Tham nhũng trong chính quyền VNCH
(Đây
là lời nhận xét của tác giả Trọng Đạt một người đã sống dưới chính thể VNCH.. )
Thật
vậy những năm đầu của chế độ Nguyễn Văn Thiệu, 1967, 1968, guồng máy tương đối
còn có kỷ cương nhưng dần dần đi tới chỗ tham nhũng thối nát tồi tệ, nó đã phá
hoại kinh tế vật chất và làm suy sụp tinh thần quân dân. Tham nhũng hối lộ có từ
thời Tây nhưng dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu có thể nói đã tiến tới chỗ tột cùng
của thối nát. Các chế độ, chính phủ Quốc Gia từ thời Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm, Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Cao Kỳ… cũng ít nhiều có tham nhũng nhưng người dân
còn chấp nhận được, đến Nguyễn Văn Thiệu thì thật hết nước nói. Sau khi miền
Trung thất thủ lọt vào tay Cộng quân, chúng tôi có nghe một ông công chức than
thở “chế độ Thiệu đi theo vết xe đổ của Tưởng Giới thạch, các ông tỉnh trưởng
chết gục trên đống vàng”!
Trong
cuốn sách Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 trang 56, Phạm Huấn có nói:
“Theo
dư luận, cái giá để mua chức Tỉnh trưởng qua đường giây bà Thiệu, bà Khiêm, thường
thường từ 10 đến 20 triệu”
Tệ
nạn mua quan bán tước ngày càng lộ liễu, những chức vụ, công việc hái ra tiền đều
được mua bán trả giá cả sòng phẳng, ngoài ra quan chức phải nộp tiền hụi chết
cho cấp trên theo hệ thống quân giai, Quận nộp cho Tỉnh, Tỉnh nộp cho Vùng,
Vùng nộp cho Trung Ương. Nguyễn Ðức Phương nói các hình thức tham nhũng tại miền
Nam đã được nhóm nghiên cứu thuộc tổ hợp Rand xếp thành bốn loại chính buôn lậu,
hối lộ, mua quan bán tước và lính kiểng, lính ma.. Trong phim Vietnam History
by television, ông giám đốc CIA khi trả lời phỏng vấn cho biết tham nhũng
(corruption) đã phát triển quá độ tại miền Nam VN , chỗ nào cũng có, chính phủ
Mỹ biết rõ như vậy và họ đã phải che dấu không cho báo chí biết sợ người ta làm
um lên, nếu đến tai Quốc hội viện trợ sẽ bị cắt giảm.
Tại
các tỉnh, viện trợ kinh tế, xã hội, bình định phát triển.. bị đục khoét trầm trọng,
tiền viện trợ của Mỹ không được dùng vào mục tiêu kinh tế quân sự mà vào túi bọn
quan lại tham ô. Tham nhũng bắt nguồn từ lòng tham vô đáy của con người hơn là
vì thiếu thốn. Các quan chức có được căn nhà, cái xe hơi thì cũng được rồi, so
với đời sống nhân dân như thế cũng là được quáưu đãi. Nhưng kẻ tham ô không dừng
chân ở đó, được voi tròi tiên, họ tậu rừng tậu ruộng, tậu đồn điền, mua dăm bẩy
căn nhà nghỉ mát, cái ở Nha Trang, cái Ðà Lạt, Vũng Tầu, chuyển ngân ra ngoại
quốc… Tham nhũng như đã nói ở trên vừa phá hoại kinh tế quốc gia, vừa làm suy yếu
tinh thần người dân cũng như người lính chiến. Sau đây là tham nhũng dười con mắt
người ngoại quốc.
Hậu
quả của tình trạng tham nhũng này đã được một sĩ quan nhận xét:
‘
Tham nhũng luôn luôn tạo ra sự bất công trong xã hội. Tại Việt Nam, một nước
đang trong thời chiến thì sự bất công trong xã hội lại càng rõ ràng hơn so với
các nước khác.Tham nhũng đã tạo ra một thiểu số nắm giữ tất cả các quyền lực và
tài nguyên, phần lớn giai cấp trung lưu và nông dân trở thành nghèo hơn và phải
chịu hy sinh.Họ mới chính là người đóng thuế cho chính phủ, hối lộ cho cảnh
sát, phải mua phân bón với giá cắt cổ để rồi phải bán gạo với giá rẻ do chính
phủ ấn định, và cũng chính họ đã cho con cái đi chiến đấu và hy sinh cho đất nước
trong khi các công chức cao cấp của chính phủ và những kẻ giầu có lại gửi con
cái ra nước ngoài.Một bác sĩ quân y đã nói với tôi rằng ông đau lòng khi nhìn
thấy những thương binh, các binh sĩ cụt chân tay nằm đầy tại quân y viện đều
thuộc giai cấp bình dân, thuộc các gia đình nông dân, các thương binh này phải
chịu đựng và hy sinh cho thiểu số tham nhũng thống trị. Chính phủ tuyên bố tìm
cách chiếm lòng dân nhưng thực tế chỉ làm lớn hơn khoảng cách giữa giai cấp
lãnh đạo và quần chúng.”
Nguyễn
Ðức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn tập, trang 804, 805.
Hồi
ấy trên báo chí đã có người lên án bất công xã hội tại miền Nam ngày càng trở
lên ghê tởm, trong khi binh sĩ chết như rạ ngoài mặt trận thì tại các thành phố
lớn, bọn nhà giầu mua xe hơi bóng lộn, xây nhà cao năm bẩy tầng lầu, ai nấy mặt
vênh mày vác, khinh người rẻ của. Bọn con buôn hái ra tiền nhờ chiến tranh rồi
dùng tiền cho con cái đi du học ngoại quốc trong khi những kẻ sông pha mũi tên
hòn đạn ngoài chiến trường phải chịu cảnh nghèo nàn thiếu thốn. Thực trạng xã hội
đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần người chiến sĩ, họ phải hy sinh, chiến đấu
cho một chế độ bất công thối nát.
Phạm
Huấn có ý chê các Tướng lãnh Việt Nam không có sự ngay thẳng, tư cách như các
Tướng lãnh ngoại quốc. Năm 1950 De Lattre, Tướng 5 sao, Tư lệnh Ðông Dương nhưng
vẫn để cho người con một, Bernard De Lattre đóng tại đền Non nước Ninh Bình. Mặc
dù vua Bảo Ðại đề nghị đưa Bernard về làm trong văn phòng Quốc trưởng nhưng ông
Tướng vẫn để con chiến đấu tại chiến trường và tử trận tháng 5-1951. Khi Mỹ bắt
đầu ném bom Bắc Việt, Ðô đốc Sharps, tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình
Dương đã để con trai ông, Thiếu tá phi công Mac Cain tham gia oanh tạc và đã bị
bắn rơi.
“Trong
khi đó, suốt cuộc chiến 21 năm sau cùng tại Việt Nam, chắc chắn không thể tìm
thấy con một ông tướng nào chiến đấu ngoài mặt trận”
(Phạm
Huấn,Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 133)
“..con
những ông Tướng khác thì cứ gần đến tuổi động viên đã bằng cách này, cách khác,
được xuất ngoại du học. Chung qui chỉ có những sinh viên, học sinh con nhà
nghèo và không thế lực, sẽ bị thi hành lệnh Tổng động viên một cách rất kỹ lưỡng.
Ngoài ra, vì không có tiền bạc để chạy chọt, chắc chắn không bao giờ họ được phục
vụ tại ‘chỗ ngon, chỗ bở’ ở Sài Gòn hay hay các tỉnh”
Phạm
Huấn, Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước, trang 134, viết theo lời kể của
Thiếu uý Phạm văn Trung, sư đoàn 18 BB.
Trần
Phan Anh trong cuốn Trận Chiến Mùa Hè 1972 trang 155, 156 có nêu ra một vụ tham
nhũng hối lộ động trời của các Tướng lãnh VNCH, chẳng biết hư thực ra sao.
“Trong
khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng 3-1972, tình báo VNCH báo cáo sự hiện
diện của công trường 5 Bắc Việt tại căn cứ địa 712, gần thị trấn Snoul, Cam Bốt,
khoảng 30 cây số Tây Bắc Quận lỵ Lộc Ninh trên Quốc Lộ 13. Hai công trường 7, 9
được phát hiện tại vùng đồn điền cao su Dambe và Chup trên đất Cam Bốt, nơi đó
là hai mục tiêu hành quân của Quân đoàn III thiết kế cho Ðệ tam cá nguyệt 1971.
Kế hoạch đã bị đình hoãn sau cuộc tử nạn của Trung Tướng Ðỗ Cao trí, Tư lệnh
quân đoàn III QLVNCH.
Trung
Tướng Ðỗ Cao Trí đã bị thảm sát vì đã cùng Nguyễn Văn Thiệu, Ðặng Văn Quang nhận
hối lộ 30 triệu đô la do tòa Ðại sứ Nga tại Paris trao cho Quang để thả Trung
Ương Cục và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chạy trối chết qua Cam Bốt sau khi bị
liên quân Việt Mỹ bao vây tại vùng rừng Tây Ninh vì những cánh quân của Quân
đoàn III tiến quá nhanh, cục R chậm chân kẹt lại bị CIA phát hiện do việc họ
đánh điện cầu cứu Hà Nội. MACV phối hợp Ðệ 2 Quân đoàn tiền phương Hoa Kỳ (US
II Field Forces) cùng Quân đoàn 3 VNCH được tăng cường một lữ đoàn Dù, Liên
đoàn 5, 6 Biệt động quân tung quân bao vây, Cục R chỉ còn một trung đoàn bảo vệ,
cá nằm trong rọ chờ lên thớt. Khi Liên quân Việt Mỹ siết chặt vòng vây, Lữ đoàn
Dù thọc mũi tấn công khuấy động, một liên đoàn Biệt Ðộng Quân lãnh nhiệm vụ án
ngữ biên giới Cam Bốt thì bất ngờ nhận được lệnh Trung Tướng Ðỗ Cao Trí cho lệnh
rút về chi khu Phước Thành, Tây Ninh nghỉ dưỡng quân thì tối hôm đó bị trung
đoàn bảo vệ Cục R đánh úp để che chở cho toàn bộ Trung ương Cục chạy trối chết
qua Cam Bốt về hướng đồn điền Snoul.
Sau
đó CIA tức giận nghĩ rằng Ðỗ Cao Trí là người của Cộng sản nên ra tay tiêu diệt,
những chuyện này do chính Ðặc sứ Komer (hàm Ðại sứ) kể lại, ông đặc trách Bình
định phát triển MACV.”
Khởi
đầu từ 8 tháng 9 năm 1974, linh mục Trần Hữu Thanh Chủ tịch Phong trào Nhân dân
chống tham nhũng cho phổ biến bản cáo trạng số 1 tố cáo ông Thiệu tham nhũng và
yêu cầu từ chức. Tướng Thiệu bị tố tham nhũng nhiều vụ như nhà cửa, đất đai, đầu
cơ phân bón, gạo miền Trung, buôn bán bạch phiến.. . phong trào lôi cuốn các
nhóm khác như sinh viên, ký giả, chính khách.. Ðầu tháng 2 năm 1975, phong trào
phổ biến cáo trạng số 2 tố cáo ông Thiệu nhiều tội và hô hào lật đổ bằng võ lực
khiến ông ta phải dùng biện pháp mạnh cho bắt giam nhiều nhà chính khách, đảng
phái.
Người
dân trong nước đã quá chán ghét chính quyền thối nát, dĩ nhiên người Mỹ phải
chán nản hơn thế nữa, tiền của họ đổ vào từ bao lâu nay y như gió lùa vào nhà
trống, cựu đại sứ Bùi Diễm nói.
“Một
quốc hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có
quá nhiều khuyết điểm và thối nát”
Nhà
bào Trần Văn Ân, Tướng Trưởng, Phạm Huấn, chính khách, ký giả… đều cho rằng đất
nước đã được giao phó vào tay lãnh đạo tồi. Trần Việt Ðại Hưng cũng như nhiều
nhà báo khác cho rằng Thiệu, Kỳ không phải là những nhà lãnh đạo mà chỉ là những
anh cai thầu chiến tranh, hễ có tiền thì đánh, không tiền thì chạy. Trong tám,
chín năm cầm quyền, ta không thấy chính phủ Thiệu có một kế hoạch gì về chính
trị, kinh tế cũng như quân sự mà chỉ trông chờ vào Mỹ, ông Nguyễn Tiến Hưng cho
rằng ta đã hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ từ quốc phòng, ăn ở, giao thông, vận chuyển…
Ðương
đầu với một kẻ thù nguy hiểm, công chức quân nhân không được học tập về đường lối,
lý tưởng chủ nghĩa quốc gia.. hoặc có chăng chỉ là hình thức. Tổ chức hoạt động
tuyên truyền của chính phủ rất yếu kém, không lôi cuốn được sự ủng hộ của nhân
dân trong khi kẻ địch thường xuyên tuyên truyền nhồi sọ cán binh, nhân dân, bộ
đội để lái họ theo đường hướng chúng đã vạch ra. Bộ Thông tin, tuyên truyền của
ta không giáo dục, tuyên truyền cho người dân, quân nhân, công chức một lý tưởng
Quốc gia, lý tưởng Tự Do Dân chủ để quân dân ta có một tinh thần vững mạnh mà
chỉ là chính sách tự vệ, gặp VC ở đâu thì đánh đấy.
Ông
Nguyễn Ðức Phương cho rằng người dân không tích cực yểm trợ cho công cuộc chiến
đấu.
“Cuộc
chiến tranh quá dài đã khiến mọi người mệt mỏi, giao khoán hoàn toàn việc bảo vệ
đất nước cho quân đội. Phần lớn thanh niên không thiết tha, đôi khi còn trốn
tránh nghĩa vụ quân sự trong thời chiến. Tất cả những mục nát của chính quyến,
thờ ơ của dân chúng và sự ung thối của xã hội miền nam đã cấu thành yếu tố tự hủy”
(CTVNTT,
trang 806)
Một
điều không thể chối cãi được là người Quốc Gia luôn luôn chia rẽ khiến cho CS
đã thừa cơ nước đục thả câu. Ngay từ những năm 1945, 46.. các đảng phái Quốc
Gia đã chia rẽ nhau khiến cho CS lợi dụng thời cơ tuyên truyền lôi cuốn quần
chúng để rồi cướp được chính quyền. Ông Ngô Ðình Diệm chấp chánh ngày 7-7-1954,
so với các Thủ Tướng tiền nhiệm như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn tâm, Bửu Lộc… ông
Diệm là người có bản lãnh cao nhất, dám chơi bạo hất cẳng Pháp để đi theo Mỹ. Ðụng
chạmvới Bảo Ðại thân Pháp, tháng 4-1955, ông Diệm được triệu hồi sang Pháp để
Quốc trưởng cất chức. Các đảng phái Quốc gia, nhân sĩ.. đều nhiệt tình ủng hộ
Thủ tướng Diệm, đả đảo và truất phế ông vua vong bản Bảo Ðại. Năm 1956 ông Diệm
Trưng Cầu dân ý lên làm Tổng thống rồi từ từ xung đột với các đảng phái, nhân
sĩ Quốc gia. Những người Quốc gia trước đây ủng hộ ông nay quay lại chống ông.
Chính phủ cũng chống đối đàn áp những người đối lập ra mặt.
Sau
ngày đảo chính 1-11-1963, miền Nam lại lâm vào tình trạng chia rẽ trầm trọng gấp
bội lần hơn trước. Các Tôn giáo, Tướng lãnh tranh giành quyền hành biến miền
Nam thành một đất nước vô chính phủ. Phật Giáo, Công giáo chia rẽ đả kích nhau
trên báo chí, rồi lại có phe chủ trương chia rẽ Bắc Nam để hòng thủ lợi. Năm 1966
chính quyền quân nhân đã tạm ổn định được tình hình lại bị phong trào Phật Giáo
miền Trung chống đối dữ dội, phong trào đã gây tình trạng sáo trộn nhiễu nhương
khiến cho nhân tâm sao xuyến, kẻ thù thừa cơ len lỏi phá hoại cơ cấu Quốc gia.
Cho
đến gần giờ thứ hai mươi lăm, cuối 1974 và đầu 1975, những cuộc biểu tình chống
chính phủ của Linh mục Trần Hữu Thanh, đảng phái, chính khách… khiến cho các
binh sĩ ngoài tiền tuyến mất tinh thần chán nản và ảnh hưởng tai hại đến sự sống
còn của đất nước.
Comments
Post a Comment