Nói đến quân đội thì hầu như ai cũng nghĩ tới những đoàn quân được đưa ra ngoài chiến tuyến để đánh giặc. Nhưng ít ai biết rằng có rất nhiều những phát minh từ trong quân đội mà về sau đã được đem áp dụng rộng rãi trong đời sống dân sự. Có những phát minh của quân đội đã có từ nhiều hàng ngàn năm trước, như hệ thống đường xá sá của đế quốc La Mã, được xây dựng cho quân đội di chuyển và sau đó được dùng để thiết lập hệ thống đưa thư đầu tiên trên thế giới. Nếu không có hệ thống đường xá sá này thì đạo Ki Tô giáo chắc chắn đã không được quảng bá và phát triển rộng rãi khắp nơi như ta thấy ngày nay. Và gần đây hơn, với những tiến bộ về kỹ thuật, phát minh của quân đội đã mang đến cho chúng ta mạng internet và hệ thống định vị toàn cầu (GPS).
Xưa kia, khi những tiện nghi kỹ thuật chưa có, thì đã có những đoàn quân bách chiến bách thắng đi chinh phục đất đai từ Âu sang Á, hay từ Á sang Âu. Một trong những thử thách lớn nhất là làm thế nào để nuôi và tiếp tế lương thực cho cả một đoàn quân hàng trăm ngàn binh lính như thế bắt buộc người ta phải tìm giải pháp để khắc phục khó khăn này. Một trong những phát minh của quân đội Mông Cổ là loại thịt xấy sấy khô có thể bảo quản được lâu để làm lương thực trên con đường viễn chinh của họ, mà đến nay vẫn còn được sử dụng trong một số món ăn của quân đội Mỹ.
Ngay từ thời văn minh cổ Ai Cập, người ta cũng đã biết chế biến thực phẩm cho quân đội: đó là một loại bánh làm bằng những vật liệu gồm lúa mạch, hành và một vài loại cá khô ướp muối. Trong mấy ngàn năm sau đó, thực phẩm cho binh lính ngoài trận địa không có gì khác ngoài những món đồ khô, như món thịt xấy sấy khô nói ở trên, là vì cách thức bảo quản thực phẩm hầu như không thay đổi. Tham vọng cai trị toàn Âu châu của Napoleon đã giúp đưa đến một cuộc thay đổi lớn trong cách thức chế biến thức ăn cho binh lính lần đầu tiên trong mấy ngàn năm: kỹ thuật đóng hộp. Tuy nhiên, mặc dù kỹ thuật này được phát minh từ đầu thế kỷ 19, cho đến nửa thế kỷ sau đồ hộp cũng chỉ được sản xuất rất chậm là vì nó quá mắc. Trong thời nội chiến Hoa Kỳ, chỉ có cấp sĩ quan mới được ăn đồ hộp.
Một danh tướng nào đó trước đây đã từng nói rằng quân đội hành quân không chỉ bằng đôi chân mà còn bằng cái bao tử của họ. Câu nói này hoàn toàn đúng chứ không hẳn là câu nói đùa. Một đoàn quân bị bỏ đói thì không thể chiến đấu được chứ đừng nói là chiến thắng.
Các vị chỉ huy của quân đội Hoa Kỳ hiểu được điều hệ trọng đó và đã đi tiên phong trong việc nghiên cứu cách chế biến thực phẩm từ hơn một thế kỷ trước, để từng bước xây dựng được một đội quân hùng mạnh và chiến đấu có hiệu quả nhất thế giới.
Đứng trước một thử thách to lớn là làm thế nào có thể nuôi ăn được một đội quân với hàng triệu binh lính được rải đi khắp thế giới, quân đội Hoa Kỳ đã chịu đầu tư rất nhiều tiền bạc và công sức vào trong lãnh vực nghiên cứu và phát triển những loại thực phẩm mới vừa nhẹ lại vừa lâu hư, hoặc là ngay trong chính phòng thí nghiệm của quân đội tại Natick, Massachusetts, hoặc qua sự hợp tác với các trường đại học. Sau đó quân đội đem chia sẻ những phát kiến đó với những công ty chế biến thực phẩm Mỹ, và những công ty này chỉ chờ có được cơ hội đó vì vừa được ký những hợp đồng béo bở của chính phủ mà lại không phải bỏ vốn để nghiên cứu – nhờ vậy nên nhiều loại thực phẩm mới được phát minh bởi quân đội sau này trở thành những thức ăn phổ biến cho dân chúng được bày bán đầy các chợ, hoặc thậm chí trong nhà hàng. Những phát minh trong thời chiến như cách vận chuyển huyết tương ra ngoài tiền tuyến đã mở đường cho việc chế biến ra loại bột cà phê pha sẵn, món ăn McRib nổi tiếng của nhà hàng McDonald là lấy ý từ một nghiên cứu của quân đội về cách trộn thịt, và món chip Cheetos có nguồn gốc từ loại bột phô mai sấy khô được phát minh năm 1943 bởi một nhóm khoa học gia làm việc cho chính phủ.
Tuy nhiên, không phải phát minh nào của quân đội cũng đi thẳng tới các kệ hàng ở các siêu thị mà thường là phải mất một thời gian để cải thiện và hoàn chỉnh sao cho món ăn đó hợp với khẩu vị của đa số quần chúng. Lấy ví dụ về thanh kẹo PowerBar, có nguồn gốc từ thời Đệ nhị Thế chiến với thanh kẹo có tên là Logan, đây là thanh kẹo sô cô la để lính ăn vội thay cho bữa cơm trong những lúc khẩn cấp. Thanh kẹo này được chế biến để sô cô la không bị dễ chảy nhưng ăn không ngon, do đó phần nhiều binh lính chẳng thèm động đến nếu như họ chưa thấy đói hay chưa thật sự cần đến nó.
Sau thế chiến, Bộ Quốc phòng đã mướn công ty Pillsbury nghiên cứu thêm để chế ra một thanh kẹo mới với niềm hy vọng là những công ty trong ngành chế biến thực phẩm sẽ học được kỹ thuật làm thanh kẹo và sau đó đầu tư thêm vốn của họ để cải thiện công thức vật liệu và kỹ thuật sản xuất. Thanh kẹo có tên Space Food Sticks được trình làng năm 1970, và trong vòng một thập niên, những người theo chế độ ăn kiêng và những người ưa thích sinh hoạt ngoài trời là những nhóm người đầu tiên ăn thử những loại thanh kẹo mới như kẹo năng lượng (energy bar), kẹo thế bữa (meal replacement bar) và kẹo dẻo yến mạch (chewy granola bar). Ngày nay, những loại thanh kẹo này chiếm đầy một kệ hàng dài trong hầu hết các tiệm thực phẩm, góp thêm phần phong phú cho các món ăn vặt ưa thích của nhiều người Mỹ. Hiện quân đội Hoa Kỳ đang xem xét và có thể thay thế những món ăn sáng, trưa và tối đã lỗi thời bằng những món ăn vừa cầm vừa nhai như những loại thanh kẹo trên, đầy đủ chất bổ dưỡng mà lại tiện lợi.
Phòng thí nghiệm Natick trong thập niên 1960 còn chế tạo ra một sản phẩm quan trọng là những túi đựng thức ăn gọn nhẹ để thay thế cho loại đồ hộp. Và mặc dù đồ hộp vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhiều quân đội trên khắp thế giới, đồ hộp có những bất lợi của riêng nó: nặng, tốn kém, và đôi khi lại là vật nguy hiểm có thể gây thương tích. Thế nên trong khoảng thời gian một thập niên, phòng thí nghiệm Natick đã nghiên cứu và làm ra được chiếc túi mỏng mà lại có thể nấu được thức ăn đựng trong đó. Nay loại túi này còn dùng để đựng thức uống, trái cây, và thậm chí thức ăn của trẻ sơ sinh nay cũng được đựng trong loại túi này.
Nhưng có lẽ phát minh gây nhiều ảnh hưởng nhất trong sinh hoạt ăn uống của người Mỹ là những hộp thức ăn được chuẩn bị sẵn mà người Mỹ thường gọi là “TV dinner”. Loại thức ăn trong hộp này chính là hậu bối của những món ăn được làm đông lạnh cho lính ăn trên những chuyến bay xa, đặc biệt là những chuyến bay ra ngoại quốc trong thời có chiến tranh. Trước công ty Swanson, có một công ty tên là Maxson Food Systems, nơi đã chế ra được những khay thức ăn đông lạnh gồm có thịt, rau và khoai tây nghiền. Chỉ có điều bất tiện là khi muốn ăn người ta phải mang đi hâm nóng trong những lò nướng thông thường, vừa mất công lại mất thì giờ vì phải đợi lâu, vì lúc đó chưa có lò nướng vi ba (microwave) – cũng là một phát minh của quân đội sau này. Kể từ khi có lò nướng vi ba thì loại “TV dinner” lại càng phổ biến hơn trong dân chúng Mỹ. Tại các công sở, vào giờ ăn trưa, người ta đứng xếp hàng để đợi tới phiên hâm nóng những khay thức ăn “TV dinner” và chỉ mất độ hai hay ba phút là có ngay một bữa ăn nóng hổi. Ngon thì không dám chắc, nhưng thật tiện lợi và rẻ.
Có người đặt câu hỏi là nếu như không có phòng thí nghiệm Natick thì thức ăn của người Mỹ ngày nay sẽ như thế nào? Câu trả lời là sẽ rất khác. Mà quả thật không ai có thể ngờ rằng từ những nhu cầu nuôi ăn cho binh sĩ mà lại hoá ra đóng một vai trò quá to lớn trong việc định hình ngành kỹ nghệ chế biến thực phẩm ở Mỹ, với kết quả là càng ngày càng có nhiều loại thực phẩm được chuẩn bị sẵn nhắm vào ưu tiên là sự tiện lợi, ăn ở đâu cũng được, mà lại lâu hư và được số đông dân chúng ưa chuộng, hơn là những loại thực phẩm tươi với ưu tiên lành mạnh, ngon miệng hay môi trường bền vững. Nhiều nhà tranh đấu cho môi trường thời nay đổ lỗi trách nhiệm về việc làm thay đổi hệ thống thực phẩm ở Mỹ lên đầu người tiêu thụ – nhưng nói cho cùng, mỗi người trong chúng ta có sự lựa chọn là có mua những thanh kẹo yến mạch và những túi nước trái cây đó hay không. Tuy nhiên, một điều hiển nhiên mà nay trong chúng ta ai cũng biết rằng chính quân đội Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn nhất trong việc nghiêu cứu chế biến thực phẩm, và điều không thể chối cãi là công việc đó đã làm thay đổi cách ăn uống của người Mỹ.
Huy Lâm
Comments
Post a Comment