CÁC BẢN NHẠC ÐÃ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI
TƯ CÁCH LÀ QUỐC THIỀU VÀ QUỐC CA
Nguyễn
Ngọc Huy
1. Quốc ca xuất hiện đầu tiên: bản Ðăng
Ðàn Cung của Hoàng Ðế Bảo Ðại
Ở
Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác, có những bản nhạc
và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để đánh dấu sự hiện diện của nhà
vua. Về ý niệm quốc thều hay quốc ca, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta
bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy
nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa có quốc thiều
và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và khi có các cuộc lễ lớn thì bản
nhạc được dùng là bài Marseillaise của người Pháp. Ở Huế thì triều đình nhà
Nguyễn có một số bản nhạc được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các
bản nhạc trên đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời
của nó.
Ðến
thời Thế Chiến II, Hoàng Ðế Bảo Ðại mới ấn định quốc thiều và quốc ca một lượt
với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là bản Ðăng Ðàn Cung. Ðó là một bản
nhạc cổ điển của Việt Nam và được triều đình Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài
Nam Giao để đại diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành
một lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đình. Do đó, bản
Ðăng Ðàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. Vì vậy, Hoàng Ðế Bảo Ðại
đã dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ long tinh được chọn làm quốc
kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Ðăng Ðàn Cung chỉ được dùng trên lãnh thổ Ðại
Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ, còn ở Nam Kỳ bị xem là lãnh thổ Pháp thì bản
Marseillaise vẫn phải được dùng.
2. Quốc ca thứ nhì: bản Việt Nam Minh
Châu Trời Ðông thời chánh phủ Trần Trọng Kim
Sau
khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập, chánh phủ Trần Trọng Kim
đã ban bố một chương trình hưng quốc ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt
Nam Minh Châu Troi Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của
bản nhạc này như sau:
Việt
Nam, minh châu trời Ðông!
Việt
Nam, nước thiêng Tiên Rồng!
Non
sông như gấm hoa uy linh một phương,
Xây
vinh quang ngất cao bên Thái Bình Dương.
Từ
ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.
Tiếng
anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.
Máu
ai còn vương cỏ hoa
Giục
đem tấm thân xẻ với sơn hà.
Giơ
tay cương quyết,
Ta
ôn lời thề ước.
Hy
sinh tâm huyết,
Ta
báo đền ơn nước.
Dầu
thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,
Thề
trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.
Bản
quốc ca này được dùng chung với cờ quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt, nhưng không được
dùng ở Nam Việt vì Nam Việt đã bị người Nhựt thay người Pháp điều khiển một
cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều đình Huế lúc Hoàng Ðế Bảo Ðại đã sắp
thoái vị rồi. Vậy, trong thời kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt
Trận Việt Minh củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lãnh thổ này
không có quốc ca. Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên
tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên Hành Khúc hay
Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung với cờ vàng sao đỏ cũng của
tổ chức này. Như chúng tôi sẽ trình bày sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà
chúng ta đang dùng.
3. Quốc ca thứ ba: bản Tiến Quân Ca của
tập đoàn CSVN
Khi
cướp được chánh quyền, tập đoàn CSVN đã dùng làm quốc ca bản Tiến Quân Ca của
nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đã được họ bắt đầu dùng khi tổ chức các đơn vị võ
trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm quốc ca.
4. Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc
Khi
Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ
Tự Trị đã dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ
Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Võ Văn Lúa, một giáo sư trung học thời Pháp thuộc.
Sau đó, Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này
làm quốc ca, nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn gì bản trước. Các
bản quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ cho
Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc. Nó đã là một đề tài chế giễu của ngưoi dân Nam Việt lúc
đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc vì tuy hết
sức lố bịch, nó đã được dùng làm biểu tượng cho một tổ chức chống lại nền thống
nhứt của Việt Nam và đã gây nhiều đau khổ chết chóc cho những người tranh đấu
cho nền thống nhứt này.
5. Quốc ca của chúng ta ngày nay
Bản
quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc
là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường trung học Pétrus Ký và cựu sinh viên
Viện Ðại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm thì bản nhạc này đã được soạn ra lúc Lưu
Hữu Phước còn học ở trường Pétrus Ký. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Ðại
Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Ðại Học này là Viện Ðại Học duy nhứt của
các nước Ðông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt
Nam, còn lại là người Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước
láng giềng như Trung Quốc và các nước Ðông Nam Á Châu.
Vì
là Viện Ðại Học duy nhứt của Ðông Dương nên Viện Ðại Học Hà Nội đã họp tập tất
cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng
cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đã tổ chức những tổ bí mật tại
đó. Ðặc biệt Ðại Việt Quốc Dân Ðảng có đảng trưởng Trương Tử Anh và một cán bộ
nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Ðại Học Hà Nội thời Thế Chiến II.
Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của
Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois)
và anh đã lãnh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa
theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân.
Chiều
ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Ðông Dương (THSVÐD) đã tổ chức tại
Ðại Giảng Ðường của Viện Ðại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh
nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa
Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đã quyết
định nhơn cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên
Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc
dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đã đưa cho anh một số bài nhạc do
anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các dự thảo của
Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích
động tinh thần tranh đau hơn hết nên đã chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành
Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đã được thành lập với Ðặng
Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. Lời ca
này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:
I.
Này sinh viên ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi!
Ðồng
lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối.
Vì
non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào
anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn
thanh xuân như gương trong sáng,
Ðừng
tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời
khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu
muôn chông gai vững lòng chi sá.
Ðường
mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung
cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
(Ðiệp
khúc)
Sinh
viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh
viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến
lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ
quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng
cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa
quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình
bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ
Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng
tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.
Mài
kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ
Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.
Nòi
giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong
đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.
(Trở
lại điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành
trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày
xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày
nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng.
Là
sinh viên vun cây văn hoá,
Từ
trước sẵn có nhiều hoa lá.
Ðời
mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng
mong ta ra vững cầm tay lái.
Bền
chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang
tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Trở
lại điệp khúc)
Các
lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam và có mục đích
thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt Nam. Nhưng vì như trên đã
nói, Viện Ðại Học Hà Nội lúc ấy còn có nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên
ngoài lời ca tiếng Việt, lại còn có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện
đều có thể dùng nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng
về Việt Nam mà phải nói đến cả Ðông Dương để cho phù hợp với tên THSVÐD. Lời ca
tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:
Étudiants!
Du sol l'appel tenace
Pressant
et fort, retentit dans l'espace.
Des
côtes d'Annam aux ruines d'Angkor,
À
travers les monts, du sud jusqu'au nord,
Une
voix monte ravie:
Servir
la chère Patrie!
Toujours
sans reproche et sans peur
Pour
rendre l'avenir meilleur.
La
joie, la ferveur, la jeunesse
Sont
pleines de fermes promesses.
(Ðiệp
khúc)
Te
servir, chère Indochine,
Avec
coeur et discipline,
C'est
notre but, c'est notre loi
Et
rien n'ébranle notre foi!
Buổi
hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đã đưa đến những kết quả mỹ mãn và bản Sinh
Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đã được chánh thức công nhận là
bản nhạc của THSVÐD. Mùa hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ mãn
khoá tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Ðông Dương và nhiều viên chức
cao cap Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân
Pháp trình tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đã làm mọi ngưoi khích động và khi nó
được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ mãn khoá năm 1942 của Viện Ðại Học
Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều đã nghiêm chỉnh đứng dậy để chào
nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ
nhiên là theo lời ca Pháp. Về phía Việt Nam thì các sinh viên chỉ lo đi học chớ
không có nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các
sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc thì đem
ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca tiếng Việt, nhứt
là đoạn I nói trên đây. Vì thế, từ năm 1943, bài Sinh Viên Hành Khúc đã được
người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.
Năm
1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành lập ở Nam
Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc được đặt lại là Thanh
Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về lời thì hai chữ sinh viên được thay
bằng hai chữ thanh niên. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945,
Thanh Niên Tiền Phong đã huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống
lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh
Niên.
Năm
1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng Bảo Ðại và một số thân
hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh
Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều
cho Quốc Gia Việt Nam. Hội nghị đã đồng ý và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc
Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên Hành
Khúc nói trên đây đã được dùng, với hai chữ công dân thay cho hai chữ thanh
niên.
Ngày
2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được thành lập với Tướng Nguyễn
Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh
thức dùng làm quốc ca. Lúc Ông Ngô Ðình Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Ðại để
thành lập chế độ cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đã có đặt vấn đề
chọn một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được đề nghị
dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận. Bài duy nhứt được
xem là xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của nhạc
sĩ Hùng Lân đã được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy
nhiên, hai Ông Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu cuối cùng đã không chấp nhận việc
dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông làm quốc ca vì một lý do đặc biệt.
Năm
1945, hai Ðảng Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ) và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng (ÐVQDÐ)
đã sáp nhập lại làm một với tên chung là Quốc Dân Ðảng và Ðảng này đã lấy bài
Việt Nam Minh Châu Trời Ðông làm đảng ca. Sau đó, VNQDÐ và ÐVQDÐ lại tách nhau
ra, nhưng cả hai đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Ðông. Vì biết được việc
này nên hai anh em Ông Diệm đã không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca.
Rốt
cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đã quyết định giữ lại bản Quốc Dân Hành Khúc
hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại như sau:
Này
công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Ðồng
lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!
Vì
tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm
sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu
cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù
nước lấy máu đào đem báo.
Nòi
giống lúc biến phải cần giải nguy,
Ngưoi
công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng
tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang
tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Ðiệp
khúc)
Công
dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công
dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát
cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
Xứng
danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Bản
nhạc và lời ca này đã được dùng suốt thời Ðệ Nhứt và Ðệ Nhị Cộng Hòa cho đến
ngày nay.
C. VẤN ÐỀ THAY ÐỔI QUỐC CA
Nói
tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đã được Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc dùng làm quốc
ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được, dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn
bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa quốc ca là Ðăng Ðàn Cung, Việt Nam Minh Châu
Trời Ðông, Tiến Quân Ca và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản
quốc ca này đã được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Ðăng Ðàn Cung với cờ
long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông với cờ quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với
cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với cờ vàng ba
sọc đỏ.
1.
So sánh các bản quốc ca với nhau
Bản
Ðăng Ðàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhã nhạc. Loại nhạc này
có tánh cách nghiêm trang và ôn hòa, trái với dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ
tình cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc giải trí hay hội họp
vui chơi. Bản Ðăng Ðàn Cung là một bài nhã nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao của
nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng không hùng hồn và không
khích động được tinh thần người nghe. Bản Việt Nam Minh Châu Trời Ðông là một bản
tân nhạc có tánh cách khích động hơn bản Ðăng Ðàn Cung, nhưng cái hùng của nó
là loại trầm hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Vì là một hành khúc, bản quốc ca hiện nay của
chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa,
hoàn cảnh lịch sử đã làm cho nó đóng một vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu
cho nền độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là
Sinh Viên Hành Khúc, nó đã được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn
dân Việt Nam. Ðến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đã được dùng để thúc đẩy các
chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với Quân Ðội Viễn Chinh Pháp.
Khi nước Pháp chánh thức nhìn nhận nền độc lập và thống nhứt của Việt Nam, nó
đã thành bản quốc ca với tên là Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.
Bản
Tiến Quân Ca của CSVN cũng có tánh cách khích động tinh thần người nghe như bản
quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca thì từ hình thức Sinh Viên Hành Khúc qua
Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm
là nói đến "thù nước lay máu đào đem báo", còn Tiến Quân Ca với lời
"thề phanh thây uống máu quân thù" rõ là sắt máu quá và có thể làm
cho thế giới xem dân tộc Việt Nam là dã man. Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên
Hành Khúc đã được dùng để thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông
vạt nhọn chống lại Quân Ðội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến Quân Ca đã được
trổi lên để chào đón Quân Ðội này lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận với
Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đã được dùng khi bộ
đội Việt Minh cùng với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để
tiến đánh các chiến khu của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và
Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội.
2. Lý luận của những người muốn đổi quốc
ca
Những
người muốn đổi quốc ca đã đưa ra nhiều lý luận khác nhau. Trong các lý luận được
đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng ta lưu ý. Lý luận này đặt nền tảng trên
chỗ tác giả bản nhạc được chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu Hữu Phước, hiện là một
cán bộ cộng sản, và Lưu Hữu Phước đã lên tiếng sỉ vả người quốc gia Việt Nam là
vô liêm sỉ khi lấy bản nhạc của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một số người
quốc gia Việt Nam đã tỏ ra khó chịu về việc này và những người muốn thay đổi quốc
ca đã dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ bản quốc ca hiện tại.
a.
Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước
Vì
lý luận trên đây dựa vào cá nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta cần phải biết về cá
nhơn này trước khi phán đoán. Thời Thế Chiến II, Lưu Hữu Phước là một sinh viên
có tinh thần quốc gia và cũng như nhiều sinh viên khác của Viện Ðại Học Hà Nội,
chỉ có chủ trương giành độc lập cho Việt Nam mà không gia nhập đoàn thể chánh
trị nào. Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước đã hoạt động với
Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của Ðại Việt Quốc Dân Ðảng tại Viện Ðại Học
Hà Nội.
Lúc
CSVN cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh viên khác gia nhập Ðảng
Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN trong Mặt Trận Việt Minh, nhưng
lúc đầu phân biệt với Ðảng CSVN và nhiều khi cạnh tranh lại đảng này. Tuy
nhiên, bằng cách vừa mua chuộc, vừa lấn ép, CSVN đã lôi phần lớn các đảng viên
Tân Dân Chủ vào Ðảng CS và chỉ còn dùng tên Ðảng Tân Dân Chủ làm một nhãn hiệu
để làm cho người ta lầm tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải là chế độ
độc đảng.
Lưu
Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Ðảng CS. Anh ta
không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như
Ðặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh
Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả
năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước
sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đã dùng anh ta như một văn
công, sản xuất nhạc theo lịnh Ðảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Ðảng
thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân lúc còn là một sinh viên có tinh thần quốc gia.
Ngày nay, anh ta là một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ
là do Ðảng CSVN mớm cho.
b. Quan niệm chung của người các nơi
trên thế giới về quốc ca
Nhưng
dầu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc, Lưu Hữu Phươc đã là một đảng
viên cộng sản rồi và việc chỉ trích chúng ta dùng bản nhạc đó là do ý anh ta,
chúng ta cũng không phải bận tâm về vấn đề này, vì theo quan niệm chung của người
các nơi trên thế giới về quốc ca thì khi một bản nhạc đã được quốc dân nhận làm
quốc ca, nó không còn của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do đó, cá nhơn người
sáng tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm quốc ca không thành một vấn
đề đem ra thảo luận. Chúng ta có một tiền lệ đáng lưu ý về việc này.
Ðó
là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca Pháp. Bản quốc ca này được
một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle sáng tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ
XVI còn trị vì và Rouget de Lisle là một sĩ quan trong Quân Ðội Pháp. Năm 1793,
Vua Louis thứ XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt vì là người quí tộc theo
phe bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên Quốc
Phòng của Hội Ðồng Cách Mạng vì muốn cứu một sĩ quan cùng binh chủng với mình,
lại là tác giả bản Marseillaise, đã đề nghị Rouget de Lisle tuyên thệ trung
thành với Cách Mạng thì sẽ được tha, nhưng Rouget de Lisle từ chối vì không chịu
phủ nhận lý tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết vì chánh
phủ cách mạng chủ trương Ðại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đã bị lật đổ trước
khi bản án tử hình của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu sau năm 1793,
Rouget de Lisle đã trở thành người chống lại Cách Mạng, chánh quyền cách mạng
Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise do ông sáng tác và năm 1795 đã chánh thức
quyết định lấy nó làm quốc ca.
c. Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập
đoàn CSVN dùng làm quốc ca
Bản
Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do nhạc sĩ Văn Cao sáng
tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh quyền ở Việt Nam. Không rõ lúc ông
sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đã là một đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc
chắn là về sau, ông đã vào Ðảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có
nhiệt tâm yêu nước thời đó, Văn Cao đã lần lần nhận chân được bộ mặt thật của Cộng
Sản. Ðiều đáng quí là ông đã can đảm hơn nhiều người khác như Lưu Hữu Phước chẳng
hạn, và đã dám nói lên sự bất mãn và chống đối của mình. Ông đã tham dự phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956 và đã dứt khoát chống lại Ðảng CSVN. Trong
con mắt của CSVN hiện nay, Văn Cao là một phần tử phản Ðảng, phản động, phản
cách mạng.
Với
chủ trương độc tài sắt máu và lòng tự hào là Ðảng mình lúc nào cũng hành động hợp
với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản quốc ca họ dùng là sáng tác của một
nhạc sĩ phản Ðảng, phản động và phản cách mạng. Bởi đó, họ không chịu theo quan
niệm thông thường bắt đầu với lịch sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất
chấp lập trường chánh trị về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đã treo một giải
thưởng lớn cho người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca mới. Nhưng
trong nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đã không chọn được bản nào ra hồn.
Cuối cùng, họ phải hậm hực giữ bản Tiến Quân Ca làm quốc ca.
Người
quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường trên thế giới về quốc ca
nên không có gì phải hậm hực vì tác giả bản quốc ca chúng ta đang dùng hiện đã
trở thành một văn công của CSVN. Và nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ
vả chúng ta về chỗ đã lấy bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, chúng ta có
thể bảo họ nên dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập
đoàn CSVN.
3.
Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca Quốc Dân Hành Khúc hay
Tiếng Gọi Công Dân
Người
quốc gia Việt Nam may mắn có một bản quốc ca hùng hồn được dùng để thúc đẩy người
ái quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự tự do của dân tộc. Bản quốc ca này rất
xứng đáng với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội tại của chính nó,
thêm vào vai tuồng lịch sử mà nó đã đóng, nó lúc nào cũng gây sự xúc động mạnh
mẽ trong tâm trí người Việt Nam ái quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc
ca của nước Việt Nam độc lập, nó đã được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến.
Tại Việt Nam, nó đã cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ làm yếu tố hội tập nhiều
triệu chiến sĩ quân nhơn như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt
Nam. Nó đã là bản nhạc tiễn đưa ra nghĩa trang nhiều trăm ngàn người đã chết vì
Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo vật thiêng liêng của chúng ta y
như quốc kỳ.
Hiện
nay, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không còn được chánh thức
dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng như mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết
rằng đó là bản nhạc của người quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên ngoài Việt Nam,
nó cũng được người ngoại quốc xem là bản nhạc biểu tượng cho người quốc gia chống
cộng. Không bản nhạc nào khác có thể thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi
Công Dân về mặt này. Vậy, việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp tục dùng nó
chung với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng rãi ở mọi nơi là một công cuộc
đóng góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản. Nếu mọi người Việt Nam
ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt trí để tranh đấu chung nhau thì một ngày không xa
lắm, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo
đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi nghĩ rằng lúc ấy,
chắc chắn không có bài khải hoàn ca nào hay hơn nó được .
Comments
Post a Comment