Nam Bắc Phân
Tranh Sau 1975
Thuyền nhân Việt Nam tại trại tị nạn Hồng Kông (nguồn
internet)
Không ai có thể xóa bỏ một đoạn đời mà mình kiêu hãnh,
vì thế sự ngăn cách của hai thế hệ trưởng thành sau 1954, đã từng, dù không
hoàn tòan tự nguyện, tham gia vào cuộc chiến nam bắc phân tranh 1954-1975 là một
điều tự nhiên. 35 năm sau ngày đất nước thống nhất về mặt địa dư, không những sự
phân cách trong lòng người vẫn còn mà đôi khi còn tiến tới sự phân tranh không
kém mãnh liệt. Chính bởi thế ngay trong tập thể những người Việt bỏ nước ra đi
trốn chế độ cộng sản cũng có sự phân tranh mãnh liệt giữa người Việt miền bắc
và người Việt miền nam.
Trong thời gian tôi ở trại tị nạn Màn Dìn ở Hồng Kông
(1989), trong trại có xuất bản bản tin hàng tuần. Một hôm ban lãnh đạo hội cựu
quân nhân Việt Nam Cộng Hòa trong trại mà chủ tịch là cựu thiếu tá Hùng, khóa
20 Võ Bị, hiện ở Nam Cali, cho người mời tôi tới họp khẩn. Khi tới nơi anh em
cho biết trong số báo sắp ra tuần này có một bài của mấy người miền bắc chửi
anh em cựu quân nhân VNCH và hỏi ý kiến tôi xem sẽ phải đối phó ra sao. Suy
nghĩ một hồi tôi nói để tôi gặp ông đại diện cao ủy tị nạn nói chuyện với ông
ta xem sao. Trong văn phòng cao ủy của trại, ngoài ông cao ủy còn thì nhân viên
là thuyền nhân, trong đó có cả thuyền nhân miền bắc. Những thuyền nhân làm trên
mấy văn phòng của trại hay văn phòng cao ủy đa số là thông dịch viên (interpreter).
Thông dịch viên có thể nói là những “viên chức tị nạn cao cấp nhất” trong trại,
là những người có ảnh hưởng rất lớn tới các chương trình của trại. Bởi thế mấy
thông dịch viên người miền bắc mới đưa mấy bài chửi các cựu quân nhân VNCH vào
tờ báo. Những thông dịch viên người miền nam không muốn (hay không dám) trực tiếp
cá nhân đương đầu với mấy thông dịch viên miền bắc vì sợ đầu gấu miền bắc trả
thù nên thông báo tin tức để hội cựu quân nhân có kế hoạch đối phó.
Hôm sau gặp đại diện cao ủy tị nạn, một thanh niên khoảng
30 tuổi người Anh, tôi đề cập tới vấn đề tờ báo thì ông cao ủy cho biết rằng Hồng
Kông là xứ tự do, ngay cả cộng sản cũng được quyền hoạt động. Đã dự trù luận điểm
này từ trước nên tôi lý luận rằng tôi đồng ý với ông là Hồng Kông là xứ tự do,
nhưng trại tị nạn này là trại của những người tị nạn cộng sản và ngân sách của
Liên Hiệp Quốc tài trợ cho những nạn nhân cộng sản. Sẽ thực là vô lý khi dùng
ngân sách tị nạn cộng sản để nuôi cán bộ cộng sản và hỗ trợ các hoạt động của họ.
Họ có thể hoạt động và vận động cho cộng sản ở Hồng Kông bên ngoài trại tị nạn
cộng sản chứ không thể ở bên trong trại tị nạn cộng sản này. Ông đại diện cao ủy
đuối lý và phải chấp nhận cho xé bài báo đó trước khi cho phát hành. Ngoài ra
tôi còn yêu cầu ông phải cho một đại diện của người tị nạn miền nam làm phiên dịch
trong ủy ban để kiểm soát các ấn loát phẩm trước khi cho phổ biến. Ông ta đồng
ý và hội cựu quân nhân đã đưa cho tôi tên một cựu sĩ quan để đưa vào làm (dĩ
nhiên có lương như chúng tôi).
Trước đó trong văn phòng cao ủy tị nạn vẫn có mấy
thông dịch viên người miền nam nhưng họ không tham gia việc biên soạn bản tin của
trại. Một yêu cầu thứ ba mà hội cựu quân nhân VNCH đề nghị tôi đòi hỏi là yêu cầu
Cao Ủy Tị Nạn sa thải hai thông dịch viên người miền bắc đó. Dĩ nhiên đòi hỏi
này không được ông cao ủy chấp thuận. Ngay khi nghe yêu cầu của anh em cựu quân
nhân tôi đã thấy đòi hỏi này khó được chấp thuận vì vô lý nhưng tôi vẫn đưa ra
với đại diện Liên Hiệp Quốc. Sau đó, cũng chiều ý ban đại diện hội Cựu Quân Nhân
VHCH, tôi đề nghị đại diện Liên Hiệp Quốc cho di chuyển hai thông dịch viên đó
sang khu vực hoàn toàn chỉ có người miền bắc, đối diện với khu vực hỗn hợp nam
bắc của chúng tôi. Lý luận của tôi vừa hơi có tính cách đe dọa vừa có vẻ có thiện
ý xây dựng là nếu không di chuyển hai thông dịch viên đó thì tôi e rằng sẽ có đổ
máu cho hai anh đó và tôi không nghĩ là tôi có thể giúp giảm căng thẳng giữa
hai phe trong trại.
Vị đại diện Liên Hiệp Quốc cho biết ông không thể di
chuyển hai thông dịch viên đó nhưng ông sẽ cho hai thông dịch viên đó biết nguy
cơ để tự quyết định. Mấy hôm sau vị đại diện Liên Hiệp Quốc gặp tôi cho biết
ông ta đã thuyết phục nhưng hai thông dịch viên đó không chịu chuyển trại. Tôi
hiểu rằng đây là thái độ của hai anh thách thức người miền nam. Và tôi cũng biết
ngay rằng người miền nam trong trại không đủ hung dữ để thực hiện ý muốn bằng bạo
động. Với thái độ lo ngại bất an trong trại, vị đại diện Liên Hiệp Quốc thuyết
phục tôi rằng, “Ông hãy bảo với người miền nam của ông đừng bạo động. Lâu nay
người miền nam các ông được tiếng là tốt, có cơ hội đi tị nạn. Trong khi như
ông biết đấy, người miền bắc đâu có cơ hội tị nạn như các ông. Họ là những người
xấu.” Nói tới đó tôi thấy đôi mắt ông long lanh như có nước. Tôi đã cộng tác và
chứng kiến lòng tốt của nhiều người ngoại quốc trong khi giúp đỡ thuyền nhân Việt
Nam tại Hong Kong, nhưng chính thuyền nhân Việt Nam lại chia rẽ, chém giết lẫn
nhau. Đôi mắt long lanh như có nước của thanh niên trẻ người Anh này làm tôi
xúc động, và hơi xấu hổ .” Tôi nói với ông, tôi sẽ cố gắng nhưng tôi không bảo
đảm kết quả.
Cách sống của người hai miền cũng cách biệt quá nhiều
khiến chính quyền Hông Kông phải có chính sách tách biệt hai nhóm người để bảo
vệ các thuyền nhân miền nam. Có lẽ trại tị nạn duy nhất ở Hồng Kông có một số
nhỏ thuyền nhân miền bắc được cho ở chung với người miền nam trong một khu vực
không có ngăn cách là trại Màn Dìn nơi tôi ở.
Trại Màn Dìn là một trại lớn có lẽ đứng thứ nhì sau trại
White Head (trại Đầu Bạc). Tôi cũng nên kể thêm rằng sau này sang Mỹ, tôi mới
biết trại Màn Dìn chính là trại có đòan người khá đông từ San Jose, Hoa Kỳ, dẫn
đầu bởi nhà báo Đỗ Văn Trọn và ca sĩ Mai Hân, theo bà Thanh Hải, dự định vào
thăm các thuyền nhân nhưng không được vào trại nên đã ngồi ở trên đường dẫn vào
trại để cầu nguyện cho thuyền nhân. Trại Màn Dìn có hai khu nam bắc riêng biệt
với cổng an ninh ngăn cách. Khu miền Nam có 21 căn nhà, mỗi căn chứa khoảng 200
người. Cái khu miền nam này là khu vực duy nhất tại Hồng Kông có gần một nửa là
người miền bắc ở chung với người miền nam mà không có hàng rào ngăn cách. Số
người miền bắc được cho ở chung này kém về số lương nên không gây ra đe dọa cho
an ninh. Tuy nhiên cũng khiến người miền nam “hơi” lo ngại.
Đầu tiên là sự lo ngại bị thuyền nhân miền bắc cướp bóc,
kể cả cướp bóc những giấy tờ quan trọng cho cuộc thanh lọc tị nạn. Sự lo ngại của
thuyền nhân miền nam sau này cũng tới cực điểm khiến trại phải kêu gọi những ai
có giấy tờ hay tài sản gì quí cần đưa trại giữ hộ thì mang nộp, khi nào cần thì
lên lấy lại. Tuy hướng dẫn chung như vậy nhưng chủ đích chỉ nhằm bảo vệ thuyền
nhân miền nam tránh sự cướp bóc của người miền bắc. Tình hình đe dọa cướp bóc
căng thẳng tới độ trại phải cho cảnh sát mang bàn tới đặt tại từng căn nhà, ra
lệnh mọi người ở nguyên chỗ ở của mình, rồi những ai có giấy tờ hay tài sản quí
giá mang tới bàn nạp cho cảnh sát. Điều buồn cười là tuyệt đối không có thuyền
nhân miền bắc nào có giấy tờ hay tài sản gì cần gửi cảnh sát, chỉ có thuyền
nhân miền nam. Ngoài tài sản, cái mà thuyền nhân miền bắc muốn cướp của người
miền nam là các giấy tờ tuỳ thân và các chứng minh bị cộng sản đàn áp của họ
như giấy cựu quân nhân, giấy ra trại cải tạo v…v. Lúc bấy giờ với những giấy tờ
chứng minh sự đàn áp đó thuyền nhân miền nam có nhiều hy vọng đi tị nạn hơn cho
nên thuyền nhân miền bắc vì ganh tị, muốn cướp để thủ tiêu các giấy tờ đó để biến
cơ hội đi tị nạn giữa thuyền nhân hai miền giống nhau.
Chính sách rõ ràng của Hồng Kồng là tách rời các thuyền
nhân miền nam ra khỏi thuyền nhân miền bắc, nên tình trạng ở chung này chỉ là tạm
thời chờ cho trại Đảo Bò, một hòn đảo hoang trước kia, được xây cất thành một
trại khang trang có tên là trại Tai A Châu. Khi trại Tai A Châu được hoàn tất,
lập tức Hong Kong cho chuyển người miền nam ra đó. Đó là trại dành riêng cho
người miền nam. Vì người miền nam được tiếng có kỷ luật nên trại Tai A Châu cho
phép thuyền nhân được ra khỏi trại đi chơi trên đảo hay ra bờ biển bất cứ lúc
nào, dù là ban đêm.
Công việc chuyển khoảng bốn ngàn thuyền nhân miền nam
từ trại Màn Dìn ra trại Tai A Châu phải từ từ trong khoảng một tuần. Để bảo đảm
an toàn, họ khoanh vùng trong trại cho di chuyển từng khu vực nhỏ. Di chuyển
theo lối cuốn chiếu, khởi đầu là từ bên trong cùng. Khi được gọi tên mang hành
lý đi thì cũng có người được gọi tên trước, người được gọi sau. Khoảng cách nhiều
lắm chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi, nhưng những ai chậm được gọi cũng rất hoang
mang hồi hộp, chỉ sợ bị người miền bắc thừa cơ hội người miền nam còn ít tới trấn
lột, cướp bóc.
Cuối cùng cũng có một gia đình người miền Trung bị lọt
danh sách. Gia đình này hiện đang ở San Jose. Có lẽ vì văn phòng trại tưởng đó
là gia đình miền bắc. Đây là gia đình của một cựu sĩ quan cảnh sát miền nam.
Ông ta cũng là một võ sư nổi tiếng ở Huế trước 1975. Khi các thuyền nhân miền
Nam khác trong khu vực nhỏ của ông được gọi đi hết rồi, ông ta sợ quá không dám
trở về chỗ ở nữa. Trong khi chờ đợi, mấy anh em miền nam đưa ông ta tới chỗ tôi
ở để họp về trường hợp của ông. Chúng tôi quyết định một mặt liên lạc với đại
diện Liên Hiệp Quốc để cho gia đình ông ấy đi trong cùng đợt với những người đã
được gọi tên, một mặt tôi bảo ông ấy cứ ở gần chỗ với tôi thì không đến nỗi nào
nguy hiểm bởi vì ít ra là trên cái giường ba tầng của gia đình tôi cũng đã từng
tiếp nhiều anh chị em miền bắc.
Một lần, có lẽ vào năm 1991, tất cả anh chị em miền bắc
thấy cơ hội đi tị nạn của họ có vẻ khó khăn đã quyết định biểu tình. Ban chỉ đạo
biểu tình kéo tới chỗ gia đình tôi họp để hỏi ý kiến, vì trong đời họ chưa bao
giờ thấy một cuộc biểu tình nào, nên họ không biết làm thế nào để tổ chức một
cuộc biểu tình. Tôi cũng nhìn thấy một mối nguy về an ninh cho người miền nam
là người miền bắc cảm thấy bực bội với người miền nam vì người miền nam thờ ơ với
ý muốn biểu tình của họ. Bà vợ tôi thấy tình hình bắt đầu có vẻ hơi căng thẳng
như vậy nên bảo nhỏ với tôi không nên liên hệ với công việc chuẩn bị biểu tình
của người miền bắc. Vợ tôi nói, biểu tình thì người miền bắc có đánh gia đình
mình đâu mà anh cần tham gia. Tôi bảo vợ tôi đừng sợ. Thứ nhất, nếu tôi không
giúp họ thì ai giúp? Thứ nhì, nếu tôi không giúp họ thì thế nào cũng đi tới
căng thẳng có thể đổ máu giữa hai nhóm người nam, bắc vì một bên cần biểu tình,
một bên không.
Tôi phải giải thích cho người miền bắc: Mục tiêu, đối
tượng và phương cách biểu tình cũng như là những việc cụ thể cần làm trước,
trong và sau khi biểu tình. Tôi giải thích cho họ về mục tiêu biểu tình là đánh
động dư luận qua giới truyền thông, báo chí. Đối tượng là giới truyền thông,
báo chí chứ không phải ban chỉ huy trại, như vậy không có gì phải bạo động cả.
Dĩ nhiên là giới truyền thông không được vào trại nhưng họ sẽ đứng trên con đường
ở đỉnh núi dẫn vào trại và họ trông thấy cuộc biểu tình. Ngoài ra ban chỉ đạo
biểu tình phải viết một thỉnh nguyện thư gửi cho đại diện Liên Hiệp Quốc. Thỉnh
nguyện thư này cũng sẽ được chuyển ra ngoài cho giới truyền thông. Họ hỏi tôi
trong lúc biểu tình thì phải làm gì. Mặc dù đã biết trước là trong đời người miền
bắc chưa bao giờ biểu tình nhưng tôi vẫn thấy buồn cười trước câu hỏi này. Tôi
phải nói với họ rằng đâu có làm gì ghê gớm đâu, chỉ cần kéo dài thời gian biểu
tình và trong suốt thời gian đó đoàn người chỉ hô lớn những đòi hỏi thôi. Tiếp
đó họ nêu vấn đề là họ sợ rằng người miền nam trong trại sẽ không tham gia biểu
tình với họ. Tôi giải thích cho họ biết rằng, trong xã hội tự do, chỉ những ai
có quyền lợi hay quan tâm tới vấn đề họ mới biểu tình thôi. Trong trường hợp
này vì người miền nam sẽ được chấp nhận cho đi tị nạn hết (đó là chính sách của
Liên Hiệp Quốc vào thời điểm đầu của cuộc thanh lọc vào khoảng 1991) cho nên họ
không có lý do gì để tham gia thì quí anh chị cũng đừng bận tâm. Nếu không có sự
giải thích trước như vậy thì chắc chắn chuyện người miền bắc muốn biểu tình,
người miền nam không muốn sẽ đưa tới chém giết đổ máu. Với sự giúp sức của tôi,
cuộc biểu tình của anh chị em miền bắc tại trại Màn Dìn diễn ra êm đẹp, không
có người miền nam tham dự nhưng không có đổ máu giữa hai bên. Trong khi ở nửa
trại bên kia, số thuyền nhân miền bắc đông hơn nhưng không tổ chức biểu tình được
vì không có người miền nam giúp sức góp ý. Bây giờ nghĩ lại, tôi không biết đó
có phải là cuộc biểu tình đầu tiên của thuyền nhân miền bắc tại Hông Kông hay
không. Trước đó dường như thuyền nhân miền bắc chỉ biết bạo loạn chứ không biết
biểu tình.
Ngày đầu tiên, 21 tháng 6-1989, cũng như mọi thuyền tị
nạn khác, thuyền của tôi được cảnh sát Hông Kông kéo vào đậu trong bãi tị nạn
có tên là Đảo Bò. Đây là một trong đám đảo nhỏ. Trước kia được chủ nhân dùng để
nuôi heo và bò cho nên thuyền nhân chúng tôi gọi là Đảo Bò. Tên thực của đảo là
Tai A Châu. Vào tháng 6/1989, đây là trại tiếp nhận đầu tiên trong khi chờ
chính quyền sắp xếp đủ chỗ chứa trong đất liền. Vì số người Việt tị nạn tới mỗi
ngày không dưới 300 người nên trong đất liền Hông Kông không xây kịp chỗ chứa.
Những người mới tới thường phải ở đây khoảng 2 tuần lễ. Ngay lúc vừa được cảnh
sát đưa mấy người đại diện thuyền lên bờ làm thủ tục nhập trại, tôi đã thấy
thuyền cấp cứu chở đi bệnh viện một nạn nhân bị cướp bởi chính thuyền nhân
khác. Sợ quá, suy nghĩ một hồi tôi quyết định liều đứng dậy yêu cầu chính quyền
trại bảo vệ. Tôi nói với người mà sau này tôi biết là trung sĩ nhất thường vụ
quản lý trại rằng “Tôi là một sĩ quan miền nam, tôi có khả năng tự vệ chống lại
cướp, nhưng đây là Hồng Kông, một xứ sở có luật pháp nên tôi phải tôn trọng luật
pháp Hồng Kông và tôi yêu cầu được bảo vệ tránh bị cướp như trường hợp vừa rồi.”
Ông ta nhìn tôi mặt lạnh như tiền. Tôi thấy “không ăn” rồi. Ngay lập tức tôi
quyết định lập lại yêu cầu nhưng cố nhét làm sao để có chữ “Quân đội Hoa Kỳ”
(US Army). Tôi nói tiếp, “Tôi là cựu sĩ quan liên lạc của quân đội Hoa Kỳ” và lập
lại yêu cầu. Khi nghe tới chữ US Army tôi thấy mắt ông ta nhấp nháy, tôi biết
là “ăn tiền”. Ông ta nhìn tôi từ đầu tới chân rồi bảo tôi ở lại trong khi mấy
người đại diện của các thuyền kia được đưa trở lại thuyền của họ. Thực sự tôi
biết có cái chức “sĩ quan liên lạc” (liason officer) là trước kia trong thời
gian ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 1, tôi có thời gian ngắn được gửi sang bộ
Tư Lệnh Lữ Đoàn 1/5 Cơ Giới Hoa Kỳ (1/5 Mechanized Division) để làm sĩ quan
liên lạc hành quân.
Toàn bộ 25 người thuộc ba gia đình trên con thuyền của
tôi được đưa vào một khu biệt lập hẳn với mấy ngàn thuyền nhân khác. Khu vực
này có những dẫy chuồng heo, và thuyền nhân được cho ở trong mấy cái chuồng heo
đó. Cũng giống như ở nhà quê Việt Nam, mỗi chuồng heo vuông vức mỗi cạnh khoảng
4 m. Trong đó còn dấu vết của máng ăn, rãnh nước để rửa chuồng, chỗ hốt phân
heo. Cứt heo và cám heo vẫn còn. Chúng tôi phải lấy nước rửa chuồng heo để ở.
Thỉnh thoảng vẫn thấy những con dòi bò cạnh chỗ nằm. Nhưng dù sao cũng hơn mấy
ngàn thuyền nhân khác là chỗ này còn có mái che là mái chuồng heo. Tới nơi tôi
thấy toàn bộ thuyền nhân người Việt gốc Hoa đã ở trong khu vực này. Tất cả những
thuyền nhân Việt gốc Hoa đều được cho ở riêng để bảo vệ. Ngay khi vừa rời Việt
Nam, giữa người Việt và người Việt gốc Hoa đã có sự chia rẽ rồi, cho dù là họ
sinh đẻ đã nhiều đời tại Việt Nam. Thuyền chúng tôi là những người miền nam duy
nhất được bảo vệ chung với người Việt gốc Hoa. Một kỷ niệm nho nhỏ. Chỗ chuồng
heo đó là chỗ duy nhất các phái đoàn hay phóng viên báo chí tới thăm đảo có thể
tới gặp thuyền nhân để làm phóng sự, phỏng vấn. Những chỗ khác toàn là rừng
hoang nên các đoàn khách đâu biết đường đi mà tới thăm được. Một hôm có một cô
người nhỏ nhắn, xinh xinh, trạc ba mươi tuổi tới phỏng vấn thuyền nhân. Cô ta
giới thiệu là làm cho chương trình Việt Ngữ đài BBC. Tôi ngưỡng mộ lắm. Vì từ
trong tù cải tạo tôi đã ước mơ được làm cho đài BBC hoặc VOA. Lúc đó chỉ là một
ước mơ viển vông thôi. Nhưng đời có ai ngờ nếu mình cứ mơ những giấc mơ “viển
vông” và cố thực hiện nó thì cũng có cơ may thành đạt. Còn hơn là không mơ gì cả.
Thế là 10 năm sau, 1989-1999, sau thời gian học đại học Hoa Kỳ, tôi đã trúng
tuyển vào ban Việt Ngữ đài VOA và sang thủ đô Washington làm việc trong một toà
building lớn có vài ngàn nhân viên ở cạnh trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Trên đảo ngoại trừ vài kiến trúc của chủ đảo mà cảnh
sát đang xử dụng để quản lý trại không có một kiến trúc nào khác. Trừ một số nhỏ
nằm trong các chuồng heo cũ, tất cả thuyền nhân phải căng lều nằm ngòai trời. Lều
do trại phát. Những ngày sau đó tôi chứng kiến 100 phần trăm tất cả những thuyền
nhân mới tới đảo đều bị người miền bắc cướp. Cướp khủng khiếp tới độ gần như
công khai mà cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo và làm
nhân chứng. (còn tiếp)
Đàn Chim Việt Online 2010
__________________________________________
Ghi chú: danh từ “Người miền bắc” trong loạt bài này
chỉ những người bắc còn ở lại Hà nội sau năm 1954 và những người vào miền nam
sau ngày 30-4-1975, kể cả con cháu họ, cho dù sinh trưởng tại miền nam sau đó.
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 [2]
Người miền bắc chiếm đa số trong tổng cộng khoảng 6
ngàn người trên đảo. Họ tự động phân chia ra ở từng khu vực riêng rẽ: Khu Hải
Phòng, khu Đồ Sơn, khu Hà Nội, khu Quảng Ninh. Dân miền bắc khác địa phương
cũng không sống hợp nhất với nhau. Tôi không biết trước khi người cộng sản chiếm
miền bắc năm 1954 thì người miền bắc có óc kỳ thị địa phương nặng nề như thế
không. Nhóm nào đông thì nhóm đó chế ngự trại. Nhóm Quảng Ninh là đông nhất, có
nghĩa là mạnh nhất. Thời gian tôi vừa tới trại thì cũng là lúc còn dư âm của
anh chàng Hoa Hùng, một xếp đầu gấu người miền bắc vừa được chuyển vào đất liền.
Hoa Hùng đi thì không có tay nào làm trùm của trại mà có nhiều băng nhóm nổi
lên theo danh xưng địa phương. Mỗi băng nhóm hùng cứ một khu vực. Người Việt gốc
Hoa, vì biết tiếng Hoa để giải thích với trại nên họ được bảo vệ ở một khu vực
riêng ngay khi mới tới. Riêng người miền Nam thì không ai bảo vệ và cũng không
có nhóm đầu gấu nào để đương đầu với các nhóm đầu gấu miền bắc. Người miền nam
hiền quá và trở nên một cộng đồng bơ vơ giữa một xã hội không luật lệ.
Hai tuần lễ sau, khi gia đình tôi và một số người vừa
được chuyển tới trại khác thì tại trại Đảo Bò xẩy ra bạo động làm rung động Hồng
Kông và xấu mặt người Việt Nam. Cuộc bạo động gây ra bởi người miền bắc. Cuộc bạo
động không lý do nhưng mức độ khiến các thuyền nhân người Việt gốc Hoa và miền
nam ghê sợ và người Hồng Kông khinh bỉ. Người miền bắc chiếm trại, chiếm các
kho thực phẩm. Cảnh sát Hồng Kông phải rút ra khỏi đảo. Kể từ lúc đó người miền
bắc hòan toàn làm chủ trên đảo và họ tự do cướp bóc, hãm hiếp.
Trong bài báo “Vietnam Refugees Riot in Hong Kong” do
BARBARA BASLER, viết đặc biệt cho tờ The New York Times xuất bản ngày mùng 3
tháng 9-1989, tác giả đã viết, “HONG KONG, Sept. 2— Chủ nhật tuần trước, 1,000
người Việt nam đã bạo động trên đảo Tai A Châu, và mặc dù đã xử dụng hơi cay, một
toán nhỏ cảnh sát tại đó đã không thể phục hồi được an ninh và buộc phải rút ra
khỏi đảo. Sau một đêm bị tấn công, cướp bóc và 5 vụ hãm hiếp, hòn đảo, nơi có
5,500 người Việt nam bị tạm giữ, đã được cảnh sát chiếm lại khi các phi cơ trực
thăng chuyển hơn 350 cảnh sát chống bạo động tới. Cảnh sát đã bắt 12 người và một
người bị truy tố tội hãm hiếp. Đảo không có điện, không chỗ đi tiêu tiểu…Các
thuyền nhân phải sống trong những lều tạm, giữa các đống rác và phân người…Các
giới chức nói, “Trật tự hoàn toàn bị tan vỡ.”
Bản tin vắn tắt đã thấy rùng mình. Nhưng sẽ rùng mình
hơn khi đã từng ở đó và may mắn được ra đi trước đó không lâu rồi được nghe
chính những bạn bè, người quen của mình thuật lại ngay sau biến cố đó. Sau này
mấy người miền nam kể lại với tôi rằng khi đổ quân vào tái chiếm lại đảo, cảnh
sát chống bạo động và đại diện Liên Hiệp Quốc đã tìm cách cứu những người Việt
gốc Hoa và người miền nam ra khỏi đảo trước. Cuộc giải cứu như giải cứu con tin
bị bắt cóc. Có lẽ người đầu tiên được giải cứu là cựu thiếu tá Sơn, cựu giảng
viên trường Võ Bị Đà Lạt. Lý do trại biết tới ông Sơn là vì ông làm phiên dịch
cho một cơ quan thiện nguyện và cảnh sát cũng cần những người như ông để phân
biệt đâu là người miền nam. Trên đường tiến vào chiếm trại, cảnh sát gọi đích
danh để tìm kiếm ông Sơn và những thông dịch viên khác. Người Việt gốc Hoa thì
được giải cứu hầu như toàn bộ vì họ nói được tiếng Hoa. Người miền nam thì được
giải cứu ít thôi vì cảnh sát không phân biệt được ai là người miền nam, ai là
người miền bắc. Chỉ những người được các phiên dịch viên như ông Sơn xác nhận,
hay biết tiếng Anh để tự giới thiệu thì mới được cho lên thuyền cấp cứu rời đảo.
Người miền bắc tuyệt đối không được cho lên thuyền cấp cứu.
Bản tin cho biết cảnh sát có bắt một số nghi can nhưng
tôi biết rồi những người này cũng sẽ được thả ra ngay sau đó bởi vì luật lệ Hồng
Kông rất là văn minh, dân chủ, muốn kết tội một người thì phải có đầy đủ bằng
chứng, cần rất nhiều thời gian điều tra, với lời khai của rất nhiều nhân chứng.
Thì giờ và ngân quĩ đâu mà họ điều tra và nạn nhân nào giám khai báo khi trong
trại băng đảng bạn bè và thân quyến của nghi can còn đầy rẫy. Bản tin nói rằng
có 5 vụ hãm hiếp. Nhưng bạn bè tôi cho biết những cuộc hãm hiếp nhiều hơn như
thế nhiều lần. Họ còn nói rằng phụ nữ Việt gốc Hoa thì bị hãm hiếp gần như 100
phần trăm. Phụ nữ miền nam thì bị hiếp ít hơn. Nhưng tất cả các phụ nữ đều sợ
hãi phải làm cho đầu tóc bù xù, bôi đất lấm lem lên mặt cho xấu đi. Người phụ nữ
bạn với gia đình tôi trong tấm hình dưới đây đã thuật chị phải bôi mặt cho lem
luốc, xấu đi hầu thoát nạn. Chị tên là Đinh Thị Thu Vân, hiện ở Hoa Kỳ.
Hình Bà Đinh Thị Thu Vân cùng với hai con nhỏ trải qua
đêm kinh hoàng tại đảo Tai A Chau-1989
Cuộc chiếm đảo của đầu gấu miền bắc còn man rợ hơn nữa
khi mấy ngày sau cảnh sát Hồng Kông phát hiện ra sự kiện là người miền bắc còn
đi “ị” cả vào mấy bồn chứa nước ăn cung cấp cho chính thuyền nhân.
Những hành động và cung cách sống như vậy khiến các
người ngoại quốc cũng như viên chức Hồng Kông hoạt động trong trại đánh giá
thuyền nhân miền bắc thấp hơn thuyền nhân miền nam thật nhiều.
Sau hai tuần ở Đảo Bò, gia đình tôi cùng với 1,600 người
khác được chuyển tới trại Thuyền Châu. Trại này cũng vẫn là tạm thời để chờ
trong đất liền xây xong trại mới. Trại Thuyền Châu gồm bốn cái phà nhỏ, mỗi cái
chứa được 400 người. Vì thế thuyền nhân gọi đây là trại Phao Nổi. Diện tích
dành cho mỗi gia đình thật hẹp. Gia đình tôi 6 người được một diện tích bằng một
chiếc chiếu nhỏ. Chỉ đủ chỗ cho vợ chồng tôi nằm ôm thùng quần áo. 4 đứa con và
cháu phải mắc võng nằm ngay sát trên mặt vợ chồng tôi. Chúng tôi sống như thế
trong bốn tháng.
Các phao này được để cặp bờ một đảo rất nhỏ cách đất
liền Hồng Kông một eo biển hẹp có thể bơi qua dễ dàng. Eo biển này là đường lưu
thông nườm nượp của các chiếc tầu cao tốc nối liền Hông Kông và Macau. Nhưng mỗi
buổi tối, đều có những toán thanh niên miền bắc bơi vào đất liền đi ăn cắp đồ ở
Hồng Kông. Liên Hiệp Quốc và cảnh sát Hồng Kông biết nhưng họ khuyên răn thiếu
điều muốn năn nỉ rằng, “Xin quí vị đừng bơi như thế, rất là nguy hiểm cho mạng
sống của quí vị.” Thế nhưng các đầu gấu với sự hỗ trợ của chính gia đình họ đã
hàng đêm thực hiện những phi vụ phạm pháp như vậy. Những vụ trấn lột diễn ra
hàng ngày nhưng cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo. Đầu
gấu trừng phạt nhau mỗi đêm. Chúng để đối phương đứng ở giữa, chúng đứng vòng
tròn xung quanh. Kẻ thù bị đánh, đá văng từ bên này sang bên kia. Chúng không
cho ai đứng xem. Nạn nhân bị đánh gần chết được trực thăng chở đi cấp cứu trong
đất liền mà khi trở về trại không ai dám chỉ hung phạm.
Trong hoàn cảnh ghê gớm đó người miền nam chỉ biết im
lặng chịu đựng. Ngay gia đình tôi có một thùng bìa nhỏ, trước là thùng đựng cơm
hộp do trại phát, nay gia đình tôi dùng để đựng quần áo vớ vẩn (thuyền nhân còn
có gì hơn ngoài mấy bộ áo quần trại tiếp tế) nhưng bọn đầu gấu tưởng gia đình
tôi có vàng nên một đêm vợ tôi ngủ say chúng cũng lấy được. Nếu thức giấc mà thấy
chúng ăn cắp đồ của mình thì cũng chỉ cười trừ thôi chứ la lên thì cũng chẳng
có ai tiếp cứu mà không khéo chúng lại đập cho vỡ sọ.
Tình hình phân chia nam bắc trong các trại tị nạn ở
Hông Kông trầm trọng tới độ họ đối xử với nhau như hai dân tộc khác nhau. Người
miền bắc hiếp đáp người miền nam. Người miền nam khiếp sợ người miền bắc. Sau
khoảng hai tháng ở trại phao nổi, trong đất liền có một số chỗ, trại xắp xếp
đưa số người miền nam tách rời khỏi số miền bắc. Nhưng họ phải làm kín đáo để
người miền bắc đừng bạo động. Sáng hôm chuyển trại, họ bảo tất cả các thuyền
nhân mang hết đồ đạc tập trung trên sân để nghe đọc danh sách chuyển trại vào đất
liền. Nghe thấy vậy ai cũng vui mừng. Trại làm rất dân chủ. Khi được gọi tên họ
hỏi thuyền nhân có muốn chuyển trại không? Ai mà không muốn sớm được vào một trại
nào đó trong đất liền để có cuộc sống ổn định hơn. Đến khi gọi được nửa số người
rồi thì người miền bắc đã biết ngay đó là kế hoạch trại cho di chuyển người miền
nam đi trại khác tách biệt với người miền bắc. Họ ngồi buồn so trong khi những
người miền nam có tên được gọi đi thì tay xách nách mang khuôn mặt hí hửng.
Gia đình tôi được gọi lên sau cùng. Họ cũng hỏi tôi có
muốn chuyển trại không. Tôi trả lời “Không!”. Ngay sau đó gia đình tôi mang
hành trang trở lại ngồi với nhóm miền bắc để ở lại phao nổi. Nhìn thấy gia đình
tôi mang đồ trở lại ngồi với tóan người miền bắc, tất cả các cặp mắt đều đổ dồn
về gia đình tôi. Người miền nam không hiểu tại sao gia đình tôi lại chọn ở lại.
Người miền bắc thì thấy vui mừng. Ít ra họ cũng thấy đỡ cô đơn vì còn có một
gia đình miền nam ở lại với họ.
Sáng hôm sau, trong chuyến tầu đầu tiên đưa nhân viên
từ đất liền ra làm việc, anh cán sự xã hội Hùng trông thấy tôi còn ở trại tròn
mắt ngạc nhiên. Nhưng anh không dám hỏi tôi vấn đề đó giữa lúc tôi đang đứng với
đông người miền bắc, anh bèn mời tôi vào văn phòng của anh đặt trong một thùng
sắt chuyển hàng (container). Hùng là cựu trung úy Thủy Quân Lục Chiến Trần Như
Hùng của VNCH, định cư tại Úc, tình nguyện sang phục vụ giúp dân tị nạn Hồng
Kông. Một lần tôi hỏi Hùng tại sao lại sang tình nguyện công tác tại Hồng Kông
thì Hùng làm tôi cảm động và kính trọng, “Ông hỏi thế thì coi thường tôi quá!”
Vào văn phòng, anh cẩn thận đóng kín cửa rồi hỏi tôi, “Sao ông còn ở lại?” Tôi
cho biết, tôi mà đi nữa thì số gần một ngàn rưởi thuyền nhân miền bắc này ai
giúp đỡ họ, họ không nói được tiếng Anh thì trại làm sao làm việc với họ. Hùng
hỏi tiếp, “Thế ông không sợ họ sao?” Tôi trả lời, “Tôi ở lại giúp họ thì làm
sao họ lại hại tôi?”. Ngày nay Hùng lấy bút hiệu Quốc Việt đang làm trưởng ban
Việt Ngữ của đài phát thanh SBS Radio của chính phủ Autralia tại Melbourne. Có
một lần Hùng chụp cho tôi một tấm hình tôi ngồi giữa đám thanh niên đầu gấu miền
bắc. Tôi cười nói đùa, đây là tấm hình đặc biệt lắm đó nghe. Mới đây, Hùng liên
lạc được với tôi và nói sẽ cố tìm lại tấm hình đó gửi cho tôi nhưng cuối cùng
anh tìm không ra.
Như tôi đã trình bày, vì muốn bảo vệ người miền nam
nên Hồng Kông có chính sách tách rời thuyền nhân miền nam khỏi người miền bắc.
Nhưng tình hình đặc biệt thiếu người phiên dịch tại trại Thuyền Châu khiến trại
phải hội ý với tôi. Thực sự ra nếu chỉ cần một người phiên dịch thì trại có thể
thuê ở ngoài vào một cách dễ dàng. Nhưng qua thời gian giúp trại một cách thiện
nguyện, trại biết tôi là người có thể giúp họ liên lạc với thuyền nhân miền bắc
một cách hữu hiệu nên trại muốn tôi ở lại. Nhưng họ không thể bảo vệ an ninh
cho tôi nên họ không giám trực tiếp yêu cầu tôi ở lại vì lỡ có chuyện gì xảy ra
cho tôi thì ai chịu trách nhiệm. Trại chỉ mật bàn hỏi tôi làm cách nào để chuyển
người miền nam ra đi một cách an toàn, không sợ người miền bắc có cảm tưởng bị
bỏ rơi mà nổi loạn.
Đồng thời họ cho tôi biết là nếu người miền nam đi hết
thì không có ai phiên dịch cho người miền bắc, họ sẽ rất khó điều hành trại.
Trước tình hình đó tôi cho họ biết tôi sẵn sàng ở lại để giúp trại điều hành.
Tôi nói với trại rằng người miền bắc cũng là đồng bào của tôi, tôi phải giúp họ
nếu cần thiết. Cho nên toàn bộ kế hoạch di chuyển số người miền nam hôm đó hòan
toàn do tôi đề nghị. Cái kế hoạch chuyển trại mau lẹ và an toàn đó tôi học được
trong nhà tù cải tạo. Mỗi lần người cộng sản di chuyển tách rời một số tù cải tạo
chúng tôi đi trại khác thì họ không cho biết ai đi ai ở, và sẽ đi đâu. Họ cứ
kêu tất cả mang hết hành trang lên sân ngồi chờ. Rồi ai được gọi tên thì người
đó ôm hành trang đứng sang khu vực khác.
Tại trại Phao Nổi (Thuyền Châu), công việc chính thức
thiện nguyện của tôi là phiên dịch bệnh xá dưới quyền của một bác sĩ trẻ người
Anh. Mỗi ngày ông ấy từ trong Hồng Kông ra khám bệnh cho thuyền nhân. Bệnh xá
do tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới của Âu châu phụ trách (Medecins Sans Frontières).
Các thuốc men rất tốt và đầy đủ và mỗi ngày có một chuyến tầu đưa thuyền nhân
có bệnh nặng vào bệnh viện tối tân của Hông Kông điều trị. Khi cấp cứu sẽ có tầu
cao tốc hoặc trực thăng chở bệnh nhân tới bệnh viện trong đất liền. Thuyền nhân
được chữa trị tại bệnh viện y hệt như mọi người Hồng Kông giầu có nhất. Có thể
nói, trên mọi lãnh vực, Hồng Kông là thiên đường của người Việt tị nạn. Nhưng vấn
đề này sẽ được đề cập tới trong một loạt bài khác. Một điều đáng xấu hổ là tất
cả các trường hợp cấp cứu bằng tầu cao tốc hay trực thăng trong thời gian tôi
công tác toàn là nạn nhân của những vụ đâm chém, cướp bóc của đầu gấu miền bắc.
Người miền bắc dường như cũng không quen tôn trọng luật
pháp và kỷ luật. Ngày nào cũng có một đoàn dài người xếp hàng chờ khám bệnh xin
thuốc, mà chỉ xin thuốc trụ sinh thôi, trong khi họ không có bệnh gì cả. Mặc dù
bác sĩ đã giải thích, kêu gọi mọi người không cần xin thuốc dự trữ vì ở bệnh xá
luôn luôn đủ thuốc tốt và khi cần sẽ đưa đi cấp cứu trong bệnh viện trong đất
liền. Nhưng lời giải đáp, kêu gọi hàng ngày đó vẫn không hữu hiệu. Mỗi ngày
hàng đòan người vừa xếp hàng, vừa chen lấn, xô cả cửa của phòng khám khiến ngay
vị bác sĩ cũng phải lúc thì đứng chèn cửa, ngăn không cho đoàn người tràn vào,
lúc thì ngồi xuống khám bệnh. Tôi nói với bác sĩ là tôi không giúp gì được ông
ta trong việc giữ cửa ngăn chặn sự chen lấn bạo động của thuyền nhân vì họ sẽ
đánh cả tôi. Một thời gian sau, quá sức mệt mỏi bởi tình trạng vô kỷ luật của
thuyền nhân miền bắc tôi phải xin bác sĩ cho tôi nghỉ việc. Mấy ngày đầu ông ấy
tới làm việc vẫn kêu tôi lên giúp vì không có phiên dịch. Sau đó tôi sợ quá phải
viết cho ông ấy miếng giấy như van xin, ““Please! Please!” đừng gọi tôi lên nữa
vì tôi sợ quá không thể tiếp tục giúp ông được”. Sau đó ông ta phải thuê phiên
dịch từ ngoài Hông Kông vào mỗi ngày.
Từ ngày cặp thuyền vào trại hoang dã là Đảo Bò cho tới
khi rời khỏi trại tị nạn ở Bataan, Phi luật Tân, tổng cộng 3 năm 8 tháng ,
trong số những người hoạt động thiện nguyện lúc đầu, sau đó được Tị Nạn Liên Hiệp
Quốc trả trợ cấp 180 đô Hồng Kông, tương đương 25 đô Mỹ một tháng, có thể nói
tôi là người miền nam duy nhất có quan hệ thân thiết với người miền bắc. Hầu
như tất cả mọi người miền nam đều tránh né người miền bắc. Có giao thiệp thì
cũng chỉ là bề mặt, xã giao, thiếu cái thân tình. Riêng duy nhất tôi thì không.
Tại sao vậy ? Thứ nhất, trong tận cùng suy nghĩ, tôi luôn luôn thấy rằng sự quảng
giao là tấm áo giáp bảo vệ mình trong mọi tình huống. Thứ nhì, tôi là người bản
chất khá cởi mở, không thành kiến. Tôi có thể và thích giao du với người của mọi
miền, mọi giới khác nhau, từ dân sự tới quân đội, từ người trí thức tới những
tay anh chị. Thêm nữa, tôi gốc người Hà Nội 1954 nên dễ tiếp cận với người miền
bắc.
Chính nhờ lúc nào tôi cũng có mối quan hệ thân thiện với
người miền bắc, được họ thương mến, kính trọng, tin tưởng, mà trong tất cả những
trại tôi ở có thể nói tôi là người duy nhất giúp tránh được các xô xát có thể
đưa tới đổ máu tập thể như đã từng xảy ra rất nhiều lần ở những trại khác. Đó
là một đóng góp âm thầm mà không ai biết trừ bà vợ tôi. Chưa đổ máu thì làm sao
mà biết ai là người đã giúp ngăn chặn những chuyện đó từ trong trứng nước. Đóng
góp đó quan trọng cho một tập thể có khi tới bẩy ngàn người. Và thành thực mà
nói, đóng góp đó quan trọng cho cả chính gia đình tôi. Đôi khi nghĩ lại tôi thấy
cũng vui và cũng nhớ khá nhiều những anh chị em miền bắc có gắn bó tình cảm với
tôi, kể cả bảo vệ tôi. Không kể những lần điện thoại thăm hỏi, tôi và vợ tôi đã
một lần tới Canada thăm một gia đình miền bắc và họ còn hẹn kỳ tới trước khi
sang chúng tôi nên báo trước để họ liên lạc rủ các anh chị em khác tới gặp vợ
chồng tôi cho vui.
Như là một qui luật, để giải quyết những mâu thuẫn xã
hội, điều hữu hiệu nhất là giải quyết sau hậu trường, dựa vào sự thân thiết cá
nhân trước khi mâu thuẫn bùng nổ. Ngay cả trong chính trường quốc gia hay quốc
tế, cá tính của người lãnh đạo và cảm tình họ dành được đối với quần chúng cũng
làm giảm căng thẳng chính trị quốc nội và quốc tế. Mầu da và cách cư xử của tổng
thống Obama đã giúp giảm căng thẳng và gia tăng thân thiện giữa Hoa Kỳ và các
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Phi châu và nam Mỹ đã là một ví dụ sinh động.
Một khi mâu thuẫn đã nổ ra rồi thì nắm lại tình hình rất khó và chắc chắn sẽ có
nhiều tổn thất. Tại trại tị nạn Bataan ở Philipines, một buổi tối một đầu gấu
miền bắc gặp tôi nói rằng nghe nói tối hôm trước anh em cựu quân nhân miền nam
có cuộc họp định tấn công anh em miền bắc, em muốn hỏi anh xem có đúng không. Nếu
đúng như vậy thì bọn em sẽ tấn công trước. Đây là một câu hỏi nhưng cũng là một
đe dọa họ mượn tôi chuyển tới anh em miền nam. Dĩ nhiên câu hỏi đó được tôi giải
toả dễ dàng.
Người miền bắc dường như có thói quen hành động không
theo kỷ luật. Một lần tại trại Phao Nổi, không biết làm sao mà ban chỉ huy trại
mang cơm từ trong đất liền ra chậm. Gần như tất cả hơn một ngàn người miền bắc
lên biểu tình ngay tức khắc. Không có người miền nam. Nhưng họ không biết cách
biểu tình, mà cũng chẳng ai trong số đó biết tiếng Anh để tiếp xúc thảo luận với
trại. Họ chỉ còn một cách là dàn hàng ngang ném đá tấn công ban chỉ huy trại.
Ban chỉ huy trại là những người dân sự có lẽ thuộc sở xã hội. Họ không hiểu tại
sao mà thuyền nhân lại dữ tợn như vậy và họ sợ quá cố thủ trong khu vực ban chỉ
huy có hàng rào kẽm gai. Thấy nguy cấp tôi đi lên yêu cầu đồng bào miền bắc dừng
ném đá để tôi vào thương thuyết với trại. Khi vừa thấy tôi, mấy người trong ban
chỉ huy trại nói ngay: Tôi chờ ông từ nẫy tới giờ. Tôi cho ban chỉ huy trại biết
là thuyền nhân họ muốn được phát cơm ngay không chậm trễ và ban chỉ huy trại đồng
ý sẽ gọi máy vào đất liền yêu cầu chuyện đó. Chuyện thật đơn giản. (còn tiếp-bạo
động còn nhiều)
(Tiếp theo kỳ trước) Không quen thuộc với pháp luật và
luật lệ của trại nhưng người miền bắc quen thuộc với kỷ luật của đầu gấu, của
mafia.
Trong các trại cấm (closed camp) ở Hồng Kông, trại
Whitehead (Đầu Bạc) là trại lớn nhất chứa gần 30,000 người, trong đó đại đa số
là thuyền nhân miền bắc. Dĩ nhiên thuyền nhân hai miền được cho ở riêng có hàng
rào và các con đường ngăn cách xa nhau. Trong khu miền nam tôi không nghe nói
có đầu gấu hay du đãng, ăn cướp.
Tình hình ở khu vực thuyền nhân miền bắc thì trái lại:
các đầu gấu hoàn toàn cai trị. Đây là một nét rất đặc thù của cộng đồng thuyền
nhân miền bắc. Chính bởi thế, tôi nghe nói, trong trại miền bắc rất là ngăn nắp,
kỷ luật và sạch sẽ, cái ngăn nắp, kỷ luật của một chế độ độc tài. Trong khi trại
miền nam thì rất là vô tổ chức và rác rến vứt bừa, bản chất của chế độ dân chủ.
Trại có trả một trợ cấp nhỏ cho một số thuyền nhân làm lao công dọn vệ sinh
hàng ngày. Nói về kỷ luật và sạch sẽ thì cảnh sát rất thích trại miền bắc. Tại
những trại đó thuyền nhân không nghe lệnh đầu gấu thì nhừ đòn.
Các người miền bắc đi làm việc cho trại như thông dịch,
giáo viên, vệ sinh viên v…v. đều phải đóng góp cho ban lãnh đạo thuyền nhân là
các đầu gấu. Các thuyền nhân buôn bán trong trại cũng phải nạp “thuế” cho đầu gấu.
Tại trại của người miền nam thì tuyệt đối không có tình trạng đầu gấu cai trị
và thu thuế như thế. Đối với người miền bắc họ thấy việc điều hành trại như thế
là bình thường. Một chú em đầu gấu miền bắc thuật với tôi như vậy và nói rằng,
“Em hỏi anh nếu không thu tiền như thế thì làm sao trả lương cho những thằng trật
tự trong trại.” Trái lại trại miền nam không cần có “trật tự viên”. Vì là đầu gấu
điều hành trại nên mọi sinh hoạt đều phải theo lệnh họ. Một khi họ hô biểu tình
là tất cả phải tham gia. Nhưng đã là đầu gấu cai trị thì dĩ nhiên có tình trạng
bạo động tranh dành quyền lực. Tình hình đầu gấu và bạo động tràn lan trong khu
vực của thuyền nhân miền bắc được mô tả trong hai bản tin dưới đây:
Trong bản tin Cảnh sát Hông Kông bố ráp trại tị nạn
(Hong Kong Police Raid Refugee Camp) đăng trên tờ The Washington Post ngày 30
/12/1989, “phát ngôn viên chính phủ Timithy Li cho hay cảnh sát đã bắn hơi cay
sau khi thuyền nhân Việt nam nổi lửa đốt các chăn mền và ném đá để ngăn cản
không cho lục soát các vũ khí tự chế. Cảnh sát cho hay 27 thuyền nhân bị bắt
cùng với hơn 700 vũ khí bị tịch thu”. Một cộng đồng biết thượng tôn luật pháp sẽ
không ngăn cản cảnh sát trong hoạt động ngăn ngừa tội phạm như trong bản tin.
Bản tin ngày 20 /2/1990 cũng của tờ The Washington
Post loan tải, “truyền hình chiếu cảnh cảnh sát trang bị mũ bảo hiểm và khiên,
bắn hơi cay và người ta có thể thấy khói bốc lên từ những đám cháy quanh trại.
(www.korchinatnc.com/HongKong) Khi đêm xuống, ….Các nhóm băng đảng thuyền nhân
người Việt thù địch nhau, nhiều người từng trải qua nhiều năm chiến đấu trong
quân đội, tập trung tại những khu vực riêng. Quanh trại vang lên tiếng mài bén
các thanh kim loại thành các thanh kiếm và xà mâu (spears) dài, kiểu thời trung
cổ. Ngày càng có bạo động hàng đêm.” Đọc bản tin thì không thấy nói gì tới người
miền bắc hay miền nam mà chỉ đề cập tới người Việt nói chung. Nhưng những ai đã
ở trong trại tị nạn Hồng Kông trong thời gian đó khi đọc bản tin này đều biết
ngay đây là những trại của người miền bắc.
Trong một lần một phái đoàn khoảng hơn một chục cô thầy
giáo người miền bắc từ trại tị nạn Whitehead sang thăm (giao lưu) có ở qua đêm
tại trại Tai A Châu của người miền nam chúng tôi, các cô thầy miền bắc được đi
lại thoải mái trong trại, kể cả ban đêm ra bãi biển mà không sợ hãi điều gì.
Các cô thầy ngạc nhiên thích quá buột miệng, “Các anh chị ở trại này thích quá.
Ở trại của chúng em không thể an ninh như thế này!”
Trong một lần khác đi cùng với phái đoàn giáo chức miền
nam ở trại miền nam Tai A Châu sang thăm trại White Head của người miền bắc.
Khi vừa tới trại, đoàn được dự một cuộc thuyết trình ngắn cho biết tình hình an
ninh ở trại đó không được bảo đảm. Đoàn được ban quản trị trại dặn dò cẩn thận
là không được lang thang vào trong trại dù là có gặp người quen. Lang thang vào
trong trại có thể gặp nguy hiểm bởi đầu gấu. Đoàn chỉ được ở quanh quẩn nơi
phòng dưỡng bệnh của bệnh xá thôi. Nghe vậy mọi giáo chức trong đoàn đều ớn lạnh.
Khi vào phòng ở trong khu bệnh xá, tôi thấy có một thanh niên duy nhất và được
bệnh xá giới thiệu là người trông nom khu vực này.
Tôi chợt nghĩ ngay tay này cũng phải là một đầu gấu có
hạng đây. Anh ta sống sung túc. Có đầy đủ máy hát, loa, đài, những cái vào thời
đó và nhất là trong trại tị nạn là thứ rất xa xỉ. Như vậy anh ta phải kiếm được
khá nhiều bổng lộc với tư cách một trong các đầu gấu có hạng. Buổi tối, ngồi
quây quần trên giường anh ta nói chuyện. Tôi vờ hỏi anh ta ở đây một mình không
sợ đầu gấu sao thì anh ta liền nhấc tấm nệm ngay dưới chỗ anh ta ngồi để khoe
hai thanh kiếm nhọn, lưỡi cong, dài khỏang 1 mét, anh ta nói, “Em phải có cái này đấy chứ!” Sau đó anh ta vừa vấn điếu
thuốc vừa hỏi chúng tôi có dùng không. Các cô thầy giáo trong đoàn sợ quá. Tôi
vội chồm lên với tay lấy điếu thuốc đưa lên miệng rít một hơi. Ém khói hẳn hoi.
Xong rồi từ từ nhả khói ra. Tỏ vẻ đê mê. Thực ra đây là lần đầu tiên tôi thử sì
ke nên chẳng thấy hương vị gì cả: Không phê mà cũng không một chút khó chịu.
Nhưng tôi giả là một tay chơi, gật gù nói với anh ta, “Đã quá! Lâu lắm mới có
cái này đây!” Các cô thầy giáo trong đoàn nhìn cách cư xử giang hồ của tôi phục
lắm.
Một hôm tôi và mấy người bạn ngượng muốn độn thổ khi một
thiện nguyện viên người Âu châu tới làm việc ở trại thuật với chúng tôi rằng
hôm trước cô ta tới làm thiện nguyện ở trại miền bắc, mấy thuyền nhân cũng quấn
quít lấy cô ấy rồi bất chợt có một thuyền nhân giựt sợi giây chuyền vàng của cô
ta đeo ở cổ chân. Đứng quanh cô ấy rất đông người mà không một ai can thiệp. Tội
phạm ở trại của người miền bắc có tính cách tập thể như vậy.
Trại của người miền bắc hoàn toàn khác trại của người
miền nam.
So sánh với trại miền nam, trại miền bắc có sự khác biệt
lớn:
-Trại miền bắc hoàn toàn do đầu gấu cai trị và dĩ
nhiên bằng luật giang hồ: Đã tường thuật ở trên.
-Thuyền nhân miền bắc có thể ẩu đả chém giết nhau một
cách tập thể chỉ vì một quyền lợi rất nhỏ. Tình trạng bạo động tập thể của những
trại miền bắc đã được một số báo tiếng Anh mô tả. Bài báo “Vietnam Refugees
Riot in Hong Kong” viết bởi BARBARA BASLER, đặc biệt cho tờ The New York Times
xuất bản ngày mùng 3 tháng 9-1989, viết: “HONG KONG, Sept. 2— Trong cuộc bạo động
quan trọng lần thứ nhì trong một tuần lễ, một người Việt nam bị giết ngày hôm
nay và 11 người khác bị thương, khởi đầu bởi một cuộc cãi nhau về một món nợ
đánh bạc…Cảnh sát tin rằng cuộc bạo loạn ngày hôm nay bắt đầu từ một cuộc cãi vả
giữa những người Việt đánh cá kết quả một trận bóng chuyền trong trại. Không ai
đứng ra xác nhận danh tánh người bị giết trong cuộc bạo động.” (bài báo này được
in trên trang 13 ấn bản ngày mùng 3 tháng 9-1989 của bộ The New York edition)
-Người từng ở trong trại đọc tới câu cuối của bản tin
vừa nêu hiểu ngay rằng không ai dám đứng ra xác nhận danh tánh người bị giết vì
sợ đầu gấu. Luật của đầu gấu, của mafia mọi nơi là “im lặng tuyệt đối, nếu
không thì sẽ bị xử theo luật giang hồ”.
-Trong trại tị nạn của người miền bắc đầy rẫy tội phạm
đủ loại.
Trên tờ The Seattle Times xuất bản ngày Chủ Nhật 15
tháng 12-1996, bài “ Hong Kong Camp For Viet Refugees Is Land Of Lives In
Limbo” viết bởi Kristin Huckshorn thuộc “Knight-Ridder Newspapers” viết rằng,
“HONG KONG
-Một trại tị nạn được điều hành bởi Liên Hiệp Quốc và
đông kẻ nghiện hút, tội phạm, kết hôn giả (mail-order brides) và các trẻ em bị
bỏ mặc (neglected children) đã trở thành một di sản xấu xa (an ugly legacy) của
truyện dài (saga) thuyền nhân người Việt…Đó là trại the Pillar Point. Bài báo
viết tiếp: “ Thực ra, những người tị nạn, hầu hết là người miền bắc, đã liên tục
bị từ chối cho đi định cư trong 8 năm qua, hầu hết vì án phạt nghiện hút hay tội
phạm hình sự từ tội trộm cắp nhỏ cho tới sát nhân. Liên Hiệp Quốc và các quốc
gia khác thường ngăn cấm chấp nhận cho đi định cư những thành phần này…Hơn 90
phần trăm những người tị nạn đàn ông nghiện hút, hầu hết là những người dùng
heroin. Những người khác là thành viên băng đảng và buôn ma túy. Hầu hết những người
này được hưởng qui chế tị nạn trước giữa năm 1988, khi mà tất cả các thuyền
nhân Việt Nam khi tới nơi thì tự động được qui chế tị nạn… Thực sự ra trại này
(Sek Kong) đầy bạo động và tội phạm. Nhân viên an ninh đi tuần suốt ngày, liên
lạc với nhau qua máy bộ đàm cá nhân. Cảnh sát Hồng Kông thỉnh thoảng bố ráp các
căn nhà với lệnh toà để tìm ma túy.
-Trại miền nam cũng có du đãng, nhưng du đãng miền nam
khác đầu gấu miền bắc rõ ràng nhất ở điểm họ không được gia đình, bà con hay lối
xóm hỗ trợ, vì vậy họ ít hơn, yếu hơn, bị tách rời khỏi cộng đồng và không có
khả năng cai trị cộng đồng, do đó không gây được tội phạm tập thể như đầu gấu
miền bắc. Trong bản tin của tờ The Washington Post ngày 30 /12/1989 trích dẫn ở
trên, “…cảnh sát đã bắn hơi cay sau khi thuyền nhân Việt nam nổi lửa đốt các
chăn mền và ném đá để ngăn cản không cho lục soát các vũ khí tự chế.” Nội dung
này cho thấy gia đình và cộng đồng miền bắc đã hỗ trợ, và bảo vệ các đầu gấu
qua
hành động phi pháp là ngăn cản cảnh sát trong công tác
truy lùng vũ khí để
phòng ngừa tội phạm. Tình trạng này không thể có được ở
cộng đồng thuyền nhân miền nam.
-Điểm khác biệt nữa giữa hai cộng đồng là trong cộng đồng
người miền nam có một tập thể tương đối trí thức, so với các thành phần khác,
được cộng đồng tương đối kính trọng, chấp nhận vai trò hướng dẫn cộng đồng, đó
là tập thể các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Dưới sự lãnh đạo của thành phần
này thì du đãng không thể tự tung tự tác như các đầu gấu trong trại miền bắc.
-Và một điểm khác biệt quan trọng là người miền nam
tương đối quen sống với tinh thần thượng tôn luật pháp hơn. Luật pháp xã hội chủ
nghĩa hòan toàn khác với luật pháp phương tây đã được áp dụng tại miền nam cho
nên người miền bắc không có tinh thần thượng tôn luật pháp. Người miền bắc hành
động theo cảm tính nhiều hơn, điều gì thấy có lợi cho bản thân là họ làm, bất kể
cái hại cho cộng đồng.
Tình trạng tội phạm ở trại của người miền nam.
Bạo động, tội phạm v…v. là một hiện tượng xã hội ở mọi
nơi, mọi thời, mọi sắc tộc. Nhưng tuỳ từng nền văn hoá mà hiện tượng đó có hình
thái và mức độ khác nhau. Trại miền nam cũng có du đãng (miền bắc gọi là đầu gấu),
nhưng hoạt động của du đãng miền nam có mức độ hạn hẹp hơn đầu gấu miền bắc rất
nhiều.
Vụ hành hung người lớn nhất ở trại miền nam mà tôi biết
là vụ xảy ra ở trại Tai A Châu một cựu đại úy hiệu trưởng trường trung học của
trại bị du đãng đánh trọng thương và sau đó được đưa đi trại khác để bảo vệ an
ninh.
Cũng có vụ xung đột giữa thanh niên người Việt gốc Hoa
và thanh niên miền nam, và một vụ xung đột với cảnh sát bị cảnh sát bắn lựu đạn
cay khoảng 15 phút. Tất cả tình trạng bạo động trong trại miền nam chỉ ở mức độ
như vậy chứ không lan rộng sang bạo động tập thể, kéo dài hay không có trấn lột,
cướp bóc, hãm hiếp và nhất là không có giết người.
Tham gia giải quyết những bạo động nhỏ và có tính cách
cá nhân như thế để ngăn ngừa các bạo động tập thể trầm trọng có sự đóng góp của
những người thuộc thành phần thuyền nhân lãnh đạo trại, trong đó cũng có khi có
sự đóng góp của tác giả bài viết này.
Xin kể sơ hai ví dụ. Trước khi gia đình tôi được chuyển
trở lại trại Tai A Châu sau khi trại này được xây cất xong, một số thanh niên
miền nam và thanh niên Việt gốc Hoa ra ở trước đã xung đột với nhau khiến một
tu sĩ trẻ phật giáo người miền nam bị gẫy tay. Khi gia đình tôi được chuyển ra
đó, thì ngay buổi tối, một nhóm thanh niên miền trung (miền nam) khoảng 20 người,
người lớn nhất khoảng trên 30 tuổi (nay tôi quên tên rồi), mời tôi sang khu họ ở
là Khu D, trên tầng 3 của một trong các dẫy nhà ghép bằng sắt. Họ trình bày
tình hình trong thời gian trước khi tôi tới và nói rằng “Chúng em có nghe anh sẽ
qua nên chúng em chờ anh đây!” Người thanh niên ngoài 30 tuổi trưởng toán nói
thêm, vũ khí chúng em đã chuẩn bị sẵn rồi. Họ muốn tôi đồng ý và lãnh đạo (?) một
trận “quyết đấu” với thanh niên Việt gốc Hoa.
Tôi hơi ngạc nhiên tại sao họ lại trông chờ tôi để quyết
định một chuyện thế này. Tôi chưa bao giờ chỉ huy bạo động trong trại. Tôi cũng
chưa bao giờ xúi ai hay nhóm nào bạo động. Nhưng lực lượng của nhóm thanh niên
miền trung này tôi biết hết nên không có gì phải lo ngại. Tôi phải giải thích với
nhóm thanh niên là “chúng mình là người miền nam đi tị nạn chính trị. Nếu chúng
mình đâm chém nhau thì đều mang hình ảnh xấu hết và sẽ không ai cho mình đi tị
nạn chính trị nữa. Mọi chuyện đối với thanh niên Việt gốc Hoa anh em hãy để tôi
xử trí. Chuyện xích mích giữa hai bên phải chấm dứt.” Sau đó tôi gặp mấy thanh
niên có uy tín của người Việt gốc Hoa bảo họ ngăn chặn không cho thanh niên Việt
gốc Hoa chặn đường đánh thanh niên miền nam là xong. Trường hợp tương tự nếu xảy
ra trong trại miền bắc thì chắc chắn sẽ có quyết đấu một mất một còn ngay.
Khi hoạt động cộng đồng, có những lúc vì cộng đồng
mình phải kìm hãm tự ái cá nhân để nhịn nhục, tạo dĩ hoà vi quí. Trong trại có
chương trình giáo dục phổ thông và cơ sở trường học khang trang từ lớp 1 tới lớp
12 do thuyền nhân điều hành, Liên Hiệp Quốc tài trợ. Liên Hiệp Quốc cũng tài trợ
một chương trình dậy tiếng Anh cho người lớn.
Tôi và anh bạn trung úy Nguyễn Cửu Hùng, hiện ở Nam
Cali là hai người xây dựng nên chương trình với sự yểm trợ và chỉ đạo của một ủy
viên giáo dục người Mỹ tên là Paul thuộc cơ quan tị nạn Liên Hiệp Quốc . Chương
trình có tới 700 học viên và gần 15 giáo viên thuyền nhân do hai chúng tôi tuyển
chọn. Lúc lập chương trình thì không ai biết cách lập, nhưng khi chương trình
chạy xuông sẻ thì lập tức có kẻ tới tranh dành. Chuyện thường tình ở mọi nơi, mọi
thời. Một hôm tôi, anh Hùng và ông Paul đang họp thì một người tị nạn Việt gốc
Hoa, nghe nói trước kia là cựu thông dịch viên của lực lượng đặc biệt Mỹ tự động
tới ngồi cùng bàn. Lại nghe nói anh ta giỏi võ nữa chứ.
Trong trại thì ai cũng biết nhau nên chuyện đó không
có gì là lạ. Trong lúc chúng tôi vừa dừng bàn thảo thì anh bạn thông dịch viên
gốc Hoa này xin phát biểu ý kiến. Anh ta nói rằng, “Chúng tôi là người Việt gốc
Hoa, ở trong trại cũng đông, chúng tôi không muốn chịu sự chỉ huy của người Việt
trong chương trình này.” Nghe vậy, ba người chúng tôi chưng hửng. Ông “xếp”
Paul của chúng tôi mặt hơi xanh nhìn anh thông dịch viên như không hiểu anh ta
nói gì. Anh trung uý Hùng bạn tôi, nhị đẳng thái cực đạo, cũng ngạc nhiên nhìn
anh bạn người Hoa sững sờ luôn. Riêng tôi, sau khoảng 15 giây ngạc nhiên, tôi
ôm chầm lấy vai anh người Hoa và bảo với “xếp” Paul, “Anh này là bạn thân của
tôi. Anh ta giỏi lắm. Tôi nghĩ ông nên trao chương trình này cho anh ta.” Đến
lượt Paul lại không hiểu tôi muốn nói gì. Nhưng 5 giây sau có lẽ Paul hiểu nên
bảo anh ta là ông ấy sẽ mời anh ta gặp ông ấy tại văn phòng vào tuần tới. Mọi
chuyện vui vẻ. Anh người Hoa ra về.
Cuộc họp kết thúc. Hơn tuần sau gặp lại anh người Hoa,
tôi hỏi anh ấy đã gặp ông Paul chưa thì anh ấy cho biết không hiểu sao chưa thấy
ông Paul gọi. Tôi nghĩ thầm, “Paul là tôi đây này chứ Paul nào! Chẳng bao giờ
anh được gọi đâu!” Hôm họp, sau khi anh người Hoa đi, Paul hỏi tôi sẽ đối xử với
anh ta ra sao thì tôi nói gọn, “Ông hãy quên anh ta đi! Anh ta sẽ chẳng bao giờ
dám lên văn phòng đòi gặp ông để yêu sách nữa đâu.” Nếu tình huống này xảy ra tại
trại miền bắc thì diễn biến và kết thúc sẽ hoàn toàn khác, không êm thắm như thế
này.
Thuyền nhân miền nam phục thù thuyền nhân miền bắc: 18
người thiệt mạng)
Tại Hồng Kông còn có một trại mở là trại Pillar Point.
Trại này chứa những thuyền nhân tới trước tháng 6/1988 là thời gian thuyền nhân
Việt Nam đương nhiên được tư cách tị nạn. Sau thời gian này tất cả những thuyền
nhân tới Hồng Kông đều bị nhốt vào trại cấm (closed camps) để chờ thủ tục thanh
lọc xác định tư cách tị nạn tùy từng trường hợp.
Ngoài một số thuyền nhân mới được thanh lọc chấp nhận
qui chế tị nạn đang chờ đi nước thứ ba, đại đa số thuyền nhân trong trại này là
người miền bắc đã tới Hồng Kông từ trước tháng 6/1988 nhưng vẫn chưa được nước
nào nhận vì là thành phần có án tù. Là một trại mở (open camp), các thuyền nhân
trong trại Pillar Point được tự do ra vào. Trong trại này hầu hết là thành phần
nghiện hút và tội phạm. Tôi đã một lần vào đó tìm người quen giữa ban trưa mà
nhìn những thuyền nhân miền bắc trong đó cũng cảm thấy rờn rợn, không biết mình
có thể bị trấn lột lúc nào. Sau đó tôi không dám bén mảng vào trong trại đó nữa.
Tình hình an ninh trong trại này được mô tả theo bản
tin của AFP ngày 14/6/1999, (Riot at Vietnamese refugee camp in Hong Kong; 17
injured- www.catholic.org.tw/) như sau: ““Bạo động trong một trại tị nạn người
Việt tại Hồng Kông; 17 người bị thương”. Theo bản tin, cảnh sát Hồng Kông đã
dùng lựu đạn cay để dẹp một cuộc bạo động trong một trại tị nạn khiến ít nhất
17 người bị thương. Khoảng 200 thuyền nhân Việt Nam đang tìm sự bảo vệ tại một
đồn cảnh sát gần trại tị nạn Pillar Point cho hay họ sợ bị các thuyền nhân khác
tấn công. Cảnh sát trang bị chống bạo động đã chiến đấu trong hơn một tiếng đồng
hồ để dập tắt một cuộc đánh nhau giữa hàng trăm người tị nạn trong trại vào
ngày hôm trước, Chủ Nhật 13/6/99. Cảnh sát cho hay có bốn thuyền nhận bị bắt và
17 vũ khí tự chế bị tịch thu. 11 trong 17 người bị thương được cho nhập bệnh viện
trong đó có một em bé 9 tháng tuổi. Các người trong trại cho hay trại Pillar
Point đã bị các nhóm băng đảng chiếm giữ. Đó là thành phần tạo ra những rối loạn.
Một thuyền nhân cho biết các người trong trại bị buộc phải nạp cho các thuyền
nhân đã ở trước tới 300 đô la Hông Kông, tương đương 39 đô la Mỹ để trả tiền bảo
vệ.
Báo chí cũng cho hay các thuyền nhân trong trại đổ lỗi
cho những phần tử nghiện hút trong trại tạo ra những bất an. Họ nói rằng các
nhóm băng đảng kiểm soát đĩ điếm, cờ bạc và nghiện hút. Đồng thời từ lâu vẫn có
sự thù địch giữa các thuyền nhân miền nam và miền bắc trong trại.” Bản tin
không nói ai là thuyền nhân miền bắc, ai là thuyền nhân miền nam, nhưng những
ai đã ở tại Hồng Kông thì đều biết nạn nhân là các thuyền nhân miền nam hay Việt
gốc Hoa miền nam, còn thủ phạm là các thuyền nhân miền bắc. Chính đầu gấu miền
bắc đã thu 39 đô la Mỹ tiền bảo vệ như trong bản tin.
Tại một trại chuyển tiếp khác dành để tạm thời chứa những
thuyền nhân đã được cấp qui chế tị nạn chờ được đưa đi Phi luật tân để được các
quốc gia đệ tam phỏng vấn tuyển chọn, những người miền bắc cũng trấn lột những
thuyền nhân miền nam. Những người ở trại này chỉ ở tạm thời 2 tuần lễ thôi cho
nên người miền nam họ nín thở qua sông để chờ ngày ra đi, không dám phản ứng
gì. Thậm chí không dám kể với ai. Khi tôi hỏi thăm thì mới vỡ lẽ ra là 100 phần
trăm đều bị người miền bắc trấn lột.
Không những trấn lột người tị nạn miền nam, người miền
bắc còn ra Hồng Kông ăn cắp của người Hồng Kông, thường là của các siêu thị. Một
hôm một cô gái trẻ đẹp miền bắc hỏi vợ chồng tôi, “Cô chú không đi chợ à?”
Chúng tôi thành thật trả lời là không có tiền thì cô ta giọng thản nhiên, “Đi
chợ đâu cần tiền cô chú!” Tôi ngạc nhiên giả bộ muốn đi, hỏi tiếp, thế đi chợ
làm sao. Cô ta thản nhiên cho biết, “Đi ăn cắp trong các siêu thị đó mà chú!”.
Cô ta còn hướng dẫn, đi thành một toán 3 , 4 người. Vào siêu thị giả bộ hỏi mua
đồ lung tung. Tốt nhất là hỏi xem các tấm vải để bọn nó (người bán) phải giăng
rộng tấm vải ra, như thế tấm vải sẽ che mắt nó (người Hồng Kông). Những đứa
khác tha hồ mà ăn cắp.
Sau đó, mỗi khi gia đình chúng tôi đi siêu thị, tôi thấy
nhân viên siêu thị đi theo bén gót. Tôi thấy nhục nhưng thông cảm với họ. Là
người Việt ở Hồng Kông mình bị nhục vì hành vi ăn cắp, quậy phá của những người
miền bắc trong suốt gần hai chục năm trời (tính theo thời điểm cuối năm 1992 là
năm gia đình tôi được cấp qui chế tị nạn và ra ở trại chuyển tiếp ở Hồng Kông)
kể từ khi người miền bắc ăn theo người người miền nam đặt chân “tị nạn” tới Hồng
Kông.
Không phải khi đã tới nơi an toàn là Hồng Kông người
miền bắc mới quậy phá. Trên đường vượt biên, một lần tôi dừng thuyền tại một thị
xã nhỏ của Trung Quốc. Năm 1989, Trung Quốc còn nghèo lắm. Nhiều nơi còn nghèo
hơn Việt Nam cộng sản nữa. Lên bờ đi vào thị xã, tôi thấy một toán thuyền nhân
miền bắc hơn một chục nam, nữ, lớn bé. Có cả mấy tay thanh niên mặc quần đùi, cởi
trần một cách rất là “mất dạy”, xâm trổ khắp thân mình, lang thang trong phố xá
của người ta. Trong khi mình là người đang đi tị nạn, cần được người ta thương
và giúp đỡ. Trông thấy trong một quán tạp hóa nhỏ có toán thuyền nhân người Việt
nên chúng tôi cũng bước vào. Quán thì nhỏ, hàng thì ít, họ tới trước nên chúng
tôi đứng chờ họ mua. Tôi thấy họ mở hết lọ này tới lọ kia hỏi chủ quán lung
tung. Rồi tôi thấy bà chủ quán tiếp họ mà mặt không vui, cứ nhìn tôi lắc đầu
hoài. Tới khi toán người miền bắc đi ra, không mua gì, tôi thấy bà chủ quán tiếp
toán của tôi rất bình thường. Bà ấy không nói được tiếng Anh, và chúng tôi thì
không nói được tiếng Tầu nhiều. Nhưng nhìn cử chỉ tôi biết là bà chủ quán như cảm
thấy vừa thoát nạn khi toán người miền bắc ấy đi ra.
Người miền bắc đi vượt biên quá dễ dàng. Nếu bị bắt họ
không bị tù vì tội vượt biên như người miền nam. Đường đi lại ngắn, không nguy
hiểm. Nhiều khi họ lấy nguyên chiếc tầu sắt của nhà nước để chở cả trăm người
trong một chuyến đi với đầy đủ thức ăn nước uống. Họ đi một cách rất an toàn.
Nhiều người miền bắc kể với tôi, “Đi vượt biên mà xếp hàng như đi hành quân ấy.”
Vì thế họ đến Hồng Kông rất đông. Theo trang web “Vietnamese people in Hong
Kong – Wikipedia, the free encyclopedia” cao điểm vào năm 1989 có tới khỏang
300 người đổ tới Hồng Kông một ngày. Bởi vì họ đi quá dễ dàng nên tại những trại
tị nạn ở Hồng Kông họ chiếm đa số. Vì thế trong suốt những năm dài có trại tị nạn
ở Hồng Kông, với số đông áp đảo, tính tình hung hãn và dường như kết quả của nền
giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa (?), người miền bắc luôn luôn làm chủ tình hình, bắt
nạt, cướp bóc, trấn lột người miền nam và người Việt gốc Hoa. Đối với nội bộ địa
phương với nhau thì họ cũng chia rẽ, chém giết nhau để tranh dành quyền lực. Và
phe nào thắng thế trong trại cũng đều “cai trị” rất là độc đoán, áp dụng luật
mafia chứ không áp dụng luật bình thường văn minh của Hồng Kông. Một lần tôi hỏi
một chú em người miền bắc, được người nhà bảo lãnh đi Mỹ, “Anh thấy em hiền như
thế này lúc ở trong trại thì gia đình em sống làm sao?” Chú ấy hiền lành trả lời,
“Trong trại thì em cũng phải “gấu” chứ, nếu không thì chúng nó bắt nạt chết!”
Nhưng cũng có một lần người miền nam quá uất ức phản
công. Đó là lần duy nhất người miền nam thắng thế nhưng đó lại là lần gây tử
vong nhiều nhất trong lịch sử tị nạn Hồng Kông khiến dư luận Hồng Kông cũng như
những người ngoại quốc thiện nguyện làm việc trong các trại tị nạn bàng hoàng
và ghê sợ người Việt nam nói chung. Nội vụ được mô tả trong bản tin “18 người
Việt thiệt mạng vì bạo động trong trại tị nạn” ( 18 Vietnamese Die in Violence
at Refugee Camp-By BARBARA BASLER,-Published: Tuesday, February 4, 1992) Theo bản
tin của Barbara Basler, ngày Thứ Ba, mùng 4/2/1992, nhà chức trách cho hay, mười
tám thuyền nhân Việt Nam đã thiệt mạng và 128 thuyền nhân khác bị thương trong
một trại tị nạn ở Hồng Kông vào tối thứ Hai khi các phần tử bạo động đã nổi lửa
đốt một căn nhà lớn (Hut) trong một cuộc đụng độ bắt đầu từ việc tranh nhau nước
nóng.
Bộ trưởng an ninh Alistair Asprey cho hay, hoả hoạn đã
được gây ra bởi những người Việt nam nhét những tấm mền đang cháy qua các cửa sổ
vào trong một căn nhà. Đây là cuộc tấn công cố tình nhắm vào một nhóm người
trong căn nhà đó.
Nhà chức trách cho hay các người thiệt mạng trong đó
có ít nhất một em nhỏ, là những thuyền nhân đã tự nguyện hồi hương và đang chờ
thủ tục. Nội vụ là một thương vong lớn nhất từ trước tới nay tại trại tị nạn Hồng
Kông, khởi đầu lúc 11 giờ trưa tại một khu vực nằm cạnh khu vực các người tự
nguyện hồi hương tại trại Sek Kong. Nhà chức trách cho hay 17 trong các nạn
nhân bị đốt chết cháy và một người khác bị chết sau đó tại bệnh viện. Trong số
55 người được điều trị tại bệnh viện, 7 người ở tình trạng trầm trọng. Nhà chức
trách tin rằng số tử vong sẽ còn thêm. Nhà chức trách nói rằng nhiều trăm thuyền
nhân tham gia trong cuộc đánh nhau giữa các băng đảng miền bắc và miền nam. Họ
đánh nhau bằng các vũ khí dao kiếm tự chế. Những người thiệt mạng là người miền
bắc. Ông Asprey nói rằng cuộc tranh cãi về nước nóng trong lúc xếp hàng chờ được
xử dụng đã được cảnh sát ngăn chặn nhưng lại bộc phát sau đó vào buổi tối. Khi
cảnh sát cố ngăn chặn vụ đánh nhau thì hàng trăm người Việt Nam từ khu vực kế cận
phá hàng rào ngăn cách tham gia ẩu đả khiến cảnh sát phải rút ra ngoài và gọi
tăng viện.
Sau đó có khoảng 400 cảnh sát được gọi tới giúp chấm dứt
bạo động bằng cách bắn 33 quả lựu đạn cay vào trại. Lính cứu hỏa phải mất tới
90 phút mới dập tắt được ngọn lửa. Thống đốc Hồng Kông ông David Wilson, và các
viên chức an ninh hàng đầu đã tới trại bằng trực thăng vào sáng hôm sau … Thống
đốc đã ra lệnh tách rời số thuyền nhân hai miền nam, bắc Việt nam này ra hai địa
điểm khác nhau. Có khoảng 2000 (hai ngàn) thuyền nhân miền bắc sẽ được di chuyển
sang trại khác. Hầu hết các thuyền nhân ở Hồng Kông tới từ miền bắc Việt Nam.”
Ỷ số đông, người miền bắc hiếp đáp người miền nam như
thường lệ. Nhưng lần này những người bị hiếp đáp đã phản công. Những người miền
trung (nam) ở trong khu vòng rào đã xô ngã hàng rào để tràn sang khu người miền
bắc. Họ bao vây bên ngoài căn nhà chứa khoảng 200 người (căn nhà nào cũng chứa
số người như thế), đồng thời họ lấy mền (rất nhiều, do trại phát) tẩm dầu
(trong trại có dầu hôi để nấu ăn), tung vào căn nhà để đốt. Những ai từ trong
nhà chạy ra đều bị họ đánh, chém hung bạo. Kết quả tử vong như bản tin đã loan.
Thống đốc Hồng Kông đã chỉ thị tách rời 2,000 thuyền nhân miền bắc đi chỗ khác
chính là để tránh một sự trả thù của người miền bắc.
Hôm sau, nhân viên ngoại quốc làm thiện nguyện trong
trại kể chuyện đó với chúng tôi và họ kết luận, lâu nay họ tưởng người miền nam
hiền và tốt, nhưng chuyện đó cho thấy người miền nam cũng như người miền bắc.
Chúng tôi nghe mà không nói nổi một lời! Vợ một người bạn gốc miền trung, nên
theo dõi chi tiết nội vụ, sau đó cho tôi hay trong nội vụ những người miền
trung cũng tàn nhẫn quá. Số người chết và bị thương đa số là đàn bà con nít,
không chạy ra được. Còn những tên đầu gấu thực sự thì hầu như chạy thoát được cả.
Chị này cũng cho biết tiếp, trong thời gian sau đó, hàng ngày được chở ra bệnh
viện Hồng Kông khám bệnh, những người miền trung không dám lên tiếng sợ bị nhận
giọng là người miền trung sẽ bị đầu gấu miền bắc trả thù.
Vào cuối chương trình tị nạn, 1992, Hồng Kông chỉ chấp
nhận cho những thuyền nhân được công nhận tị nạn tạm trú trong 2 tuàn lễ để làm
thủ tục đi nước thứ ba thôi. Thời gian đó chỉ đủ để cao uỷ tị nạn chuyển số
thuyền nhân đó sang trại Bataan ở Phi luật tân trong ít nhất là 6 tháng để họ học
cách sống để hội nhập vào các quốc gia phương tây, đồng thời xin quốc gia thứ
ba phỏng vấn để thu nhận họ.
Tại trại Bataan lúc đó có 12 vùng, trong đó chỉ có 1
vùng là có người tị nạn miền bắc. Mặc dù số lượng ít ỏi như vậy nhưng họ rất
đoàn kết chặt chẽ cho nên họ áp đảo được du đãng miền nam. Một lần cảnh sát Phi
luật tân trong trại cùng với ông đại diện cao ủy tị nạn đi lùng khắp trại để
tìm một người bị bắt cóc. Suốt một ngày trời tìm đôn tìm đáo, tới mãi xế chiều
nhà chức trách mới giải cứu được thanh niên bị bắt cóc khỏi một căn nhà ở ngay
gần văn phòng trại. Thanh niên này là một du đãng miền nam. Tối hôm trước cậu
ta trấn lột chiếc đồng hồ của một thanh niên miền bắc. Thế là hôm sau đầu gấu
miền bắc tập trung kéo tới tận nơi cư trú của cậu du đãng miền nam này bắt trói
thúc ké, cho khoác bên ngoài một cái áo măng tô rồi hai bên có hai đầu gấu cặp
cổ đi kèm cứ như là ba người bạn thân đi ngoài đường. Cuộc bắt cóc như thế vượt
qua được các trạm kiểm soát từ vùng nọ sang vùng kia để rồi đem nhốt đối thủ
vào trong nhà đánh cho một trận nhừ tử tới chiều mới thả. Nếu ở ngoài đời thì cậu
du đãng miền nam này có thể đã bị thủ tiêu rồi.
Phương cách hoạt động của đầu gấu miền bắc cho thấy họ
được gia đình hỗ trợ (bởi thế họ đông hơn), đoàn kết hơn, hành động tập thể hơn
và liều mạng hơn. Gia đình miền nam không hỗ trợ khi con em họ trở thành du
đãng nên số lượng du đãng miền nam không nhiều bằng miền bắc nếu hai bên có số
dân cư tương tự. Hôm sau viên sĩ quan cảnh sát trưởng vùng tôi ở gặp tôi cho biết
tin về vụ bắt cóc hôm trước và nói với tôi rằng, “Ông biết bắt cóc ở Phi luật
tân là một tội nặng lắm. Đã vậy bọn chúng lại cả gan nhốt kẻ bị bắt cóc ở ngay
gần trụ sở cảnh sát chúng tôi. Tôi thắc mắc là không biết mạng lưới của bọn
chúng sâu rộng cỡ nào và bọn chúng muốn thách thức cảnh sát chúng tôi hay sao?”
Tôi nói với vị cảnh sát đó rằng đó là vụ thanh toán nhau giữa hai băng ăn cướp
thôi, chứ chúng không định thách thức các ông đâu. Và bọn chúng cũng không nhiều
đâu. Sau đó khi ông ta hỏi tôi về phương cách đối phó, tôi đề nghị để mặc kệ
cho hai nhóm thanh toán nhau, không điều tra vụ bắt cóc. Như vậy là dẹp yên được
một phe. Sau đó gọi bên thắng tới nói cho biết “danh sách và mọi hoạt động đã bị
cảnh sát ghi nhận rồi. Nếu muốn yên thì không được quậy phá. Nếu quậy phá thì sẽ
bị bắt hết”. Giải pháp đó mang lại yên bình cho trại tị nạn Bataan trong thời
gian 6 tháng gia đình tôi ở trại đó, trước khi đi Mỹ. (còn tiếp-Văn hóa tội phạm
được thuyền nhân miền bắc du nhập vào các- quốc gia thâu nhận họ)
Hầu hết các thuyền nhân miền bắc không được vào Mỹ.
Theo chính sách tiếp nhận những người được qui chế tị
nạn, tất cả những ai có thân nhân bảo lãnh đều phải được phỏng vấn trước tiên bởi
quốc gia của người thân nhân nạp đơn xin bảo lãnh. Ví dụ tôi có mẹ ở Pháp đã nạp
đơn bảo lãnh thì sau khi đậu thanh lọc, tôi phải được phỏng vấn trước tiên bởi
nước Pháp. Và khi nước Pháp nhận thì tôi phải đi Pháp chứ không có quyền chọn lựa
nước khác.
Nguyên tắc thứ nhì là tất cả những cựu quân, cán,
chính Việt Nam Cộng Hòa sau khi đậu thanh lọc đều phải được Mỹ phỏng vấn trước
tiên. Khi nào Mỹ từ chối thì mới được đi phỏng vấn với các nước khác.
Nguyên tắc kế tiếp là tất cả những thuyền nhân miền bắc
đều không được Mỹ nhận cho phỏng vấn, tức là Mỹ từ chối không nhận người miền bắc
(dĩ nhiên trừ một số ít có thân nhân ruột thịt như cha mẹ anh chị em tại Mỹ bảo
lãnh).
Đó là lý do các thuyền nhân miền bắc qui tụ đông đảo tại
các nước Canada, Úc và Anh. Đặc biệt lúc đó Hồng Kông còn là thuộc địa của Anh
cho nên tất cả những thuyền nhân miền bắc phạm tội tại Hồng Kông nếu bị các quốc
gia khác từ chối thì Anh quốc phải nhận hết trước khi trao trả Hồng Kông lại
cho Trung Quốc. Đó là lý do Anh quốc nhận nhiều thuyền nhân miền bắc có tiền sử
tội phạm nhất.
Cách sống, tức là văn hóa, khó có thể thay đổi. Một cộng
đồng dân chúng khi di cư (immigrate) mang theo họ tất cả nền văn hóa mà từ đó họ
trưởng thành. Người miền bắc trưởng thành trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
khi di cư sang các quốc gia đông âu, qua diện lao động hay du sinh, hoặc tới Hồng
Kông dưới dạng thuyền nhân, lẽ dĩ nhiên mang theo họ tất cả tính chất giả trá,
lừa lọc, tham lam, bạo động, và tàn bạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Rồi từ
các “căn cứ địa” đó, họ du nhập nền “văn hóa đầu gấu” tới các quốc gia thâu nhận
họ như Tây Đức, Anh, Pháp, Canada và Úc. Mới đây trong thượng tuần tháng
1/2010, một bản tin của đài BBC cho biết một chiếc xe hơi đã mang bỏ bên đường
xác chết của một thanh niên khiến cảnh sát Anh phải yêu cầu ai biết danh tánh của
thanh niên nạn nhân hãy cung cấp cho cảnh sát. Bản tin này làm người ta nhớ lại
một tin trong bài “Nam Bắc Phân Tranh sau 1975 bài số # 3” trong đó một nạn
nhân thiệt mạng trong một cuộc giao tranh giữa hai nhóm đầu gấu miền bắc trong
trại tị nạn khiến cảnh sát Hồng Kông cũng phải yêu cầu ai biết danh tánh nạn
nhân thì cung cấp cho cảnh sát. Nhưng cũng như bản tin ở Anh Quốc, không ai dám
làm điều đó. Vì qui luật chung của đầu gấu là “im lặng tuyệt đối.” Ai vi phạm sẽ
bị xử theo luật giang hồ.
Ngay khi còn ở trại tị nạn, với nguyên tắc nhận người
tị nạn như thế, tôi đã thấy trước là ba nước nhận nhiều thuyền nhân miền bắc nhất
là Canada, Úc và Anh, nhất là Anh quốc, sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt tội phạm.
Canada và Mỹ gần nhau, những thuyền nhân từng ở cùng
trại với nhau nay phải chia đôi Mỹ và Canada thường hay giữ liên lạc với nhau.
Khoảng một năm sau khi tới Mỹ, tạm ổn định cuộc sống, tôi tìm cách bắt liên lạc
với cô học trò tiếng Anh của tôi hồi ở trong trại, khi hỏi về cuộc sống thì đã
được cô nói tiếng lóng cho biết là đi làm công hái cần sa rồi. Những năm sau đó
theo dõi báo chí, thấy đã có mấy vụ người Việt tại Úc bị bắt vì chuyển lậu cần
sa về Việt Nam. Tin tức về người Việt tại Anh quốc cũng có mức độ tội phạm
tương tự.
Tại mấy nước cựu cộng sản đông Âu và Nga, những năm
trước không có nạn trồng và bán cần sa nhưng có nạn buôn lậu, đặc biệt tại đông
Đức là buôn lậu thuốc lá và băng đảng thanh toán nhau vì tranh dành thị trường.
Sự thanh toán tàn bạo tới độ có vụ nạn nhân bị bắt cóc mang đi giết rồi chặt nhỏ
thi hài ra thủ tiêu. Tất cả tình trạng tội phạm và phương cách phạm tội của người
Việt tại Canada, Úc, Anh và các nước đông Âu qua tin tức báo chí làm tôi nhớ lại
“văn hóa đầu gấu” của người miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông. Nền văn hóa đầu
gấu của miền bắc có năm biểu hiện: Kiếm tiền bất hợp pháp bằng mọi giá, cướp
bóc, thanh toán nhau, tàn bạo và chế ngự cộng đồng bằng luật giang hồ (tranh
dành quyền lực). Năm biểu hiện này dường như quyện chặt lấy nhau từ trong nước
ra tới hải ngoại.
Sự khác biệt văn hóa bắc nam thể hiện rõ nét qua hiện
tượng ở hải ngoại, người miền bắc đi vào con đường kiếm ăn bất hợp pháp một
cách tập thể, một điều không thấy trong cộng đồng người miền nam. Dĩ nhiên tội
phạm thì ở đâu cũng có nhưng tội phạm tập thể, rủ nhau kéo đàn kéo lũ từ trong
nước ra để làm ăn phi pháp thì chỉ có cộng đồng người miền bắc. Người miền nam
vượt biên ra hải ngoại, nói chung là đông hơn người miền bắc nhiều, nhưng họ đi
làm để nuôi con cái ăn học, và bản thân họ đa số cũng cắp sách trở lại trường học,
cho dù khi đặt chân được tới nước ngoài, đa số tuổi khá cao, nhất là so với các
thuyền nhân miền bắc.
Cho nên người miền nam ở hải ngoại đông hơn người miền
bắc nhiều lần nhưng tỉ lệ phạm pháp lại thấp hơn rất nhiều lần, không gây một
tai tiếng nào tại quốc gia họ định cư. Cái đặc tính ham học và làm ăn đàng
hoàng có văn hóa đó đã mang lại sự kính trọng của người bản xứ. Con cái thành
phần miền nam đã tạo được nhiều thành quả về học vấn và công tác, kể cả đạt được
những chức vụ cao trong chính phủ nước người như là ông Đinh Việt cựu thứ trưởng
bộ Tư Pháp Liên Bang Hoa Kỳ, Luật sư Lưu Tường Quang cựu Tổng Giám Đốc Đài Phát
Thanh Quốc Gia Úc Châu (SBS), ông Vũ Khanh Thanh, nghị viên tại Anh Quốc
(Councillor for the London Borough of Hackney ) và còn nhiều viên chức cao cấp
khác nữa.
Tóm lại người miền nam và con cái họ, chỉ sau thời
gian ngắn tới trường học, họ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội mới và được người
bản xứ kính nể. Trong khi con cái người miền bắc ở nước ngoài không tạo được những
thành quả gây ấn tượng bằng một phần nhỏ con em miền nam. Một nhà báo nổi tiếng
của miền bắc đang tị nạn chính trị tại London, một người bạn thân vong niên với
tôi trong trại tù Z30D vì tội chống đảng, một lần điện thoại nói với tôi thế
này: “Em biết đấy, đám miền bắc khác người miền nam. Chúng có chăm lo cho con
cái đi học đâu. Ở bên này (Anh Quốc) chúng toàn làm những chuyện bất hợp pháp.”
Điều buồn cười là nhà văn miền bắc này chính cống là người Hà Nội cho tới sau
1975 và là một trong vài cán bộ được đảng huấn luyện giỏi nhất miền bắc để đảm
nhiệm những công tác cần trình độ cao tương đương với giới trí thức phương tây
(vì an ninh cho ông ấy tôi xin miễn nêu tên).
Tại Canada, trình trạng tội phạm của người Việt gia
tăng với tốc độ đáng sợ. Theo trang mạng Sherdog.net, bài “Vietnamese gangs
stranglehold over the Canadian marijuana industry” viết rằng 95 phần trăm hoạt
động trồng cần sa do cảnh sát khám phá tại Vancouver được điều hành bởi các
nhóm người Việt. Bài báo viết tiếp, các nhóm trồng cần sa này là những gia
đình, hợp tác với nhau để kiếm tiền… Các nhóm người Việt là những người trồng
nhiều cần sa nhất trên toàn quốc…
Việc trồng cần sa có lợi nhuận khổng lồ (tremendous
profit)… Người Việt trồng cần sa đã phát triển khắp các vùng Edmonton, Calgary,
Saskatoon, Winnipeg, Toronto và Montreal… Một người Canada gốc Việt hoạt động cộng
đồng hàng đầu (community leader) nói rằng nhiều người bàn tán về việc các gia
đình gốc Việt tham gia trồng cần sa. Ông nói nguyên văn, “Nhiều người trong số
họ (người Việt) cảm thấy đó là cách dễ kiếm tiền và vì thế họ đã đi vào nghề
đó..” Sự tham gia của các nhóm gia đình người Việt vào việc kinh doanh bất hợp
pháp này cũng gia tăng nhiều. Trong năm 1997 số nghi can gốc Việt liên quan tới
hoạt động cần sa tăng từ 2% lên tới 36%. Các ghi nhận cho thấy con số người Việt
trồng cần sa là đông nhất. Những người Việt từ Âu Châu và Úc châu đang được tuyển
mộ để chăm sóc cây cần sa…
Cảnh sát tại Anh quốc cho hay 75 phần trăm cơ sở trồng
cần sa bị khám phá do các nhóm băng đảng người Việt điều hành…Tại Anh Quốc cảnh
sát đã lục soát từ giữa năm 2005 tới 2006, 802 cơ sở trồng cần sa tại London,
trong đó 2/3 cho tới ¾ các cơ sở đó là do các băng nhóm người Việt điều hành…
Phương pháp trồng cần sa được dùng tại Canada hiện đang được lặp lại tại Anh quốc.
Nhật báo The Vancouver Sun ra ngày Thứ Năm, mùng 10-12-2009 đăng bài “The
RCMP’s gangster ‘hit list’: …” công bố ngày thứ Sáu, mùng 10-6-2005 viết rằng
Nhóm băng đảng Á châu nổi tiếng nhất tại Vancouver là nhóm “Big Circle
Boys-BCB). Bài báo viết tiếp, các nhóm người Việt kiểm soát 85% hoạt động trồng
cần sa tại vùng Lower Mainland và hầu hết các thương vụ ma túy tại Vancouver
Island, bắc Nanaimo. Thành viên nhóm BCB can dự vào những vụ giết người, cho
vay nặng lãi, buôn người, thu hụi chết, cướp bóc và xuất cảng xe hơi ăn cắp
sang Á châu. Các nhóm băng đảng người Việt nổi tiếng tàn nhẫn và bạo động bất
chợt. Các nhóm tội phạm Á châu khác chìm hơn (more low-key) và không muốn làm cảnh
sát chú ý, nhưng sẽ dùng bạo động và giết người như giải pháp cuối cùng để bảo
vệ quyền lợi bất hợp pháp của chúng.
Tại Úc châu, cảnh sát cho hay các tay buôn cần sa người
Việt đã đi Canada để học hỏi cách trồng loại cây này. Người ta tin rằng chúng sẽ
dùng kiến thức học được để trồng và bán cần sa tại Việt Nam.
Tại Anh quốc tình trạng tội phạm của người Việt miền bắc
cũng được nêu đích danh. Bài Archive for March 24th ,2009, “A Viet Member of
the British Empire” viết rằng, mới đây, người Việt tại Anh quốc đã nổi tiếng
trên báo chí truyền thông Anh quốc do các hoạt động tội phạm trồng cần sa và
buôn người.
Ngay cả người miền bắc cũng xác nhận tình trạng tội phạm
của họ. Trong bài “Người Việt tại Vacsava trồng cần sa” đăng trên mạng Đàn Chim
Việt ngày mùng 2 tháng 1-2009, phần góp ý, ông Nguyễn Dũng viết rằng dân Việt
Nam tại Anh Quốc, phần nhiều từ Hải Phòng cũng trồng và buôn bán cần sa ma túy.
Một người khác tên là Tâm thì viết, thực lòng mà nói những người Việt Nam trồng
cần sa ở Anh, Canada và một vài nước khác đã bị bắt hầu hết đều là người miền bắc
Việt Nam, cho dù tôi cũng là người miền bắc thì tôi cũng không thể chối cãi điều
đó, nhưng xin bà con thông cảm, bởi vì sống trong một chế độ mà nhà cầm quyền
chà đạp lên tất cả để giữ độc quyền cai trị, thì người dân họ cũng học theo cái
xấu đó để mà tồn tại. Chính vì thế mà họ coi thường luật pháp và thượng tôn đồng
tiền.
Theo ông Nguyễn Dũng, một di dân gốc bắc ở trên, người
dân miền bắc học theo cái xấu của đảng “để tồn tại.” Như vậy nguyên nhân của
tình trạng tội phạm của người miền bắc phải là vấn đề văn hóa chứ không phải vấn
đề kinh tế. Vả lại nếu nguyên nhân của tội phạm là vấn đề kinh tế thì người di
dân gốc miền nam cũng phải có mức độ và hình thức tội phạm tương tự.
Làm giầu nhanh chóng bằng mọi giá, kể cả bất hợp pháp,
bạo động, đâm chém là mộng ước lớn hiện nay của cộng đồng người miền bắc hải
ngoại. Nghề trồng cần sa đáp ứng mộng ước bất hợp pháp đó của người miền bắc bởi
thế họ đang đua nhau tràn sang Anh quốc, bất kể mọi nguy hiểm. Trong bài “ Những
bước đổi đời gian nan” của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên trang mạng Đàn
Chim Việt tác giả viết “Trước khi chia tay, chúng tôi hỏi lý do vì sao phải đến
Anh mà không qua Đức, Bỉ hay Hà Lan. Tất cả đều nói giống nhau: “Chúng tôi đến
Anh là vì nơi đó tìm kiếm việc làm dễ hơn, lương cũng cao hơn và sẽ có giấy tờ
cư trú hợp pháp, cũng như nơi ăn ở đã có chủ lo hết”. Qua tìm hiểu, công việc
lương cao, chủ bao là trồng cỏ hay bán sản phẩm quốc cấm, còn nữ có khả năng phải
làm trong ngành buôn hương bán phấn, dịch vụ mới phát triển tại Anh quốc do người
Việt làm thầu.”
Đồng thời người miền bắc đang mở một chiến dịch phổ biến
trồng cần sa hầu như khắp Âu châu và cả ở Hoa Kỳ. Nhưng riêng tại Hoa kỳ lâu
nay cũng có một vài âm mưu phổ biến kỹ nghệ bất hợp pháp này sang thành phố
Seattle, Hoa Kỳ, kế cận thành phố Vancouver của Canada. Nhưng chiều hướng này
khó thành công vì hai lý do: 1- Tại Hoa Kỳ, tội trồng cần sa bị trừng phạt nặng
hơn ở Canada và Anh quốc rất nhiều. 2-Người miền bắc ở Hoa Kỳ rất ít nên họ
không tìm được đồng minh như ở các quốc gia khác.
Trồng cần sa là một nghề rất hấp dẫn và một khi đã đâm
đầu vào rồi thì khó bỏ, bởi vì nó quá dễ và quá có lời. Kiếm vài triệu dễ như
chơi. So với một kỹ sư tại Mỹ, trung bình lương 50 ngàn đô một năm. Một đời làm
việc trung bình 30 năm mới kiếm được 1 triệu rưỡi. Trừ thuế 30 phần trăm thì
còn lại hơn 1 triệu. Sau khi trừ chi phí đời sống thì cuối đời còn được bao
nhiêu. Nhưng đi vào trồng cần sa thì tất cả mọi người đều trở thành triệu phú
trong chớp mắt. Người quen của tôi từ Việt Nam kể chuyện rằng có người trong nước
mới đi xuất cảnh lao động không biết làm gì mà gửi tiền về nhà nhiều quá. Thân
nhân của họ ở Việt Nam mua căn nhà bốn, năm tỉ dễ dàng như lấy tiền trong túi.
Tôi bảo rằng những người xuất cảnh lao động mà nhiều tiền như thế thì chỉ có nước
trồng cần sa, buôn ma túy thôi chứ làm gì có nước nào kiếm tiền dễ như thế.
Một lần sang Canada thăm một cặp vợ chồng quen trong
trại tị nạn. Thấy họ sống sung túc trong một ngôi nhà khang trang mua bằng tiền
mặt và đã trả hết nợ, có nghĩa là không vay ngân hàng, tôi hết sức ngạc nhiên
và cũng đoán thầm nghề nghiệp của họ. Ở chơi được nửa ngày họ mới thật tình thổ
lộ hết công việc. Hiện nay thì chị vợ mở tiệm nails chủ yếu chỉ để tạo bề mặt rửa
tiền. Anh chồng không phải làm gì cả. Họ thú thật đã có bạc triệu. Mấy triệu
thì tôi không biết và không tiện hỏi chi tiết nhưng chính miệng anh ta nói ra
là “triệu”. Anh ta cho biết bây giờ đã giải nghệ. Tôi không tin, cười hỏi, “Giải
nghệ thật không?”. Anh ta thú thật rằng, giải nghệ là bản thân anh ta không còn
trực tiếp trồng thôi, chứ căn nhà cơ sở của anh ta vẫn còn và anh ta kêu người
chăm nom rồi chia lời. Vài ba tháng anh ta tới thu vài chục ngàn đô tiền chia lợi
tức.
Một năm không phải làm gì cả mà thu lợi tức bốn chuyến
như thế thì cuộc sống khoẻ quá. Lợi tức hơn một bác sĩ làm việc cật lực. Anh ta
bảo tôi nếu muốn thì mua một căn nhà ở Canada rồi anh ta sẽ kêu người lo giúp
cho. Lúc đó tôi không phải làm gì cả mà cứ vài tháng đi du lịch sang Canada thu
vài chục ngàn đô. Anh ta trình bày tiếp, trong làm ăn mọi việc tự nó sẽ hình
thành một hệ thống kín từ A tới Z. Mình không phải bận tâm. Mỗi khâu đều có dịch
vụ. Từ người Realtor chuyên mua nhà tới anh constructor sửa nhà để thành cơ sở
trồng cần sa, tới luật sư lo về pháp lý khẩn cấp mỗi khi bị cảnh sát khám phá,
đã tự nhiên trở thành một hệ thống mắt xích hoàn hảo. Khi nghe như thế thú thực
lòng tôi cũng chao đảo. Huống chi là mấy người nghèo đói ở Việt Nam.
Cái qui trình thăng tiến làm giầu nhanh chóng bằng trồng
cỏ diễn tiến khởi đầu từ làm công trông nom vườn, thu hoạch, ăn lương. Khi đã
rành nghề rồi thì lên một bực là không còn làm công ăn lương nữa mà là “lao tư
hợp tác” (lao động và tư bản hợp tác) trông nom cơ sở sản xuất để chia lời với
chủ. Và cuối cùng là khi đã đủ tiền và đã biết hết nghề cũng như biết mối tiêu
thụ rồi thì mua một căn nhà tự mình làm chủ cáng đáng hết mọi việc. Sau vài năm
khi đã để dành được vài triệu rồi thì hoàn toàn chấm dứt lao động mà thuê thợ
làm trả lương tháng. Với sự làm giầu nhanh chóng như thế thì công nhân sẽ sớm
trở thành chủ nhân, để lại một khoảng trống nhu cầu công nhân điền khuyết. Số
chủ nhân mới lại cần thêm công nhân. Hai nguyên nhân đó làm tăng nhanh chóng
nhu cầu công nhân trồng cần sa.
Công nhân ngày càng cần nhiều đưa tới việc buôn người
từ trong nước nhập cảnh lậu sang Anh. Hệ thống mafia buôn người thành hình mà
cuối cùng đầu não của mafia là các viên chức chính phủ từ toà đại sứ, tới các
giới chức cầm quyền trong nước lớn nhỏ từ trung ương tới địa phương, từ ngân
hàng tới sở lao động, tới công an. Một chuỗi những mắt xích mafia buôn người
như vậy đã được các bài báo “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ
Tam-Anh đăng ngày 30 tháng Mười Một 2009 và bài “ Những bước đổi đời gian nan”
của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên cùng trang mạng Đàn Chim Việt mô tả.
Bài “Người Việt ở Ba Lan không chết bao giờ” đăng trên trang mạng talawas ngày
28/10/2009 cho biết “Tối Chủ nhật 25/10/2009, Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD
chiếu một phóng sự về người Việt ở BaLan…
Phóng sự dẫn lời ông Robert Krzysztoń thuộc tổ chức “Tự
do Ngôn luận”, rằng những người Việt vượt biên bất hợp pháp vào Ba Lan đều do
các băng mafia Việt Nam tổ chức. Một nhân viên điều tra của cảnh sát Ba Lan cho
biết, mọi người đều sợ mafia. Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm
bất hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có
quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam.
Đó là hệ thống tội phạm có tổ chức, với cơ cấu như của mafia. “Người Việt không
bao giờ cần ký hợp đồng. Chỉ nói miệng với nhau là đủ. Người nào không chịu trả
nợ thì sẽ bị bắt cóc và tra tấn đến khi nào trả thì thôi.”
Chính hoạt động kinh tế bất hợp pháp cùng với các hành
vi tội phạm khác của mafia miền bắc đã khiến người Việt hai miền nam bắc tại
các quốc gia lớn phương tây như Canada, Úc, Anh, Pháp và Đức sống cách biệt
nhau, không giao tiếp với nhau. Người miền nam cũng không muốn giúp đỡ người miền
bắc ở hải ngoại là vì họ biết rằng một ngày nào đó người miền bắc sống được, tồn
tại được họ sẽ tiếp tục làm ăn phi pháp, tiếp tục trở thành thành viên băng đảng,
và khi đó không những họ sẽ tiếp tục làm nhục danh dự người Việt nam mà còn là
một mối đe dọa trực tiếp cho an ninh cá nhân của những người miền nam. Những ý
kiến trên mạng Đàn Chim Việt dưới đây mô tả phần lớn quan điểm của người miền
nam hải ngoại đối với người miền bắc. Trong phần ý kiến ở cuối bài “Người Việt
khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh, ông “thường dân” viết rằng, “Nhìn
kỹ trường hợp của những người Việt nầy: Họ muốn đổi đời trong hoàn cảnh đời sống
không dễ dàng tại VN…đó là ý muốn đúng! Nhưng tại sao họ đã đi qua nhiều nước,
mà mục tiêu cuối cùng lại là đến Anh, dù đời sống kinh tế, công việc cũng không
dễ dàng ở Anh … ?! Câu trả lời đơn giản, họ được hứa hẹn đến Anh sẽ có công việc
với lợi tức cao, ít nhất vài ngàn dollars mỗi tháng và không khó để có việc…Vậy
nó là công việc gì? … đó là công việc TRỒNG CẦN SA bất hợp pháp ( mà lúc nào cũng
cần người). Lạm dụng luật pháp Anh phạt khá nhẹ (tương tự Canada) với tội trồng
cần sa, họ và các tổ chức “tội phạm” VN chụp ngay, khai thác để làm giàu nhanh
chóng, dù phạm pháp và tạo vấn nạn xã hội cho nước Anh, tai tiếng cho người Việt,
trước mắt và lâu dài…”
Trong một ý kiến khác, ông “hai lua” viết, “Đám người
này nếu vào được nước Anh hay nước Úc, họ cũng dám làm những chuyện phi pháp để
mau giầu. Họ vừa qua khoảng vài năm là tậu nhà mới, xe xịn. Vênh váo đi ra đường
nói rặc tiếng xã hội chủ nghĩa. Trong khi người ra đi từ miền nam sống hiền
lành, tôn trọng pháp luật của nước đã cưu mang cho mình định cư, thì cái đám ra
đi từ miền bắc toàn dân buôn bán xì (xì ke). Thêm vào đám con ông cháu cha qua
du học, chúng coi nước Úc là nơi ăn chơi và khoe khoang. Thật ra đọc bài này
tôi thấy hoàn cảnh của họ đáng thương. Nhưng họ đổi mầu rất lẹ…Sau khi có quốc
tịch Úc là trở mặt ngay. Cho nên lòng thương cái đám này của tui cũng có giới hạn.
Tui …sợ đám này lắm. Chúng giết người không gớm tay. Miễn có tiền là chúng làm.
Xin mấy bác thông cảm đừng nói tôi kỳ thị nam bắc.”
Nhu cầu tồn tại của mafia là phải bành trướng vùng hoạt
động, tiêu diệt tất cả những ai có nguy hại cho sự tồn tại của chúng. Tuy chưa
có bằng chứng cụ thể, nhưng bằng chứng gián tiếp cũng cho thấy sức mạnh của tập
thể đầu gấu miền bắc tại Anh, Canada, Đức và mới đây là Úc.
Tại Anh quốc, đầu gấu miền bắc mạnh tới độ báo chí Anh
quốc đã phải lên tiếng (đã dẫn ở trên) và đã khiến ông Khanh, nghị viên địa
phương phải ngán sợ khi công nhận có tình trạng mafia gốc Việt buôn người và trồng
cần sa tại Anh Quốc, nhưng ngay sau đó ông ta đã phải đổ tội đó là “hoạt động của
các tay mafia người Việt gốc Hoa”. Trong một lần khác, tôi viết một bài về
mafia gốc Việt tại Đức có tựa đề “Mafia làm văn hóa”. Khi gửi cho ban biên tập
Talawas ở Đức, tôi nghĩ có thể lần này ban biên tập talawas không dám đăng vì sợ
bọn mafia gốc Việt miền bắc rất mạnh tại Đức sẽ cắt cổ. Quả nhiên khác với thường
lệ, bài đó của tôi không được đăng mà ban biên tập cũng không cho biết ý của họ
như họ vẫn làm. Sau đó bài đó được đăng trên mạng Đàn Chim Việt ngày 22.10.08.
Một điều khá đặc biệt là sự chia rẽ hai miền nam bắc
thể hiện trong cả đường giây buôn người xuất cảnh lao động bất hợp pháp sang
Anh. Trong đường giây đó, qua các bài báo, tham gia hầu hết là người miền bắc
vĩ tuyến 17, tức là từ Quảng Bình trở ra. Trong bài “Người Việt khốn khổ tại
Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh, ông viết, “Không có người nào đi từ miền Nam
hay phía nam tỉnh Quảng Bình, tức là những người bỏ nước ra đi này đã sống dưới
chế độ cộng sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975..” Sự kiện đó càng
làm nổi bật sự kỳ thị giữa người Việt hai miền nam, bắc.
Sau 3 năm 8 tháng sống với anh em giang hồ đầu gấu miền
bắc, sang tới Hoa Kỳ, được tiếp cận các thông tin về phương cách cai trị đất nước
của đảng cộng sản Việt Nam, tôi thấy có rất nhiều điểm tương đồng về cơ bản giữa
giới lãnh đạo đảng và các đầu gấu hàng đầu trong trại tị nạn. Các điểm tương đồng
đó là:
1-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông chia
phe nhóm: các nhóm Hà Nội, Hải Phòng, Đồ Sơn, Quảng Ninh sống tách biệt và
tranh chấp nhau, khuất phục nhau. Bản tin “Violence Pervades Hong Kong’s
Refugee Camps; Vietnamese Boat People Live in Squalor, Despair-and Fear of
Being Sent Home” đăng trên tờ The Washington Post ngày 20/2/1990 viết rằng,
“Khi đêm xuống, cảnh sát gác trên những tháp canh bao quanh trại Sek Kong. Các
nhân viên xã hội và khách ra về, chỉ còn lại 7,000 thuyền nhân và 50 cảnh sát
canh gác. Ánh sáng đèn pin lập loè. Các băng đảng thù địch tập trung tại những
góc riêng. Quanh trại vang lên tiếng mài dao, kiếm…và thường thì đêm nào cũng
có bạo động. Trong số 56,000 thuyền nhân, đa số là người miền bắc……” Bản tin
không nói rõ “Các băng đảng thù địch tập trung tại những góc riêng” là người miền
bắc, nhưng những ai đã ở trại tị nạn Hồng Kông thì đều biết “các băng đảng thù
địch” đó đều là đầu gấu người miền bắc.
Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam chia phe đảng:
1-Thời Lê Duẫn: Tranh dành quyền lực phe nhóm qua những
vụ án chính trị giữa nhóm của ông Lê Duẫn và nhóm của ông Võ Nguyên Giáp.
2-Hiện nay là đấu đá triệt tiêu & hoà hoãn với
nhau qua những vụ án tham nhũng lớn như hai vụ do Nhật và Úc mới vừa phanh
phui.
3-Thủ tướng Phạm văn Đồng, vị thủ tướng lâu năm nhất
thế giới, đã phải thú nhận “không có quyền thay đổi bộ trưởng.” Như vậy nội các
chính phủ chính là nơi chia chác quyền lực và quyền lợi giữa các phe nhóm đầu gấu
chính trị trong đảng.
2-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đoàn kết
để đàn áp người miền nam.
Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam đoàn kết để chống lại
nguy cơ “diễn biến hoà bình”, các người bất đồng chính kiến, và các nhân vật
tranh đấu cho dân chủ.
3-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đặt ra
lệ thu thuế của những người bán lẻ và của những thuyền nhân làm việc cho trại
như giáo viên, phiên dịch, cán sự y tế, xã hội v…v để chia chác nhau.
Tương tự, đảng viên cùng với thân nhân và phe nhóm
trong đảng cộng sản Việt Nam từ trung ương tới địa phương đẻ ra các qui luật rừng
rú về hành chánh, đất đai, giải tư công ty quốc doanh và kinh doanh để làm giầu
phi pháp và độc quyền kinh doanh lớn. Trong bản nghiên cứu được Liên Hiệp Quốc
tài trợ về nền kinh tế Việt Nam thuộc chương trình Châu Á (Asia Programs) của
Phân Khoa Công Quyền (School of Government) của trường đại học Harvard Hoaky
công bố tháng 1-2008, bản nghiên cứu gọi nền kinh tế Việt nam hiện nay là nền
kinh tế phe đảng (the crony capitalism). Ở trang 4 và 5 trong 56 trang, bản
nghiên cứu viết, “Những người Việt nam có quyền lực chính trị đang chuyển tài sản
công thành tài sản tư xuyên qua các mua bán đất đai mờ ám (murky land deals) và
tiến trình giải tư (equitization process) giúp cho các người tay trong
(insiders) kiểm soát các công ty quốc doanh và tài sản của công ty.” Đó chính
là ngôn ngữ đại học để chỉ hành vi ăn cắp của công một cách tập thể. Bản nghiên
cứu viết tiếp “Tại Việt Nam, nơi lợi tức bình quân đầu người chỉ khoảng 800 đô
la Mỹ một năm nhưng giá đất đai tại các thành phố ngang ngửa với những quốc gia
giầu nhất thế giới. Do môi trường luật lệ cực kỳ mơ hồ và yếu kém, một số nhỏ
thành phần ăn trên ngồi chốc (Vietnamese elite-Việt nam hiện không có thành phần
xuất sắc –elite-nên tôi phải dịch elite ở trường hợp của Việt nam là những kẻ
ăn trên ngồi chốc) đã thu được những khoản lợi nhuận kếch xù (supper profits)
do các đầu cơ (speculative investments) nhà đất.
4-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông sống rất
xung túc, giữa một quần chúng cực khổ.
Tương tự, toàn thể giới lãnh đạo đảng cộng sản và nhà
nước Việt Nam mọi cấp đua nhau làm giầu bất minh. Trong phóng sự về người Việt ở
Ba Lan của Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD ở trên, một nhân viên điều tra của
cảnh sát Ba Lan cho biết: Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm bất
hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có quan
hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam.
So sánh tình hình kinh tế gia đình của giới lãnh đạo đảng
và nhà nước mọi cấp hiện nay với câu chuyện thời sự lúc mới “giải phóng miền
nam” người ta sẽ thấy mức độ ăn cướp của họ thực là ghê gớm. Dù là người nam
hay người bắc, ai cũng biết một câu “đồng dao” xuất hiện sau 30/4/1975: “Người
nam nhận họ, người bắc nhận hàng.” Câu này có ý nói “sau khi được đảng giải
phóng” người miền nam sợ hãi quá vội vàng tìm họ hàng là người miền bắc, dù là
họ hàng “bắn súng cà nông cũng không tới” để hy vọng người họ hàng từ miền bắc
vào sẽ giúp đỡ che chở tránh phải đi cải tạo và không bị đảng cướp đoạt nhà cửa
và tài sản. Còn người miền bắc với niềm tin trong sáng lúc đầu do đảng tuyên
truyền là “vào nam chiến đấu để giải phóng đồng bào trong nam đang bị Mỹ, Ngụy
kềm kẹp, đàn áp, đói khổ” thì lại quá ngỡ ngàng trước sự giầu có của nhân dân
miền nam cho nên “cố gắng đi tìm những bà con trong nam để xin đồ mang về bắc.”
Thời đó, hàng ngày trên quốc lộ 1, người ta thấy nườm
nượp các đoàn xe tải quân sự chạy vào hướng nam thì chở bộ đội và khí tài, lúc
trở ra bắc thì chở theo các tài sản do các cơ quan, đơn vị miền bắc ăn cướp và
ăn cắp của các cơ quan trong nam được đảng giao tiếp quản và một phần là tài sản
của các bộ đội, công an xin của thân nhân trong nam. Những món quà vừa xin vừa
cướp được từ trong nam mang ra bắc thường thấy chất trên những xe tải quân sự
là những chiếc xe đạp. Trên vai các bộ đội hầu hết đều lộ vẻ sung sướng khi có
được cái đài. Và kế tiếp, trên cánh tay của các bộ đội giải phóng ai cũng kiếm
được một cái đồng hồ. Ba món hàng đó là ba món hàng cực kỳ hiếm ở miền bắc và
chứng tỏ người chủ của chúng thuộc vào một “giai cấp” khác nhân dân, một “giai
cấp sang trọng, đáng hãnh diện hơn.” Thêm nữa, một “món quà chiến lợi phẩm” quí
giá nữa là các con búp bê “biết nhắm, mở mắt” và sẽ quí thêm nữa nếu chúng biết
“nói”. Những con búp bê này là món quà những em bé miền bắc hằng mơ ước như mơ
ước chuyện thần tiên. Cán bộ, bộ đội miền bắc vào giải phóng miền nam làm nổi
tiếng ba món hàng, trước kia là rất bình thường ở miền nam: Cái đài, cái đổng
(đồng hồ) và cái đạp (xe đạp). Cán bộ nào cũng muốn có ba cái đó, và ai mà có đủ
ba cái đó thì gương mặt thường lộ vẻ thoả mãn và hãnh diện.
Thế mà chỉ sau chưa tới 20 năm, tính từ lúc tôi vượt
biên cuối năm 1989, thời chưa có ai giầu, tới 2009, giới lãnh đạo đảng, nhà nước
mọi cấp và vợ con, thân nhân họ, những người khi vào “giải phóng” miền nam hãnh
diện với ba chữ Đ (đài, đổng, đạp) đã có những tài sản kếch xù, có nhiều tay tỉ
phú, vượt xa tất cả những người Việt giỏi nhất và giầu nhất tại hải ngoại. Ví dụ:
Trong nước: -Nhà thờ họ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
nguy nga đồ sộ quá mức bên cạnh một địa phương quá sức nghèo đói.
Ngoài nước: Tại Berlin, đầu gấu kết hợp với đại sứ và
thủ tướng Dũng đầu tư kinh doanh đại siêu thị và nhiều mặt hàng khác, cùng với
chuyển tiền bất hợp pháp về Việt Nam. (xin xem bài Mafia làm văn hoá của tác Giả:
Nguyễn Tường Tâm, đăng ngày 22.10.08 trên trang mạng Đàn Chim Việt.)
Sự cách biệt giầu nghèo giữa giới lãnh đạo đảng và nhà
nước Việt Nam mọi cấp với dân chúng làm người ta liên tưởng tới khoảng cách biệt
giữa cuộc sống “xa hoa” sung túc của giới đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng
Kông với các thuyền nhân cực khổ.
5-Đảng cộng sản Việt Nam áp dụng biện pháp của đầu gấu
để cai trị đất nước.
Một khi thấy dùng biện pháp pháp lý không thể thắng,
giới cầm quyền cộng sản sẽ dùng các biện pháp của đầu gấu để trấn áp các nhà bất
đồng chính kiến. Ví dụ trong tù thì cho đầu gấu đánh đập, hành hạ, hạ nhục các
nhà đấu tranh cho dân chủ đang bị giam giữ. Ngoài đời thì dùng đầu gấu bao vây,
tấn công, ném cứt đái, đồ dơ, vào tư gia các nhà bất đồng chính kiến, gây ra những
tai nạn giao thông giả để gây thương tật cho họ, gây ra những xô xát dưới dạng
cá nhân để kiếm cớ bắt nhốt họ với tội danh phi chính trị như đánh lộn. Đó là
các biện pháp đã được xử dụng với luật sư Lê Thị Công Nhân trong tù, với cụ
Hoàng Minh Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, ở ngoài đời.
Cũng có khi giới cầm quyền cộng sản Việt Nam phối hợp
cả biện pháp dùng côn đồ với pháp lý như trường hợp đối với ông bà Trần Khải
Thanh Thủy mới đây. Bản tin của BBC về “…vụ xử Trần Khải Thanh Thủy” ngày thứ bảy,
6 tháng 2, năm 2010
viết rằng, “Phiên tòa hôm thứ Sáu 5/2/2010 diễn ra từ
8 giờ sáng tới chừng 6 giờ 30 chiều…Bà Thanh Thủy bị án tù ba năm rưỡi với tội
danh “cố ý gây thương tích”. Nhiều người theo dõi nội vụ cả trong lẫn ngoài nước
đều tin rằng hai vợ chồng bà đã bị nhà chức trách Việt nam cho côn đồ kiếm cớ
hành hung có thương tích để rồi bắt ngược lại hai ông bà và khởi tố tội hành
hung người khác. Chính bởi thế quốc tế mới có quan điểm bênh vực vợ chồng bà
Thanh Thủy trong vụ án áp dụng luật rừng này. Bản tin viết tiếp, “Sứ quán Mỹ
nói Hoa Kỳ “rất lo ngại” vì việc kết án tù ba năm rưỡi với bà Trần Khải Thanh
Thủy, một nhân vật bất đồng chính kiến.” Bản tin cũng cho hay Brad Adam, giám đốc
phụ trách khu vực Châu Á của tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch viết
trong một tuyên bố: “Những kẻ tấn công bà, những người gửi đám côn đồ đó ra, và
những nhân viên cảnh sát không chịu can thiệp đều cần phải được đem ra trước
công lý.”
Ngay mới đây bản tin của cơ quan thông tấn Đức DPA
(Deutsche Presse-Agentur), ngày 10 tháng 12-2009 (Mob harasses dissident
Vietnamese monks and nuns) viết, “Các tên côn đồ sách nhiễu các tăng ni bất phục
tùng người Việt nam. Một nhóm đông côn đồ ngày thứ Năm đã bao vây một ngôi chùa
sang ngày thứ nhì nơi có 190 tăng ni tạm trú. Trước đó, ngày thứ Tư, các tên
côn đồ này đã sách nhiễu một phái đoàn của Liên Hiệp Âu Châu định thăm viếng
các tăng ni này tại chùa Phước Huệ, ở phía nam tỉnh Lâm Đồng. Các tăng ni này
là đệ tử của thiền sư Nhất Hạnh, một chi phái có trụ sở tại Pháp”. Những biện
pháp đó giống hệt các biện pháp bọn đầu gấu miền bắc đối xử với nhóm đối nghịch
hay với người miền nam ở Hồng Kông.
*
Chính sách xử dụng đầu gấu của giới lãnh đạo cộng sản
đã được họ lập lại tại hải ngoại. Các đầu gấu miền bắc tại hải ngoại đầy rẫy tiền
sử tội phạm, cho nên rất là dễ dàng để giới lãnh đạo cộng sản nắm chóp, sai khiến
thực hiện những công tác tấn công, phá hoại những hoạt động chống cộng của người
miền nam tị nạn cộng sản. Chính sách đó đã bắt đầu thực hiện thí điểm tại
Melbourne, và Sydney, Úc. Theo tin có kèm theo hình ảnh của trang mạng “Dân Chủ
– Nhân Quyền Cho Việt Nam” thì “CỜ VÀNG TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở
MELBOURNE BỊ ĐỐT RỤI”. Bản tin ngày 11-12-2009 của VKTNVN, từ Melbourne, cho biết
gần trưa ngày 10 tháng 12 – 2009 người ta thấy lá cờ trên tượng đài đã bị đốt, cán
cờ nghiêng lệch. Bản tin viết tiếp, “Chiều cùng ngày, sau khi đi làm về ông Trần
Đông, Giám đốc tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam Úc Châu đã đến tận nơi quan
sát. Cán cờ bằng sắt được bắt ốc thật chặt vào đế bằng thép không rỉ dày 5 ly,
cán cờ bị kéo lệch một bên. Điều đó cho thấy kẻ gian đã cố tình giựt mạnh cho
rách lá cờ. Vì lá cờ bằng ny-lon khá chặt, kẻ gian không kéo rách được nên đã
dùng lửa đốt cháy. Ny-long cháy đen co rúm lại và bám vào cán cờ.” Ai cũng biết
ở bất cứ xã hội nào, đầu gấu thì chẳng có ý thức chính trị gì, chúng chỉ thích
tiền. Cho nên hành động mang tính cách chính trị như vậy chắc chắn được sự chỉ
đạo, thúc dục của toà lãnh sự cộng sản địa phương. Chủ trương gây chia rẽ và hận
thù bắc nam của giới lãnh đạo cộng sản tại Úc không chỉ dừng lại ở chuyện phá
hoại và đốt cờ Vàng mà còn tiến xa hơn nữa bằng những hành động bạo lực, giết
người.
Theo bản tin “Ca sĩ từ Hoa Kỳ lưu diễn ở Sydney đã
thoát chết trong đường tơ kẽ tóc” đăng ngày mùng 7 tháng 12-2009 trên trang mạng
CaliToday, trong buổi trình diễn văn nghệ do vài nghệ sĩ từ các trung tâm Asia,
Thúy Nga, và Vân Sơn trình diễn tại Sydney, Úc Châu trong chương trình dạ vũ
“Chào Mừng Giáng Sinh 2009” tại nhà hàng Hoà Bình, khu vực Fairfield, vào khoảng
quá nửa đêm có cuộc đọ súng giữa hai nhóm thanh niên miền bắc (bắc 75) và miền
nam. Hai bên đã va chạm, chửi bới lẫn nhau, sau đó mới ra xe lấy súng và mã tấu
vào bắn và chém nhau. Kết quả một thanh niên 19 tuổi bị trúng đạn ngay ngực chết,
hai người bị thương vì bị chém bằng mã tấu”. Chính sách xử dụng đầu gấu cùng với
những biện pháp phi pháp luật, tàn bạo hiện đang được che dấu dưới những ngôn từ
hoa mỹ của nghị quyết 36 khiến rất khó bị nhà chức trách sở tại phát hiện với bằng
chứng cụ thể.
Khích động gây chia rẽ giữa di dân người Việt hai miền
nam bắc tại hải ngoại như vậy chắc chắn sẽ được cộng sản rút kinh nghiệm để
phát triển trong tương lai không xa.
*
Với sự gia tăng nhân số người miền bắc tại hải ngoại
do xuất khẩu lao động, du học sinh, nghiên cứu sinh và nhập cư bất hợp pháp qua
mạng lưới mafia buôn người, cùng với sự khác biệt về văn hóa, lối sống lại thêm
sự ép buộc, mua chuộc và khích động của giới lãnh đạo cộng sản Việt nam, người
ta khó có thể thấy có sự hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt miền bắc và miền
nam ở hải ngoại. Chỗ nào có đa số người miền bắc thì ở đó sẽ có tình trạng
mafia, gia tăng tội phạm, bạo hành, trấn lột, và đe doạ.
Chính bởi thế sự chia rẽ bắc nam bao giờ chấm dứt thì
khó tiên đoán. Nhưng một điều chắc chắn là sự hoà hợp sẽ không có được nếu hoặc
hai cộng đồng không khởi đầu một công tác chung là tiêu diệt nạn tội phạm có tổ
chức trồng cần sa và buôn người hoặc nguồn gốc của nạn tội phạm có tổ chức này
là chế độ cộng sản trong nước không bị xụp đổ.
(Con Đường Hoà
Hợp)
Theo sự ghi nhận trong những bài trước, người ta có thể
thấy tình trạng chia rẽ nam bắc tại hải ngoại không phải do tranh chấp quyền lợi
mà là do khác biệt về trình độ chính trị và văn hoá và sự khích động của giới
lãnh đạo đảng và chính quyền mọi cấp từ trong nước. Như vậy con đường đi tới
hoà hợp phải là xóa bỏ sự khác biệt đó. Muốn vậy, người ta nghĩ ngay tới sự xóa
bỏ chế độ cộng sản tại Việt Nam. Nhưng cho tới nay, xóa bỏ chế độ cộng sản tại
Việt Nam là mục tiêu dài hạn mà không ai có thể tiên đoán được khi nào thành
công. Trong khi chờ đợi một giải pháp toàn bộ như vậy, người Việt hải ngoại thuộc
hai cộng đồng bắc, nam vẫn có thể khởi đầu tiến trình hoà hợp bằng việc thực hiện
một số công việc cụ thể có lợi cho chính cộng đồng của riêng mình, đó là tiêu
diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người dưới dạng xuất khẩu lao động phát xuất
từ Việt Nam.
Cũng trong những bài trước, độc giả đã thấy tội phạm
trồng cần sa và buôn người của người Việt miền bắc đang là tại hoạ cho Âu châu,
Canada và Úc. Người Việt thì biết rằng tệ trạng này đa số do người miền bắc chủ
trì, nhưng đối với người sắc tộc khác thì họ không thể và cũng không cần biết
các thủ phạm là người Việt miền nam hay miền bắc. Dưới con mắt họ, tất cả thủ
phạm đều là “bọn” Việt Nam. Tại Âu Châu, Canada và Úc nơi tệ nạn người miền bắc
trồng cần sa tràn lan, người Việt nói chung bị các sắc tộc khác rất coi thường,
nếu không muốn dùng một từ mô tả đúng nghĩa là “khinh bỉ”. Thêm nữa tệ nạn trồng
cần sa gây thiệt hại cho chính cộng đồng bởi vì với lợi tức to lớn kiếm được một
cách dể dàng và nhanh chóng như thế, giới trẻ lớn lên sẽ bị ảnh hưởng xấu, không
thích đi vào con đường học hành bởi vì học cho mấy cũng không thể kiếm được lợi
tức như trồng cần sa. Tệ nạn này cũng gây thiệt hại cho hàng ngàn gia đình
nghèo khổ ở quê nhà đang bị bọn mafia mà khởi đầu là chính quyền địa phương lừa
bịp đưa sang Anh Quốc lao động khổ sai sống đời bất hợp pháp không biết ngày
nào mới được giải thoát. Bởi vậy việc tiêu trừ nạn trồng cần sa và buôn người
mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai cộng đồng. Chính điểm hội tụ lợi ích này
có thể giúp hai cộng đồng cùng sinh tồn song hành và dần dần đi tới hoà hợp.
Hiện nay, chỉ tại những quốc gia nhỏ bé, ít dân số tại
bắc Âu, người Việt hai miền mới có giao thiệp với nhau, nhưng chỉ ở mức độ cá
nhân với cá nhân chứ không ở trong một tổ chức chung. Tại những quốc gia đông
dân như Anh, Pháp, Đức, Canada, Úc và Hoa Kỳ, hai cộng đồng người Việt bắc, nam
hoàn toàn sống tách biệt nhau (chưa công khai đâm chém nhau là may rồi.) Việc
cùng nhau hợp tác trong công tác tận diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người
cũng rất khó. Chỉ có một cách là mỗi cộng đồng thực hiện công tác đó theo
phương cách riêng. Và rồi hy vọng theo thời gian hai cộng đồng dần dần tiến tới
gần gũi nhau cùng với quá trình tiêu vong của đảng cộng sản cầm quyền trong nước.
Dứt khoát không thể có hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt bắc, nam nếu cộng
đồng miền bắc tiếp tục dung dưỡng, phát huy tội phạm trồng cần sa và buôn người
từ Việt nam sang bất hợp pháp.
Để thực hiện công tác tiêu diệt bọn tội phạm trồng cần
sa và buôn người, việc đầu tiên là phải phổ biến mạnh mẽ chủ trương đó. Mỗi ban
đại diện cộng đồng cần phải ghi vào chương trình hành động chủ trương chống tệ
nạn trồng cần sa và buôn người. Việc phổ biến chủ trương này hết sức quan trọng
cho việc thành công của công tác bởi vì đó là một tuyên chiến, một bày tỏ ý chí
quyết liệt của cộng đồng chống lại bọn mafia, đầu gấu. Một khi cộng đồng bày tỏ
sự quyết liệt thì đầu gấu phải e-dè. Cũng tương tự trong chiến lược chống cộng
mà ông Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Hoa Kỳ Jimmy
Carter (1977-1981) chủ trương: Phải đánh gục ý chí và khả năng chống đối của đối
phương (cộng sản). (1)
Việc phổ biến chủ trương tiêu diệt bọn tội phạm trồng
cần sa và buôn người sẽ đưa tới 3 hậu quả hữu ích: 1-Cơ quan công lực địa
phương có thêm một chỗ dựa vững chắc vào quần chúng trong khu vực. Đây là điều
cơ quan công lực nào cũng mong muốn và là điều cơ bản mang lại an ninh, trật tự.
Tại Hoa Kỳ, ở những khu vực an toàn, thường thấy có sự hiện diện của những tổ
chức “an ninh khu xóm” (neighborhood watch) do cảnh sát giúp xây dựng. Những tổ
chức này là tai mắt cho cảnh sát và cảnh sát quyết tâm bảo vệ những tổ chức
này. Tại những khu vực tội phạm gia tăng, cảnh sát cũng vận động dân chúng xây
dựng và tham gia các tổ chức này để làm nền tảng cho công tác tiễu trừ tội phạm.
2-Các thành viên tốt trong cộng đồng sẽ không cảm thấy đơn độc và sẵn sàng tham
gia vào việc tiêu trừ tội phạm. 3-Các tên tội phạm trồng cần sa hay buôn người
sẽ bị đẩy vào một trong ba tình huống thụ động: hoặc thu nhỏ hoạt động, hoặc di
chuyển hoạt động ra khỏi khu vực, hoặc tập trung lực lượng đương đầu với chiến
dịch chống tội phạm của nhân viên công lực. Cả ba tình huống đều đẩy bọn chúng
vào con đường tiêu vong.
Việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và
buôn người cũng là thước đo khả năng phục vụ cộng đồng của thành phần đại diện,
mà cũng là thước đo tầm mức mafia, đầu gấu không chế cộng đồng. Một ban đại diện
không dám phổ biến chủ trương này chứng tỏ cộng đồng đang bị bị đám trùm mafia,
đầu gấu không chế như trong tình trạng các trại tị nạn của người miền bắc ở Hồng
Kông. Nếu tình trạng xấu này xảy ra thì cần có một vài cá nhân có tâm huyết bí
mật thu thập tin tức cung cấp cho nhân viên công lực giúp nhân viên công lực tấn
công vào thành trì của tội phạm.
Song song với việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng
cần sa và buôn người, ban đại diện cần có bộ phận liên lạc với chính quyền, cơ
quan công lực, để đề nghị hợp tác và đề nghị những kế hoạch thiết thực. Chỉ có
cơ quan công lực mới có tư cách pháp lý và phương tiện tiêu diệt tội phạm.
Nhưng công việc đó chỉ thành công nếu có đủ tin tức tình báo. Lãnh vực này cần
sự cộng tác của
cộng đồng dân chúng liên hệ. Thiếu tin tức tình báo,
thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, nỗ lực chống tội phạm sẽ không thể thành công,
cho dù đó chỉ là một việc đơn giản nhất, là xác định danh tánh một nạn nhân bị
mafia sát hại, như trong những bài trước đã cho thấy.
Tuy nhiên ban đại diện cộng đồng không nên và không thể
đi vào công việc cụ thể như đặt đường giây nóng thu thập các báo cáo của thành
viên cộng đồng hay cung cấp thông dịch viên như ban đại diện cộng đồng tại
Balan đang thực hiện. (2) Lý do là không có gì chứng tỏ người được ban đại diện
cộng đồng giao phó nhiệm vụ là người tốt hay không bị mafia đe dọa không chế.
Nhất là tình trạng hiện nay băng đảng gốc Việt đang chế ngự hoàn toàn kỹ nghệ
trồng cần sa trên khắp Âu châu, Canada và Úc. Đây cũng là nhận định của chị Mạc
Việt Hồng, trong bài “Nhức nhối vấn nạn trồng cần sa ở Ba Lan” đăng trên Đàn
Chim Việt ngày 22/02/10. Mạc Việt Hồng viết, “Ngay sau khi những vụ trồng cần
sa đầu tiên bị đưa ra ánh sáng, hội Đoàn Kết Hữu Nghị và Đại Sứ Quán Việt Nam ở
Ba lan đã họp bàn biện pháp đối phó với tệ nạn này. Số điện thoại của ông hội
trưởng và ông Lãnh sự được thông báo tới cộng đồng để thu thập các tin báo liên
quan tới vấn đề trồng cần sa. Điều đó cũng tốt, nhưng có lẽ nó không phải là một
biện pháp hiệu quả. Ai có thể đảm bảo an toàn cho những người báo tin, chắc chắn
không phải là ông chủ tịch hội hay ngài Lãnh sự.” Nhận định của chị Mạc Việt Hồng
đúng với thực tế các viên chức nhà nước Việt nam: chính họ là thành phần mafia.
Bởi thế ban đại diện cộng đồng chỉ nên đóng vai trò tư
vấn cho chính quyền với những phân tích, nhận định về hiện tượng và chiến thuật
đối phó. Ví dụ hiện tượng các chủ của những căn nhà có trồng cần sa là thủ phạm
chính nhưng chúng tránh né được luật pháp nhân đạo của các nước văn minh bằng
cách viết những khế ước cho thuê nhà giả mạo với tên và lý lịch người thuê
không thực để tới khi bị phát hiện thì nhà chức trách không bắt được người thuê
(có người thuê thực sự đâu mà bắt!) mà chỉ bắt được người làm công là những di
dân bất hợp pháp, nạn nhân của bọn buôn người. Trong bài “Wales Cảnh Báo Chủ
Nhà Về Tội Phạm Cần Sa” của ban Việt Ngữ đài BBC ngày 19/8/2009 tác giả viết
nguyên văn, “Một trong những người cho thuê nhà bị dùng trồng cần sa nói nhà
ông bị hư hại và phải sửa chữa mất 3.000 bảng Anh.” Bài báo viết tiếp, “Một chủ
nhà muốn ẩn danh nói: “Tôi tưởng tôi cho bốn sinh viên thuê nhà và họ đã trả tiền
thuê trước ba tháng. Chỉ khi cảnh sát thông báo thì tôi mới biết chuyện.” Thực sự
ra người Việt Nam nào đọc tới đây cũng đều nghĩ ngay hầu như chắc chắn hai người
chủ nhà này chính là thủ phạm đầu não lọt lưới pháp luật. Như vậy ban đại diện
cộng đồng địa phương cần phải giải thích rõ sự lọt lưới này để nhà chức trách
tìm cách đối phó hữu hiệu hơn.
Một điều quan trọng thứ nhì là người phiên dịch không
được cho gặp người cung cấp tin tức. Làm sao tin được rằng người phiên dịch
không đang bị mafia áp chế hay chính người phiên dịch không là mafia? Có nhiều
cách để người phiên dịch không trông thấy người cung cấp tin tức mà vẫn phiên dịch
được. Cho tới nay thì ít ra hai yếu tố quan trọng này trong chiến dịch chống tội
phạm trồng cần sa và buôn người trong cộng đồng Việt chưa được ban đại diện giải
thích cho nhà chức trách. Bởi thế trong vụ mới nhất tại London, Anh Quốc, bọn
chủ nhà đã không bị bắt mà còn được công ty bảo hiểm nhà đất bồi thường tiền sửa
chữa những căn nhà do chính chúng thiết kế bên trong để trồng cần sa. Bản tin
“Wales cảnh báo chủ nhà về tội phạm cần sa” ở trên viết rằng, “Cảnh sát khuyến
cáo người có nhà cho thuê đề phòng cảnh giác nhà của họ bị dùng để sản xuất ma
túy.” Bản tin viết tiếp, “…Người phát ngôn cảnh sát nói thêm: “Giới kinh doanh
bất động sản, chủ nhà phải đề phỏng rủi ro thiệt hại lớn về tài sản từ hoạt động
sản xuất này.” Nội dung tin như thế chứng tỏ cảnh sát xứ Wales không được cộng
đồng người Việt tại đây hỗ trợ, cung cấp thông tin cho biết rằng chính chủ nhà
là kẻ chủ mưu trong tất cả mọi cơ sở trồng cần sa.
Chủ trương thì phải công khai nhưng kế hoạch thì cần
bí mật. Chống tội phạm nhất là loại tội phạm có tổ chức (organized crime) cần
phải hết sức bí mật như là chống mạng lưới khủng bố. Lực lượng tấn công bọn tội
phạm phải là nhân viên công lực chứ không phải là quần chúng. Nhưng như trong mọi
cuộc tấn công quân sự, tin tức tình báo là quan trọng hàng đầu. Trong binh pháp
gọi đó là tình báo chiến. Tin tức tình báo chính xác quyết định sự thành công của
chiến dịch. Chính trong lãnh vực này, các thành viên cộng đồng có thể đóng góp
một cách hữu hiệu. Để có những tin tức tình báo tốt, nguồn tin tình báo cần được
bảo vệ hoàn toàn bí mật. Bởi thế người cung cấp thông tin cần được hướng dẫn
liên lạc trực tiếp với cảnh sát chứ không với một ai khác, cho dù đó là ông hội
trưởng cộng đồng hay ông tổng lãnh sự. Tác giả Mạc Việt Hồng đã tỏ ra am tường
tình trạng tội phạm trồng cần sa của người Việt tại Ba Lan khi bà viết, “Thiết
nghĩ, việc hướng dẫn cộng đồng báo tin trực tiếp cho cơ quan cảnh sát có lẽ sẽ
là giải pháp hiệu quả và an toàn hơn?”
Các thành viên tốt trong cộng đồng cần nhận thức rằng
việc tham gia vào công tác tiêu trừ tội phạm trồng cần sa và buôn người là một
công tác quan trọng mang lại an ninh cho chính gia đình mình. Như tôi đã trình
bày, trong suốt 3 năm 8 tháng, tôi tích cực tham gia mọi sinh hoạt cộng đồng tại
trại cấm Hồng Kông và Bataan ở Philippines là vì tôi ý thức được rằng, nếu mình
không đóng góp vào việc duy trì an ninh trong trại thì không sớm thì muộn an
ninh bản thân và gia đình sẽ bị đe dọa. Sự tích cực của cá nhân tôi và những
người suy nghĩ, hành động như tôi đã chứng tỏ là một suy nghĩ và hành động đúng
khi trong suốt gần bốn năm, tại những trại tị nạn tôi trải qua, không có một
xung đột nào giữa hai cộng đồng thuyền nhân bắc, nam. Trong khi ở những trại
khác thì bạo động gây thương vong tràn lan.
Tùy hoàn cảnh, mà hình thức và mức độ đóng góp của mỗi
thành viên có thể khác nhau. Bản chất tin tức tình báo của quần chúng khác bản
chất một tin tức tình báo chuyên nghiệp. Tin tức tình báo của quần chúng không
phải luôn luôn cần đầy đủ. Mọi mảnh tin tức đều hữu ích cho nhân viên công lực.
Có nghĩa là mọi cố gắng lớn nhỏ của tất cả mọi thành viên cộng đồng đều đóng
góp vào việc xây dựng an ninh chung. Nỗ lực thu thập tin tức tình báo về bọn trồng
cần sa và buôn người không cần sự kết hợp của nhiều người. Sự kết hợp của trên
hai người nhiều khi mang lại sự nguy hiểm cho bản thân. Chỉ cần những cố gắng
đơn độc, âm thầm cũng giúp tiêu diệt tận gốc rễ tội phạm. Nếu trong một cộng đồng
có được hai hay ba cá nhân bí mật thu thập tin tức tội phạm một cách riêng biệt
cũng đủ xóa sạch bọn tội phạm trong thời gian ngắn. Thậm chí chỉ cần có một người
thực hiện cố gắng này cũng giúp truy quét bọn tội phạm. Câu chuyện một cá nhân
thu thập tin tức giúp nhân viên công lực chống tệ nạn buôn người tại Kampuchia
dưới đây là một ví dụ. Trong bản tin “Người đàn ông bí mật chống tệ nạn nô lệ
tình dục trẻ em” (Man goes undercover to combat child sex slavery) của CNN ngày
9/2/2010, tác giả Leif Coorlim viết, “Phnom Penh, Cambodia (CNN) — Aaron Cohen
hoạt động bí mật thu thập tin tức cần thiết cho nhân viên công lực thực hiện
các cuộc đột kích và bắt giữ…Tôi hoạt động như là kẻ tội phạm tình dục bí mật…Tôi
giả dạng làm một du khách tình dục, đi từ quán karaoke này tới quán karaoke
khác, từ nhà đấm bóp này tới nhà đấm bóp khác, tìm các thiếu nữ phục vụ vị
thành niên, để xem liệu có thể thu hình lúc họ gạ gẫm tôi chơi bời hay không.”
Bài báo viết tiếp, “Cohen cho biết ông ta mời nhiều người bạn làm việc tại gần
nơi ở của các nạn nhân tới tham gia. Họ cũng giả dạng là những người đi mua
vui, cho tới khi Cohen cảm thấy thoải mái hỏi người quản lý quán bar một câu
quan trọng. “Sau khi các cô gái này bắt đầu ca múa, tôi hỏi người chăn dắt gái
là ngoài karaoke tôi có thể có thêm gì vui không thì bà ta trả lời ngay, “Ồ!
chơi bời thì $50 đô Mỹ.” Cohen đã dùng đoạn phim thu hình cảnh gạ gẫm tối hôm
đó, thu bằng máy điện thoại di động, để cung cấp cho cảnh sát những tin tức
giúp họ thực hiện cuộc bố ráp nhà chứa gái giả nhà hát Karaoke đó. Ngay đêm đó
hơn một chục cô gái được giải thoát…”
Công việc tiêu diệt tệ nạn trồng cần sa và buôn người
của bọn mafia, đầu gấu cũng cần được cộng đồng thực hiện như trong đoạn báo vừa
nêu. Đó là hoạt động vừa mang lại lợi ích cho chính gia đình mình, cho cộng đồng
mình, và cho người Việt hải ngoại nói chung. Đó chính là con đường dần dần đi tới
hòa hợp nam bắc tại hải ngoại.
Nguyễn Tường Tâm
Đàn Chim Việt Online 2010
__________________________
Ghi chú: danh từ “Người miền bắc” trong loạt bài này
chỉ những người bắc còn ở lại Hà nội sau năm 1954 và những người vào miền nam
sau ngày 30-4-1975, kể cả con cháu họ, cho dù sinh trưởng tại miền nam sau đó.
(1): tác giả đọc
được chiến lược này của ông Brzezinski trong một bài báo của cộng sản chỉ trích
ông ta khi tác giả còn ở trong tù cải tạo vào đầu thập niên 1980.
(2) “Nhức nhối vấn nạn trồng cần sa ở Ba Lan” đăng
trên Đàn Chim Việt ngày 22/02/10, của chị Mạc Việt Hồng.
Comments
Post a Comment