Đây là câu trả lời : Tại sao VNCH thua
bọn CS Bắc Việt xâm lược .
Trận Hoàng Sa
trong chiến tranh lạnh toàn cầu
Ảnh minh hoạ
(internet)
1.- CHIẾN TRANH LẠNH
Chiến tranh lạnh
bắt đầu từ năm 1946, sau thế chiến thứ hai (1939-1945), là tình trạng tranh chấp
căng thẳng, gay cấn và quyết liệt giữa hai khối tư bản và cộng sản (CS). Nói trắng
ra, đây là cuộc tranh chấp giữa hai tập đoàn quyền lợi tư bản và CS. Hai tập
đoàn quyền lợi nầy đối chọi nhau về tất cả các mặt, nhưng hai bên không trực tiếp
đánh nhau vì các cường quốc đứng đầu hai khối cùng thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ
chiến tranh nguyên tử xảy ra, thì cả hai bên đều thiệt hại nặng nề.
Chiến tranh lạnh,
có một số đặc điểm như sau: 1) Mỗi khối không phải là một tổ chức thống nhứt,
không có chỉ huy chặt chẽ. 2) Các quốc gia trong mỗi khối vẫn duy trì quyền lợi
riêng tư, nên trong nội bộ mỗi khối, các quốc gia vẫn xảy ra tranh chấp quyền lợi
với nhau, nhiều khi không kém phần quyết liệt. Ví dụ giữa Hoa Kỳ và Pháp trong
khối tư bản, giữa Liên Xô và Trung Cộng trong khối CS. 3) Quyền lợi quốc gia của
các nước luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh và theo thời gian nên chính sách đối
ngoại cũng thay đổi theo thời gian. (Ví dụ Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng.)
4) Các nước nhỏ yếu bị các nước cường quốc lợi dụng. Các cường quốc dùng các nước
nhỏ để trao đổi quyền lợi giữa các cường quốc. 5) Trong chiến tranh lạnh, có một
số tranh chấp địa phương, bùng nổ thành những điểm nóng, mà các cường quốc
trong hai khối đứng về hai phía đối đầu nhau.
Từ khi xảy ra chiến
tranh lạnh trên thế giới năm 1946, tại Á Châu, hai điểm nóng quan trọng là chiến
tranh Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1960-1975). Trong cả hai
cuộc chiến Triều Tiên và Việt Nam, Hoa Kỳ đều ủng hộ hai miền Nam tự do, chống
lại hai miền Bắc CS, nhưng Hoa Kỳ áp dụng hai chiến lược khác nhau tại hai cuộc
chiến nầy.
2.- CHIẾN LƯỢC
HOA KỲ TẠI NAM VIỆT NAM: PHÒNG THỦ
Tại Triều Tiên,
Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức Hoa Kỳ lấy công
làm thủ.
Tại Việt Nam, Hoa
Kỳ không tấn công Bắc Việt Nam mà chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, tức Hoa Kỳ lấy
thủ làm thủ.
Cả hai nước Triều
Tiên và Việt Nam đều có biên giới giáp ranh với Trung Cộng ở phía bắc. Khi quân
Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên năm 1950, quân đội Hoa Kỳ cùng quân đội
Liên Hiệp Quốc giúp Nam Triều Tiên, đánh đuổi quân Bắc Triều Tiên đến sông Áp Lục
(Yalu River), là biên giới với Trung Cộng. Quân Trung Cộng tràn qua giúp Bắc
Triều Tiên. Sau ba năm đánh nhau qua lại, hai bên đình chiến năm 1953 ở vĩ tuyến
38, chia hai nước Triều Tiên.
Vì vậy, khi tham
chiến ở Việt Nam năm 1965, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh
Triều Tiên. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New
York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.) Hoa Kỳ lo ngại nếu đánh ra Bắc
Việt Nam, thì Trung Cộng sẽ can thiệp như ở Triều Tiên, nên tại Nam Việt Nam,
Hoa Kỳ chủ trương chỉ phòng thủ ở Nam Việt Nam, phía nam đường phi quân sự ở vĩ
tuyến 17, không tấn công ra Bắc Việt Nam, tránh đụng chạm đến Trung Cộng.
3.- CHÍNH SÁCH
KHÔNG CHIẾN THẮNG
Chiến lược phòng
thủ của Hoa Kỳ có thể tóm gọn qua câu nói của đô đốc Grant Sharp, tư lệnh Lực
lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương 1964-1968: “Chính phủ chúng ta lập lại để làm
rõ rằng những mục tiêu của chúng ta trong cuộc tranh chấp ở Việt Nam là giới hạn.
Chúng ta không buộc phải tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc
Việt Nam phải chấp nhận một hình thức chế độ khác và cũng không tàn phá Bắc Việt
Nam. Chúng ta đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngưng điều khiển và ngưng yểm trợ phiến
quân Việt cộng ở miền Nam và đưa lực lượng của họ về nhà. Chiến lược điều khiển
chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn nầy.” (Nguyên văn:
“Our Government has repeatedly made it clear that our objectives in the Vietnam
conflict are limited. We are not ought to destroy the Hanoi regime, or to
compel the people of North Vietnam to adopt another form of government, nor are
we out to devastate North Vietnam. We simply want North Vietnam to cease its
direction and support of the Vietcong insurgency in the South and take its
forces home. Our strategy for the conduct of the war reflects these limited
objectives.”) (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., “Why the
Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990”,
http://www.gratisbooks.com/, chữ khóa: “Getting bogged down in Vietnam”.)
Do chủ trương chiến
tranh giới hạn (limited war), bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đưa ra những “quy tắc tham
chiến” (rules of engament) tức quy tắc quân đội ứng xử khi tham chiến ở NVN như
một thứ cẩm nang, nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến ở biên giới Hoa Việt
hay vùng phi quân sự vĩ tuyến 17.
Quy tắc tham chiến
hạn chế các mục tiêu tấn công, và hạn chế các hoạt động của Không quân, giảm hỏa
lực làm giảm sức mạnh quân đội Hoa Kỳ. Ai vi phạm, sẽ bị trừng phạt nặng. (ví dụ
trường hợp đại tướng John Lavelle năm 1972.)
“Những quy tắc nầy
bảo đảm rằng chúng ta không thể thắng và cộng sản cũng không thể thất bại.”
(Nguyên văn: “These rules insured that we could not win and that the communists
could not lose.”) (Steve Farrell,Why We Lost in Vietnam – The Untold Story,
University of Toronto, School of Continuimg Studies, The Moral Liberal. )
Thượng nghị sĩ đảng
Cộng Hòa Barry Goldwater tuyên bố tại Taipei (Đài Bắc) khi đến Đài Loan viếng
tang tổng thống Tưởng Giới Thạch, gọi đây là “chính sách không chiến thắng”
(“no win policy”). (The Bryan Times, Thursday, April 17-4-1975.)
4.- CHIẾN LƯỢC
PHÒNG THỦ KHÔNG HỮU HIỆU VỚI KHỦNG BỐ VÀ DU KÍCH
Trong chiến tranh
Nam Việt Nam, cộng sản Việt Nam sử dụng chiến thuật khủng bố và du kích. Quân
du kích CS khủng bố, đánh phá khắp nơi trên toàn quốc, gây thiệt hại mỗi ngày một
ít, mỗi nơi một ít, nhưng “tích tiểu thành đa”, lâu ngày làm hao mòn quân đội
Nam Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ.
Thật rất khó chống
lại du kích chiến, nhất là trong địa hình rừng núi như Việt Nam. (Ngày nay, người
Mỹ tận dụng hết khả năng quân sự vẫn không chống lại được du kích Al-Qaeda,
Taliban, Afghanistan.)
Muốn chận đứng du
kích CS ở Nam Việt Nam, chỉ có cách duy nhứt là chận đứng ngay từ gốc, tức là hậu
phương lớn của du kích CS, là Bắc Việt Nam, tức phải tấn công Bắc Việt Nam, mới
chận đứng được du kích CS trên toàn cõi Nam Việt Nam. Như Hoa Kỳ đã từng đánh
ra Bắc Triều Tiên trước đây mới chận đứng hẳn du kích CS ở Nam Triều Tiên.
Vì không đánh ra
Bắc Việt Nam để chận đứng du kích từ tận gốc, mà chỉ mở những cuộc hành quân
bình định ở Nam Việt Nam và ngồi chờ du kích đến quấy phá mới phản công, nên dù
trang bị tối tân, quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ không thể tiêu diệt hết khủng
bố và du kích của CS ở Nam Việt Nam.
Hoa Kỳ còn lo ngại
quân đội Nam Việt Nam bất ngờ tấn công ra Bắc Việt Nam để giải tỏa áp lực của
CS ở Nam Việt Nam, nên Hoa Kỳ ngăn chận tất cả những đề nghị từ phía Việt Nam Cộng
Hòa tấn công ra Bắc Việt Nam. Ví dụ trong cuộc mít-tin tại Sài Gòn ngày
19-7-1964, kỷ niệm Ngày Quốc hận [ngày ký kết Hiệp địnhGenève 20-7-1954], trung
tướng Nguyễn Khánh hô hào Bắc tiến. Đại sứ Maxwell Taylor và các viên chức Mỹ
có mặt tại cuộc mít-tin tránh né không bình luận. (John S. Bowman, The Vietnam
War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 42.) Ngày 1-12-1965, trung
tướng Nguyễn Chánh Thi gởi thư lên chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia là trung
tướng Nguyễn Văn Thiệu đề nghị Bắc tiến; đồng thời tướng Thi còn gởi thư cho đại
sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn công khai đề nghị Bắc tiến. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam,
một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319=344.) Năm 1972, trong
mùa hè đỏ lửa. quân Bắc Việt Nam tràn qua vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17. Quân
đoàn I đề nghị đưa quân vượt qua vĩ tuyến 17 đánh ngược ra Bắc. Được tin nầy,
phía cố vấn Hoa Kỳ liền giới hạn cấp số xăng, cấp số đạn và ngưng tiếp tế lương
khô cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh Việt Nam Cộng Hòa nhằm chận đứng cuộc Bắc tiến. (Hà
Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas, 2005, tr. 103.)
Với chiến lược
phòng thủ tại NVN, quân đội Hoa Kỳ không thất bại, nhưng quân đội Hoa Kỳ cũng
không chiến thắng, dậm chân tại chỗ. Trước tình hình nầy, vì quyền lợi của Hoa
Kỳ, Hoa Kỳ quyết định thay đổi sách lược.
5.- HOA KỲ THAY ĐỔI
VÌ LÝ DO QUỐC NỘI
Chiến tranh kéo
dài, dân chúng Hoa Kỳ mệt mỏi, chán nản, nổi lên phản đối. Phong trào phản chiến
ở Hoa Kỳ lên mạnh chỉ sau vài năm Hoa Kỳ tham chiến. Trong niên khóa 1969-1970,
xảy ra 1,800 cuộc biểu tình, 7,500 người bị bắt giữ, 247 vụ đốt phá, 462 người
bị thương mà 2/3 là cảnh sát và 8 người chết. Từ tháng 1-1969 đến tháng 2-1970
có 40,000 vụ ném bom, hay âm mưu ném bom, hay đe dọa ném bom liên hệ đến chiến
tranh, gây thiệt hại 21 triệu Mỹ kim, hàng trăm người bị thương và 43 người chết.
(Richard Nixon, No more Vietnams, London: W. H. Allen, 1986, tr. 126.)
Phong trào phản
chiến Hoa Kỳ lên cao vì trong thời điểm nầy, ngoài quân đội chuyên nghiệp, Hoa
Kỳ còn có binh sĩ động viên. Thân nhân binh sĩ động viên phản đối mạnh mẽ chiến
tranh vì sợ con em phải bỏ mạng trên chiến trường Việt Nam. (Luật động viên ở
Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973. Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ chỉ gồm toàn quân
nhân chuyên nghiệp.)
Tin tức phản chiến,
chống chiến tranh Việt Nam, được các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ đưa lên
truyền hình, chiếu liên tục suốt ngày làm nản lòng dân chúng Hoa Kỳ. Có thể nói
phong trào phản chiến Hoa Kỳ là đồng minh hữu hiệu và là nội tuyến đắc lực của
Công sản Việt Nam. Các chính trị gía và các đảng phái muốn đắc cử, phải điều
chính sách lược để thu phục lòng dân Hoa Kỳ, mới được phiếu bầu.
6.- HOA KỲ THAY ĐỔI
VÌ LÝ DO QUỐC TẾ
Vào cuối thập
niên 60 và đầu thập niên 70, các chính trị gia Hoa Kỳ dựa trên quan niệm địa lý
chính trị học (geopolitics), như sau: “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong
vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa
tiễn nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm
của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì
ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting
at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr.
333-334.)
Từ đó, giới chính
trị Hoa Kỳ đưa ra nhận định mới. “Hy sinh Nam Việt Nam mới thật là đáng giá.
Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ
Nam Việt Nam mà ít hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi
lấy sự mở cửa Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.” (Roger
Warner, sđd. tr. 336.) Lúc đó, cuộc tranh chấp Liên Xô – Trung Cộng càng ngày
càng gay gắt. Hoa Kỳ muốn khai thác mối chia rẽ nầy, lôi kéo Trung Cộng về phía
Hoa Kỳ.
Bill Sullivan, thứ
trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương, trả lời một cuộc
phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy nghe ra có vẽ tráo
trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Đặc biệt nữa là
người Trung Quốc đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Quốc tách rời
khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn
nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.” (Roger Warner, sđd. tr. 336.)
Vì vậy, lúc đó
người Hoa Kỳ nghĩ rằng: “Thua trận ở Việt Nam lành mạnh cho Hoa Kỳ hơn là thắng
trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Đó là
quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng
minh Đông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của
chúng ta.” (Roger Warner, sđd. tr. 333.)
Như trên đã viết,
dù là tư bản hay cộng sản, quyền lợi của mỗi nước luôn luôn thay đổi theo hoàn
cảnh. Trước đây, vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam để ngăn chận
sự bành trướng của cộng sản nhất là Trung Cộng. Nay cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ,
Hoa Kỳ tìm cách rút lui khỏi Việt Nam. Năm 1969, tổng thống Richard Nixon đưa
ra kế hoạch “Việt Nam hóa” chiến tranh (Vietnamization), là một mỹ từ để chỉ việc
chuyển gánh nặng quân sự cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa, rồi Hoa Kỳ rút quân đội
Hoa Kỳ về nước.
Đồng thời, Hoa Kỳ
nhận thấy hố chia rẽ giữa Trung Cộng và Liên Xô càng ngày càng sâu rộng. Hoa Kỳ
tìm cách thân thiện với Trung Cộng, vừa nhờ Trung Cộng áp lực với Bắc Việt Nam
để Hoa Kỳ rút quân, đem tù binh Hoa Kỳ về nước, vừa lôi kéo Trung Cộng về phía
Hoa Kỳ, tách xa Liên Xô.
7.- TRUNG CỘNG:
THAM VỌNG XUỐNG ĐÔNG NAM Á
Các lãnh tụ Trung
Cộng không khác gì các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng xâm
lăng Việt Nam để tràn xuống Đông Nam Á. Lịch sử cho thấy quân đội Trung Hoa thời
quân chủ không thể chiến thắng được quân đội Đại Việt. Vì vậy, lần nầy, Trung Cộng
thay đổi sách lược, nhìn ra Biển Đông nhắm đến Hoàng Sa, là quần đảo của Việt
Nam trong Biển Đông, nằm trên thủy lộ chiến lược từ eo biển Malacca ra Thái
Bình Dương.
Nguyên từ 24-2 đến
29-4-1958 tại Genève, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về luật biển. Do những
tranh cãi tại Genève về chiều rộng của hải phận quốc gia và hải phận quốc tế,
Mao Trạch Đông tuyên bố ngày 28-6-1958: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn.
Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon
Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005,
tr. 426.) Phát biểu nầy là khởi đầu cho chủ trương mới của Trung Cộng về Biển
Đông và Thái Bình Dương.
Năm tháng sau,
ngày 4-9-1958, Quốc hội Trung Cộng đưa ra bản tuyên cáo về hải phận, gồm 4 điều.
Trong 4 điều nầy, Trung Cộng đưa ra hai điểm quan trọng: 1) Xác định hải phận
Trung Cộng rộng 12 hải lý. 2) Xác định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vốn
thuộc lãnh thổ Việt Nam, là của Trung Cộng (điều 1 và điều 4).
Đáp lại tuyên cáo
ngang ngược nầy, Phạm Văn Đồng thủ tướng Bắc Việt Nam, thừa lệnh Hồ Chí Minh và
bộ Chính trị đảng Lao Động tức đảng Cộng Sản Việt Nam, gởi cho Trung Cộng công
hàm ngày 14-9-1958, tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Cộng,
tức Bắc Việt Nam tán thành chuyện hải phận 12 hải lý của Trung Cộng, đồng thời
tán thành luôn rằng các quần đảo Hoàng Sa,và Trường Sa, thuộc lãnh thổ Trung Cộng.
Đây là tội phản quốc lớn lao nhất trong lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim.
Năm 1963, trong
cuộc họp với đại diện đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng Cộng Sản Việt Nam), Mao
Trạch Đông nói: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông
Nam Á.” Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng Sản
Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á,
bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (Sự thật
về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979,
Chương “Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc”.) Trong khi đó,
Hoa Kỳ xích lại với Trung Cộng từ năm 1971.
8.- HOA KỲ –
TRUNG CỘNG XÍCH LẠI GẦN NHAU
Tháng 3-1969, chiến
tranh giữa Liên Xô và Trung Cộng bùng nổ ở trên sông Ussuri. Trung Cộng muốn
tìm một đồng minh mới để làm đối trọng với Liên Xô. Trong khi đó, Hoa Kỳ đang
tìm cách rút lui dần dần khỏi Việt Nam, cũng muốn thân thiện với Trung Cộng để
nhờ Trung Cộng áp lực với Cộng sản Việt Nam và tách Trung Cộng ra khỏi Liên Xô.
Hai kẻ cựu thù Hoa Kỳ và Trung Cộng nay đều có nhu cầu xích lại gần nhau.
Sau một thời gian
thăm dò, liên lạc, thương thuyết mật giữa các phái đoàn Hoa Kỳ và Trung Cộng,
ngày 9-7-1971, Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh. Năm sau, tổng thống Hoa Kỳ
Richard Nixon đi thăm Trung Cộng ngày 21-2-1972. Nixon thông báo cho các lãnh tụ
Trung Cộng biết là Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, không đòi hỏi
Bắc Việt Nam rút quân khỏi Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ không báo cho Việt Nam Cộng
Hòa biết.
Khi Richard Nixon
về nước, Chu Ân Lai qua Hà Nội tường thuật cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Bắc
Việt Nam liền mở cuộc tấn công Nam Việt Nam mạnh mẽ từ tháng 4-1972. (Mùa hè đỏ
lửa). Lúc đó, “Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ
Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để trao đổi một “bức điện miệng” nhắn Trung Quốc:
“Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm kể từ quần đảo Hoàng
Sa”.” (Henry A. Kissinger, Ending the Vietnam War, New York: Nxb. Simon &
Schuster, 2003, tr. 246. Huy Đức trích lại, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, New
York: Osin Book, 2012 , tr. 109.) Đổi lại, Trung Cộng giúp Hoa Kỳ bằng cách áp
lực Bắc Việt Nam trở lại thảo luận nghiêm chỉnh tại Hội nghị Paris, nhằm giải
quyết chiến tranh Việt Nam.
Như thế, ngay từ
năm 1972, Hoa Kỳ ngầm hứa hẹn đồng ý để cho Trung Cộng tự do hành động ở Hoàng
Sa. Trung Cộng chờ đợi cơ hội ra tay. Cuối cùng, Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa
ngày 19-1-1974.
Cần chú ý về thời
điểm nầy: 1) Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn ra khỏi
Nam Việt Nam, và không trở lui nữa. 2) Liên Xô tăng cường viện trợ gấp 4 lần
cho Bắc Việt Nam để tấn công Nam Việt Nam. 3) Nam Việt Nam bận rộn chống đỡ cuộc
tấn công của Bắc Việt Nam. 4) Trung Cộng dự đoán Bắc Việt Nam sẽ thắng thế, nên
quyết định chiếm Hoàng Sa trước khi Nam Việt Nam sụp đổ. 5) Đầu năm 1974, Mao
Trạch Đông, Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tìểu Bình quyết định kế hoạch tấn
công Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Mao Trạch Đông phê chuẩn báo cáo của Diệp Kiếm
Anh xin đánh Hoàng Sa. (Tân Hoa Xã ngày 6-8-2013 và BBC ngày 20-12-2013.)
9.- PHẢN ỨNG CỦA
HOA KỲ SAU TRẬN HOÀNG SA
Lúc đó Cơ quan
Trung Ương Tình báo (CIA) Hoa Kỳ theo sát tình hình Biển Đông và Hoàng Sa. Hằng
ngày, CIA ra bản tin Central Intelligence Bulletin (CIB) và trình nạp thẳng đến
Văn phòng tổng thống Hoa Kỳ. Bản tin ngày 19-6-1971 viết: “Những đoàn công voa
hải quân từ Yu-lin (Du Lâm) trên đảo Hải Nam hiện tới Hoàng Sa thường xuyên, nhất
là Woody Island (đảo Phú Lâm), một trong những đảo lớn nhất trong nhóm. Bảo vệ
đoàn tàu chủ yếu là tàu khu trục, là tàu chiến lớn nhất trong hạm đội Nam Hải của
Trung Quốc.” (BBC, ngày 30-12-2013.) Như thế Chính phủ Hoa Kỳ nắm bắt rất rõ những
hoạt động của Hải quân Trung Cộng ở Biển Đông. Năm 1972, khi xảy ra chiến cuộc
“Mùa hè đỏ lửa”, Hoa Kỳ đã giao cho Trung Cộng một “thông điệp miệng” về vấn đề
Hoàng Sa (đã trình bày ở trên).
Trong trận Hoàng
Sa, quân đội Hoa Kỳ hoàn toàn làm ngơ và tránh xa Hoàng Sa, đến nỗi phó đề đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại “gọi điện thoại về Bộ tư lệnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn
Mỹ yêu cầu Đệ thất Hạm đội Mỹ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ có
được chỉ thị nên không một chiến hạm nào đến gần nơi cuộc xảy ra hải chiến.” (Hồ
Văn Kỳ Thoại, Can trường trong chiến bại, tr. 171.)
Sau trận Hoàng
Sa, gặp Han Hsu (Han Xu), quyền trưởng phái đoàn liên lạc TC tại Washington DC
ngày 23-1-1974, ngoại trưởng HK Kissinger nói: “Hoa Kỳ không có lập trường
trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam Việt Nam tại các đảo nầy.” (BBC
Vietnamese, cập nhật 12:24 GMT – thứ Hai, 3 tháng 10, 2011.)
Gần một tuần sau
trận Hoàng Sa (19-1-1974), trong cuộc họp tại Bộ Ngoại giao HK ngày 25-1-1974,
do ngoại trưởng Henry Kissinger chủ tọa, đô đốc Thomas H. Moorer, tham mưu trưởng
Liên quân HK, báo cáo với Kissinger: “Chúng ta đã tránh xa vấn đề… Chỉ thị của
tôi là tránh xa khỏi toàn bộ khu vực [Hoàng Sa].” (BBC Vietnamese, cập nhật
12:24 GMT – thứ hai, 3 tháng 10, 2011.)
KẾT LUẬN
Chiến tranh lạnh
toàn cầu đưa đến trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974. Ngược lại trận Hoàng Sa đánh dấu
sự thay đổi mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh lạnh toàn cầu.
Trận Hoàng Sa một
lần nữa cho thấy khi Việt Nam có nội chiến, đất nước chia rẽ, nội lực dân tộc
sút giảm, kẻ thù bên ngoài thừa cơ hội xâm lăng nước ta.
Trận Hoàng Sa
tiêu biểu cho lập trường bảo vệ đôc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh
thổ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trong khi
đó, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam theo chủ nghĩa cộng sản, làm tay
sai cho Liên Xô và Trung Cộng, phạm tội phản quốc, nhượng đất đai của tổ tiên
cho ngoại bang, để mưu cầu viện trợ nhằm tấn công Việt Nam Cộng Hòa, thực hiện
tham vọng thống trị toàn cõi Việt Nam.
Hoa Kỳ đến giúp
Việt Nam Cộng Hòa vì quyền lợi của Hoa Kỳ, và cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, Hoa
Kỳ sẵn sàng rút quân về nước, bỏ rơi đồng minh. Từ năm 1972, Hoa Kỳ đã ngầm thỏa
thuận về Hoàng Sa với Trung Cộng. Cũng vì quyền lợi của Trung Cộng, Trung Cộng
sẵn sàng tách ra khỏi Liên Xô và xích lại gần với Hoa Kỳ, làm thay đổi cục diện
chiến tranh lạnh toàn cầu.
Đây là một kinh
nghiệm quý báu về vấn đề đồng minh trong tương quan quyền lợi giữa các nước. Chỉ
có đồng minh khi có quyền lợi. Hết quyền lợi, hết đồng minh.
Chiếm được Hoàng
Sa, chẳng những Trung Cộng kiểm soát sự lưu thông trên Vịnh Bắc Việt, mà còn kiểm
soát thủy lộ từ Malacca qua Biển Đông, nhập vào Thái Bình Dương. Trong tương
lai Hoàng Sa càng trở nên quan trọng khi Trung Cộng bắt đầu thành lập khu vực
“nhận diện phòng thủ không phận” (Air Defense Identification Zone = ADIZ) trên
quần đảo nầy.
Khi Hoa Kỳ thay đổi
sách lược toàn cầu, rút quân và cắt giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa, Nixon
và Kissinger dự liệu là Việt Nam Cộng Hòa có thể bị sụp đổ trong vòng 18 tháng
sau hiệp định Paris. (Kenneth Hughes, The Paris “Peace” Accords Were a Deadly
Deception (Jan 31, 2013).
Tuy nhiên, quân đội
Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng, chống trả cộng sản mãnh liệt,
khiến Kissinger đã than một câu để đời: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi?
Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.” (Ron Nessen, It Sure
Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 129. Nguyễn
Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los
Angeles: C K Promotions, INC, 1987, tr. 512.)
Nghe câu nầy thì
thật buồn cho thế thái nhân tình, nhưng đồng thời phải khâm phục sức chiến đấu
của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Quân đội chúng ta không thua trận, nhưng phải
ngưng chiến đấu vì sự thay đổi của hoàn cảnh chính trị thế giới.
Hoàn cảnh chính
trị thế giới và bạo lực CS đã đẩy chúng ta ra khỏi Việt Nam, nhưng không một thế
lực nào có thể đẩy Việt Nam ra khỏi trái tim chúng ta. Người Việt luôn luôn
nuôi mộng trở về quang phục quê hương, giải thể chế độ cộng sản bạo tàn, đòi lại
Hoàng Sa cho tổ quốc thiêng liêng.
Ngày nay tình
hình Đông Á đang thay đổi một lần nữa, là cơ hội cho chúng ta vận động giải thể
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Người Việt Hải ngoại chúng ta cần phải hết sức
ủng hộ một cách thực tế những nhà tranh đấu dân chủ trong nước, những phong
trào đòi hỏi dân chủ trong nước. Trào lưu dân chủ sẽ xóa bỏ độc tài.
Chỉ khi nào chế độ
cộng sản Việt Nam bị giải thể thì người Việt mới bắt đầu tính sổ đòi đất, đòi
biển với Trung Cộng; bởi vì giải thể chế độ cộng sản Việt Nam mới chấm dứt những
cam kết ngầm giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Trung Quốc, từ thời Hồ
Chí Minh năm 1950 cho đến Hội nghị Thành Đô năm 1990. Chấm dứt những cam kết ngầm
mới có thể nói chuyện đòi đất đòi biển trở về với tổ quốc chúng ta.
© Trần Gia Phụng
(California,
05-01-2014)
Comments
Post a Comment