnh trong tay, có
hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn
loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên, không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và
ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của
Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, khi họ thấy Đề đốc Thoại
ở đó, họ liền ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau
này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh , tư lệnh sư đoàn 1 Không Quân, đã không đủ
nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội
ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn."
Lời trần tình của
tướng Trưởng như thế cũng đã quá rõ ràng và đầy đủ. Những lệnh bất nhất từ Sài
Gòn do Thiệu đưa ra không phải là do Thiệu bối rối mà là một sự tính toán tinh
vi để giật sập Quân Đoàn 1 mà tướng tài giỏi Ngô quang Trưởng đành phải bó tay,
không xoay sở gì được.
Không những đánh
giặc giỏi, tướng Ngô quang Trưởng lại là một người cực kỳ thanh liêm, được sự
quý mến của dân và quân dưới quyền, ông không bao giờ dính dáng vào những chuyện
tham nhũng xấu xa như những tướng lãnh khác. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thật
hãnh diện khi có những tướng lãnh vừa cầm quân hay vừa thanh liêm như Ngô quang
Trưởng, Nguyễn khoa Nam. Nếu Mỹ không bỏ cuộc thì vùng 1 do tướng Trưởng nắm và
vùng 4 do tướng Nam chỉ hay sẽ không bao giờ thất thủ trước quân đội Cộng sản.
Rõ ràng là lệnh
giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt
ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình
hành động?
Có người còn cho
rằng Thiệu bị " tháu cáy " lúc giật sập Quân đoàn 1 và 2 vì Thiệu tưởng
khi để mất vùng 1 và 2, chính phủ Mỹ sẽ xúc động và viện trợ khẩn cấp nhiều
hơn, không ngờ Mỹ quyết định bỏ rơi luôn Miền Nam. Và vì lý do đó mà Thiệu lên
truyền hình chửi rủa Mỹ thậm tệ vào ngày 21 tháng 4 năm 1975 khi Thiệu biết
mình bị " tháu cáy" trong ván bài cân não với Mỹ. Dù sao đây cũng chỉ
là một sự phỏng đoán. Hy vọng với thời gian sẽ có nhiều tài liệu được công bố
thì mới biết được chuyện Thiệu có bị " tháu cáy" hay không?
Trước khi vùng 1
thất thủ, thì ở vùng 2, toàn bộ Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về
Tuy Hòa bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng Quân đoàn 2,
sau này ra hải ngoại có lên một đài phát thanh và kể chuyện lại rằng, khi nhận
được lệnh rút quân, một tướng lãnh của quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với
ông, " Thôi rồi, bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm
nữa." Một thiếu tá pháo binh bày tỏ sự tức giận với ông Lý, " Súng đạn
còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này." Chuyện kể của
tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ
Pleiku về Tuy Hòa thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong
cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài gòn.
Ông Thiệu giật sập
vùng 1 và vùng 2 với dụng ý gì? Phải chăng là tạo sự xúc động trong chính trường
Mỹ để quốc hội Mỹ viện trợ khẩn cấp để cứu miền Nam hay còn vì một lý do nào
khác? Ông tự ý hành động hay làm theo lời của Mỹ? Có phải Mỹ muốn ông Thiệu giật
sập miền nam càng sớm càng tốt để thế giới khỏi trong thấy thêm những cảnh
thương tâm do chiến tranh gây ra để rồi lên án Mỹ thêm? Nếu ông một mình tự ý
hành động, phải chăng đây là hành động " tái phối trí " và " di
tản chiến thuật " để co cụm lại sức lực quân đội miền Nam nhằm đối phó với
cuộc tổng tấn công của cộng sản? Nếu hành động theo lời Mỹ thì tại sao ngày 21
tháng 4 năm 1975 ông lên đài truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là bất tín, nào
là bội ước, thất hứa, để rồi sau đó vài ngày ông và gia đình được Mỹ " bồng"
ra ngoại quốc một cách nhẹ nhàng êm thắm. Liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở
kịch mà ông đóng quá hay không? Những câu hỏi này chỉ có Mỹ và ông Thiệu mới có
thể trả lời nhưng ông Thiệu và Mỹ có lẽ sẽ không bao giờ trả lời những bí mật
đen tối của lịch sử này. Lúc cùng gia đình đi phi cơ tới Đài Loan, được báo chí
hỏi về trách nhiệm của ông trước sự hấp hối của miền Nam, Tổng thống Thiệu trả
lời: " Đó là tất cả tôi có thể làm cho quê hương của tôi!" Lời nói vô
liêm sỉ này của Thiệu được Trần văn Trà, thượng tướng của Việt Cộng, nhắc lại
trong hồi ký " Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm " và phê bình lời nói
trên của Nguyễn văn Thiệu như sau, " Đó là khẩu khí của một tên tổng thống
ngụy quyền !"
Cách đây mấy năm
lúc được Đài radio Bolsa của Việt Dzũng phỏng vấn nhân ngày 30 tháng 4. Ông Thiệu
không dám để cho Việt Dzũng tự ý hỏi mà bắt Việt Dzũng phải đưa cho ông những
câu hỏi trước rồi ông chọn câu hỏi mà trả lời. Phải chăng ông ngại là sẽ có những
câu hỏi bất ngờ sẽ làm ông lúng túng khi trả lời và không khéo sẽ làm lòi ra
cái tội giật sập miền Nam của ông ?. Có điểm cần lưu ý thêm là ông Thiệu đã giật
sập luôn Tổng đoàn Bảo An của Phật giáo Hòa Hảo trong những ngày cuối tháng 4
năm 1975, đây là một lực lượng chống cộng quyết liệt tại miền Tây. Điều này
càng chứng tỏ âm mưu giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu quá sức rõ ràng.
Thiệu giật sập miền Nam theo lệnh Mỹ hay giật sập miền Nam theo sự suy tính của
mình và với mục đích gì thì phải cần thêm thời gian và tài liệu được công bố mới
có thể trả lời được câu hỏi hóc búa này.
Trong cuốn "
Đại thắng mùa xuân " của Đại tướng cộng sản Văn tiến Dũng, mặc dù huênh
hoang khoe tài chỉ huy quân sự của y nhưng y cũng tiết lộ thêm là khi mở đầu trận
đánh vào Ban-Mê-Thuộc vào ngày 10 tháng 3 năm 1975, bộ chính trị của Đảng cộng
sản cũng chỉ tiên liệu rằng cũng phải mất 2 năm 1975 và 1976 mới dứt điểm được
miền Nam. Không ngờ sau trận Ban-Mê- Thuộc, quân Cộng Sản tới đâu thì quân Cộng
Hòa đã chạy trước rồi, thành ra thời gian tiên liệu chiến thắng miền Nam trong
vòng 2 năm thì thu ngắn lại còn 55 ngày. Sự ngỡ ngàng của Văn tiến Dũng đã phần
nào nói lên sự giật sập quân đội miền Nam có tính toán của chính quyền Nguyễn
văn Thiệu. Quân đội cộng sản chỉ khựng lại ở mặt trận Xuân Lộc vì ở đây sư đoàn
18 của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của tướng Lê minh Đảo đã được
lệnh đánh và đã cầm chân ngay 3 sư đoàn Bắc quân. Và khi quân đội miền Bắc muốn
tiến mau hơn nữa thì ăn ngay mấy trái bom hút không khí CBU làm kinh hoàng cán
binh cũng như cấp lãnh đạo cộng sản tại mặt trận. Mỹ muốn dằn mặt bộ đội cộng sản
là họ cần thì giờ để di tản số người Mỹ còn lại ở Saigòn. Cho nên mặt trận Xuân
Lộc cứ dằng dai cho đến khi Mỹ rút gần hết số nhân viên ở Sài gòn thì mới
" được lệnh " thất thủ.
Không phải đợi đến
những ngày cuối tháng 4 toàn dân miền Nam mới thấy được bộ mặt tồi bại, xấu xa,
hèn hạ và vô liêm sĩ của Nguyễn văn Thiệu. Gần mười năm ăn trên ngồi trốc trong
dinh Độc Lập, khi giặc đến gần kề thì cùng gia đình và tài sản thu tóm được
trong những năm cầm quyền lên phi cơ và ca bài " Được làm vua, thua chạy
trước." Trong thời chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu
cùng với đàn em là Trung tướng Đăng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu.
Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời
loạn lạc, làm cai thầu chống cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho
đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện
hèn nhát, đúng là " có cháy nhà " mới " lòi mặt chuột "
Nguyễn văn Thiệu. Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong
cuốn hồi ký " Việt Nam máu lủa quê hương tôi" , cựu thiếu tướng Đỗ Mậu
đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ
Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống cộng do Mỹ dựng nên là Nguyễn
văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma
túy.. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém
của hai tay này. Bỏ quân, bỏ dân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sĩ và
danh dự của người lãnh đạo. Thiệu và Kỳ sẽ còn bám víu quyền lực nếu ngày nào
còn viện trợ của Mỹ mà thôi. Công tâm mà nói, đúng ra vào những ngày cuối tháng
4 năm 1975, Nguyễn cao Kỳ tính làm một cuộc đảo chánh chính phủ Dương văn Minh
mới thành lập để đối đầu với Bắc quân. Dĩ nhiên là người Mỹ biết chuyện đó và
trùm CIA ở Saigòn lúc đó là ông Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được lộn xộn, Kỳ
nghe như thế thì riu ríu vâng lời vì đã nhiều năm làm việc với người Mỹ, Kỳ hiểu
rằng nếu cứng đầu, bướng bỉnh cãi lại Mỹ thì chỉ mang họa vào thân. Trước đây
khi ép buộc Tổng thống Thiệu ký hiệp định Paris vào tháng 1 năm 1973, Tổng thống
Nixon cũng gửi nhiều bức thư cho Thiệu, cảnh cáo xa gần là Thiệu là nên nghe lời
Mỹ mà ký, chứ nếu không thì sẽ chịu số phận thê thảm của Tổng thống Diệm. Những
lời hù dọa úp mở này đã có kết quả: Nguyễn văn Thiệu đồng ý ký vào hiệp định
Paris dù bản thân Thiệu cũng biết đây là hiệp định bán đứng miền Nam cho Cộng sản
. ( Xin đọc kỹ cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Độc Lập " của Nguyễn tiến
Hưng để coi lại những bức thư mà Nixon viết cho Thiệu nhằm thuyết phục và hăm dọa
Thiệu ký ). Trùm xịa Polgar không muốn Kỳ đảo chánh để đối đầu với Bắc quân vì
làm như thế là cản trở chuyện giật sập miền nam của Mỹ thế thôi.
Vào khoảng năm
1977, lúc đang còn ở Anh quốc, khi được những ký giả hỏi về tình cảnh của những
người Việt đi vượt biển thì Nguyễn văn Thiệu trả lời một câu bạc bẽo, bất cận
nhân tình và cạn tàu ráo máng với đồng bào Việt Nam như thế này: " Tôi
không có dính dáng gì đến họ cả "( I have nothing to do with them). Cuộc đời
của Nguyễn văn Thiệu được coi là một cuộc đời tốt số: vợ đẹp, con ngoan, quyền
thế, giàu có nhưng Nguyễn văn Thiệu có một chỗ ngồi khá buồn trong lịch sử, đó
là :thùng rác của lịch sử. Đối với những kẻ việt gian bán nước hại dân như Thiệu,
thiết tưởng không còn chỗ ngồi nào sạch sẽ hơn dành cho ông ta.
Miền nam sụp đổ
năm 1975, nhân dân miền Nam đau đớn đã đành, thế nhưng ở tại miền Bắc, có một
người tù tên Nguyễn chí Thiện đã tỏ bày những tình cảm đau đớn, uất hận như
sau:
Khi Mỹ chạy, bỏ
miền Nam cho cộng sản
Sức mạnh toàn cầu
nhục nhã kêu than
Giữa tù lao, bệnh
hoạn, cơ hàn
Thơ vẫn bắn, và
thừa dư sức đạn!
Vì thơ biết một
ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn
Không giành cho
thế lực yêu gian
Tuyệt vọng dẫu
lan tràn
Hy vọng dẫu tiêu
tan
Dân nước dẫu đêm
dài ai oán
Thơ vẫn đó, gông
cùm trên ván
Âm thầm, thâm
tím,kiên gan
Biến trái tim
thành " chiếu yêu kính"
giúp nhân gian
Nhận rõ nguyên
hình cộng sản
Tất cả suy tàn, sức
thơ vô hạn
Thắng không gian,
và thắng cả thời gian
Sắt thép quân thù
năm tháng rỉ han!
Khi Mỹ chạy (1975)
Miền Nam chiến đấu
chống Cộng sản trong suốt 21 năm ( 1954-1975) . Miền nam được sự hỗ trợ kinh tế
và quân sự của Mỹ, tiếc rằng Mỹ không đóng vai trò một đồng minh tin cẩn, nhiệt
thành mà Mỹ là hiện thân của một ông chủ thô bạo, thô bỉ, tiền hậu bất nhất để
rồi mới đưa đến thảm kịch 30 tháng 4. Tổng thống Nixon trong những cuốn sách của
ông đã có lần nhắc lại lời nói của một vài lãnh tụ của những nước ở Đông nam Á
đã có một nhận định phũ phàng cay đắng về Mỹ : " Thà là kẻ thù của Mỹ hơn
là bạn của Mỹ." Nếu chúng ta đánh giá Cộng sản là bọn " lừa thầy phản
bạn" thì cũng có thể nói Mỹ là một thứ " phản bạn lừa thầy ". Cứ
xem chuyện Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam và chuyện Mỹ đá Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc
để dành chỗ cho Trung Cộng thì mới thấy người ta phê phán Mỹ bằng những danh từ
bẩn thỉu, tàn tệ nhất cũng không có gì là quá đáng. Thật ra Mỹ quốc mới lập quốc
mới trên 200 năm, dân lập nghiệp toàn là dân tha hương tứ xứ, ăn ở theo lối
" ăn xổi ở thì" thì làm sao nước Mỹ gây dựng nổi một truyền thống ăn ở
theo lối thủy chung, trước sau như một được. Hy vọng dần dà qua ngày tháng người
Mỹ sẽ nhận ra rằng có những điều danh dự, tính thủy chung bè bạn, sự tự trọng của
một quốc gia còn quí giá hơn nhiều những lợi nhuận nhất thời trước mặt. Không
xây dựng được một uy tín thì trước sau gì cũng thất bại trên mặt trận ngoại
giao và sẽ dẫn đến những thất bại khác. Đầu óc thực dụng của Mỹ chỉ thành công
trong thời gian hiện tại và đôi khi sẽ gây mầm nguy hại về lâu về dài. Sự thất
bại của Mỹ ở Việt Nam là một bài học nhục nhã và người Mỹ sẽ tiếp tục bị thất bại
nếu không rút tỉa ra những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã phạm trong chiến tranh
Việt Nam. Điều cần nhất là Mỹ phải hiểu rõ những điều điện văn hóa, nhân sinh của
một nước trước khi dính líu đến nước đó. Mỹ thất bại với Việt Cộng là vì đánh
giá quá thấp khả năng chiến đấu của Việt Cộng, đã không làm tròn vai trò đồng
minh của Việt Nam Cộng Hòa mà chỉ muốn độc đoán điều hành mọi chuyện, kể cả
chuyện đưa quân Mỹ vào miền Nam làm mất chính nghĩa của miền Nam mà Tổng Thống
Ngô đình Diệm lúc còn đương quyền đã cực lực phản đối. Người lính Mỹ mắt xanh
mũi lõ có mặt trên đất nước Việt Nam có lẽ cũng không khác gì hình ảnh của lính
Pháp viễn chinh ngày xưa. Thêm vào đó, Mỹ không muốn tìm một người lãnh đạo quốc
gia có tư cách để cùng chống cộng vì những người này đôi khi xung khắc với đường
lối của Mỹ, cho nên Mỹ chỉ muốn tìm tay sai để sai bảo cho dễ và những tên tay
sai thì thường mất tư cách, tham nhũng, làm suy yếu tiềm năng chống cộng. Viện
trợ của Mỹ trước đây đổ vô miền Nam như đổ vô cái thùng không đáy vì tệ nạn
tham nhũng mà đứng đầu là vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu. Thượng bất chánh thì
hạ tắc loạn, toàn miền Nam trở thành những ổ tham nhũng khắp mọi ngành làm tiêu
hao sinh lực trong chuyện chống cộng. Phó tổng thống Trần văn Hương hồi đó cũng
đã than thở về chuyện tham nhũng một cách cay đắng, " Diệt hết tham nhũng
thì lấy ai ra mà làm việc." Miền Nam ngày xưa sụp đổ phần nào cũng vì tệ nạn
tham nhũng và Việt Nam bây giờ cũng chẳng có gì khá hơn. Câu nói của cộng sản
" Người người thi đua, ngành ngành thi đua " trở thành " Người
người tham nhũng, ngành ngành tham nhũng" . Mức độ tham nhũng bây giờ còn
khủng khiếp hơn trăm ngàn lần ngày xưa, đến nỗi cộng sản phải thú nhận chuyện
tham nhũng trở thành quốc nạn. Cộng sản rồi cũng sẽ sụp đổ một phần nào cũng do
quốc nạn này. Quả thật, nếu không học những bài học của lịch sử thì sẽ phải lập
lại những vết xe đổ của lịch sử và cộng sản Việt Nam hôm nay sẽ bị bánh xe lịch
sử nghiền nát vì những lỗi lầm của chế độ miền Nam mà họ đã đánh ngã.
Sau khi miền Nam
sụp đổ năm 1975, có nhiều dư luận tìm cách đưa ra những nguyên nhân khiến Mỹ bỏ
rơi Nam Việt Nam. Một trong những lý lẽ đưa ra là Mỹ, sau khi bắt tay được với
Trung Cọng mà điển hình cho chuyện này là chuyến công du Trung Cộng của Tổng thống
Nixon nên Mỹ không còn quan tâm đến chủ thuyết Domino ở Đông nam Á nữa. Hơn nữa,
thị trường thương mại của 1 tỉ người Trung quốc sẽ béo bở hơn nhiều so với 17
triệu dân miền Nam Việt Nam. Đây cũng là một cách giải thích nhưng chuyện Mỹ quyết
định rút khỏi miền Nam đã được nói rõ trong hồi ký của Tổng thống Nixon trong hồi
ký của ông. Lúc ông Nixon đang làm tổng thống thì trung bình quân Mỹ thiệt hại
chừng 400 người mỗi tuần. Có lần tờ báo Life đã đăng hình 400 người lính Mỹ thiệt
mạng trong một tuần ở chiến cuộc Việt Nam và điều này làm cả nước Mỹ xúc động lớn
lao. Mạng Mỹ bao giờ cũng có giá hơn mạng Việt Nam, máu của Việt Nam bao giờ
cũng rẻ hơn máu Mỹ. Ngày xưa, trong thời gian đánh Pháp, Hồ chí Minh có tuyên bố
với báo chí ngoại quốc rằng, " Nếu mười người Việt Nam chết đi để lấy mạng
một binh sĩ Pháp thì cuối cùng rốt cuộc Pháp cũng sẽ là phía thua trận. "
Chuyện người Việt Nam chết bao nhiêu trong chiến tranh là chuyện không đáng
quan tâm đối với những nhà lãnh đạo Bắc bộ phủ nhưng số tổn thất sinh mạng của
lính Mỹ dần dà trở nên một sự mất máu mà Pháp trước đây và Mỹ ngày nay không thể
chịu đựng nổi. Phong trào phản chiến ngày càng lan rộng khắp nước Mỹ, nhân tâm
càng ly tán. Rồi lại còn trên 500 tù binh Mỹ đang mỏi mòn trong tù ngục tại Bắc
Việt. Cao điểm trong chuyện biểu tình phản chiến là chuyện vệ binh quốc gia bắn
chết 4 sinh viên tại đại học Kent làm cả nước Mỹ xôn xao, xúc động . Lãnh tụ đa
số của thượng viện Mỹ lúc đó là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đến gặp Tổng thống
Nixon và nói " Tổng thống phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Việt Nam. Nước
Mỹ không thể chịu đựng thêm được nữa. " Ghi nhận lời nói của lãnh tụ đa số
thượng viện Mansfied, ông Nixon quyết định chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Ông
kêu gọi Bắc Việt trở lại hòa đàm Paris. Cộng sản làm cao không nhân nhượng. Ông
Nixon quyết định dùng pháo đài bay B52 dội bom suốt 12 ngày đêm vào dịp lễ
Giáng Sinh năm 1972. Hà Nội thấm đòn bom B52, bắn tiếng với Mỹ xin hòa đàm trở
lại. Và thế là hiệp định hòa bình Paris năm 1973 ra đời. Mỹ chỉ muốn rút khỏi
Việt Nam " trong danh dự " và họ đã hoàn thành nguyện ước. Hiệp định
Paris năm 1973 được coi như bản văn Mỹ bán đứng miền Nam cho Cộng Sản. Tổng thống
Thiệu thấy rõ điều ấy, lúc đầu dùng dằng không chịu ký, nhưng rồi dưới áp lực của
Mỹ , Thiệu cũng đành ký với hy vọng mong manh rằng Mỹ sẽ giữ lời hứa tái can
thiệp trở lại nếu cộng sản vi phạm hiệp định. Tất cả những chuyện này có trình
bày rõ trong cuốn sách " Hồ sơ Dinh Độc Lập" ( The Palace File) của
tiến sỹ Nguyễn tiến Hưng, một tổng trưởng của Tổng thống Thiệu. Sau khi hiệp định
ký xong, Mỹ lấy được tù binh về thì cộng sản tiến hành ngay cuộc tổng tiến công
để chiếm lấy miền nam vì chúng biết rằng Mỹ không bao giờ trở lại Việt Nam nữa.
Lúc Trần văn Trà ra Hà Nội họp để chuẩn bị cuộc tổng tấn công, Phạm văn Đồng nhận
xét như thế này " Bây giờ có cho kẹo Mỹ cũng không trở lại Việt Nam nữa."
( 1). Phạm văn Đồng đã nhận xét đúng. Lúc cộng sản đánh chiếm tỉnh lỵ Phước
Long là nhằm thăm dò phản ứng của Mỹ. Mỹ bất động không phản ứng và chuyện này
làm cho Hà Nội thêm vững niềm tin trong chuyện mở ra chiến dịch tiến chiếm miền
Nam.
Biến cố 30 tháng
4 năm 1975 là một cơn đại hồng thủy đối với nhân dân miền Nam. Cả miền Nam vỡ
tung ra như một đàn ong vỡ tổ, gia đình nào cũng tan tác, đau thương. Mấy trăm
ngàn sĩ quan và viên chức hành chánh miền Nam chết dần chết mòn trong những trại
tù tập trung cải tạo tàn ác của cộng sản. Hai mươi lăm năm trôi qua đủ để cho
người miền Nam thấy rõ bản chất thâm độc, lưu manh của bạo quyền Hà Nội. Nhưng
dân tộc Việt Nam không phải là một dân tộc dễ bị khuất phục. Những hoạt động chống
đối âm ỉ vẫn tiếp tục và cho đến giờ phút này thì Phật giáo Hòa Hảo đã coi như
tuyên chiến với Cộng Sản. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đã mổ bụng phản đối bạo quyền.
Máu tranh đấu của người dân Việt đã đổ, hy vọng sự đứng dậy tranh đấu của Phật
giáo Hòa Hảo là cái mồi lửa châm vào thùng thuốc súng đã nén lại trong 25 năm
qua để rồi có thể nổ tung và đốt cháy bạo quyền trên toàn quốc. Chế độ đàn áp của
cộng sản đến giờ phút này dường như không còn hiệu quả trong chuyện trấn áp quyền
sống, quyền tự do của con người. Càng đàn áp thì lại càng rút ngắn thời gian
cai trị của bạo quyền. Khi người dân hết tin chính quyền thì chính quyền dứt
khoát phải đổ, vấn đề bây giờ là chuyện thời gian mau hay chậm thế thôi. Bùa
phép, mưu ma chước quỷ của cộng sản đến giờ này không còn hiệu nghiệm vì nói
chung tâm thức của bộ đội và cán bộ ngày càng rã rời tê liệt đến mức không còn
huy động vào chuyện đàn áp được nữa. Ai cũng thấy rõ kẻ thù của dân tộc là những
tên đầu nậu nằm tại Bắc bộ phủ chứ không phải là thành phần dân tộc đang tranh
đấu.
Cụ Phan bội Châu,
một nhà đại văn hào cách mạng cả cuộc đời lo chuyện cứu nước, lúc về tuổi xế
chiều, đã căn dặn lại cho quốc dân, " Vọng ngoại tắc tử " , đừng bao
giờ mong mỏi người ngoại quốc đến cứu nước mình. Miền nam vì hoàn cảnh nghiệt
ngã, đã phải dựa vào sự viện trợ của Mỹ để tồn tại, rốt cuộc c ũng bị Mỹ bỏ rơi
một cách không thương tiếc và cuối cùng bị bức tử một cách đau đớn vì nhu cầu
quyền lợi của Mỹ. Trong công cuộc đánh đổ cộng sản để cứu nước hôm nay, chuyện
tranh thủ những lực lượng quốc tế là chuyện cần làm, nhưng không vì thế mà trở
thành tay sai của những thế lực ngoại bang, vì làm như thế chúng ta sẽ trở
thành một Lê chiêu Thống thứ hai, đi làm chuyện " cõng rắn cắn gà
nhà", làm hại quê hương và đồng bào. Công tác ngoại vận không thể biến
thành sự nô lệ các thế lực ngoại bang mà lịch sử dân tộc Việt Nam trong mấy chục
năm vừa qua đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Và khi thấy rõ sự nguy hại của nó
thì phải tránh bằng mọi giá. Trong thời điểm bây giờ, phải tận lực để theo đuổi
chuyện đánh đổ cộng sản ở quê hương, đừng có ngồi mà trông ngóng Mỹ nói riêng
và các nước Tây phương nói chung bật " đèn xanh , đèn đỏ". Ngồi đó mà
trong ngóng ngoại bang bật " đèn xanh, đèn đỏ" chỉ càng tỏ lộ thêm
" tâm thức nô lệ" mà thôi. Còn mang tâm thức nô lệ hèn kém này trong
người thì ngày quang phục quê hương sẽ còn xa xôi diệu vợi.
Miền nam mất là một
vết thương đau đớn của chúng ta ( Miền nam ơi từ buổi tiêu tan. Ta sống trọn vẹn
ngàn cơn thác loạn (2) ). Vết thương đau theo thời gian rồi cũng sẽ lành. Sự
đau thương than khóc giờ đây đã nhường lại cho sự khôn ngoan tỉnh táo để tìm ra
những phương cách nhằm quật ngã bạo quyền đang trên bờ vực thẳm. Mỗi người dân
Việt, trong cũng như ngoài nước, đều phải đổ sức, đổ công, đổ máu vào cuộc chiến
đấu quyết liệt cuối cùng này để quê hương Việt Nam còn có một ngày mai. Cuộc đời
rồi ai cũng phải chết, nếu được chết đễ gỡ xích xiềng cho đồng bào ruột thịt,
cho tổ quốc có một tương lai tươi sáng thì chuyện chết không phải là một chuyện
phải ngại ngần. Bóng tối u ám, chết chóc của chủ nghĩa cộng sản đã bao trùm lên
quê hương Việt Nam thương đau đã trên nửa thế kỷ, ngày đồng bào vùng lên một mất
một còn với bạo quyền cộng sản là ngày vầng dương lại ló dạng trên đất nước
thương yêu.
Những tia nắng le
lói đầu ngày đó sẽ là những niềm hy vọng trào dâng trong lòng mỗi người Việt
Nam sau bao tháng năm đau thương, tàn lụi....
Lawndale, một
sáng đầu xuân lành lạnh trung tuần tháng 4 năm 2002
TRẦN VIẾT ĐẠI
HƯNG
(1) Hồi ký "
Kết thúc cuộc chiến 30 năm"của Trần văn Trà
(2) Trich từ bài
thơ " Vì ấu trĩ " của Nguyễn chí Thiện
Comments
Post a Comment