TRIỆT THOÁI CAO
NGUYÊN 1975, CUỘC HÀNH QUÂN PHÁ SẢN
Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất
thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc
cho Việt Nam Cộng Hoà do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội, Đại sữ Mỹ Martin
cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không
được chuẩn chi, như thế Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đủ đạn dược để đánh
trận trong vòng 3, hoặc 4 tháng. Tại Pleiku liên đoàn 4 Biệt động quân chưa thể
giải tỏa được quốc lộ 19, sư đoàn 22 tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với sư
đoàn 3 Sao vàng của Việt Cộng, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị
phá hủy. Sư đoàn 10 sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây
quân ta chỉ còn 700 người và 4 khẩu 105 ly. Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng
Tướng lãnh gồm các Tướng Trần thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang để
trình bầy kế hoạch mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với tình hình vũ khí
đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ
Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và
Đà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về
giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lãnh đồng ý, không ai phản đối. Đã choáng
váng vì bị mất Ban Mê Thuột, nay lại tá hoả tam tinh vì Đồng minh phản bội trắng
trợn, Tướng Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo bạo liều lĩnh vô cùng tai
hại trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong phiên này có Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ
tá an ninh và Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2. Sau phiên họp Tướng
Phú kể lại cho Phạm Huấn, người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong Cuộc
Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975.bmt Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện
khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực
khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, ta thiếu
thốn đạn dược, tiếp liệu, lực lượng địch năm nay quá mạnh… Ông cho biết Tướng Phú
phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của quân đoàn về phòng thủ duyên
hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum.. Nghe thế tướng Phú bèn xin cho toàn bộ
quân đoàn ở lại chiến đấu vì ông đã thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn
ra do kế hoạch “tái phối trí” của Thiệu. “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử
thủ” Pleiku, giữ cao nguyên. Tướng Thiệu cười nhạt: – Tử thủ? Với quân số, đạn
dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản? – Thưa Tổng
thống từ 40 đến 60 ngày! – Rồi sao nữa? Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng
Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp: – Tôi sẽ chiến
đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa!89-image_large
. . . … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn: – Thưa Tổng thống, thưa
quí vị tướng lãnh, Nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác
của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến
sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong
năm tới!” (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85) Thiệu bác bỏ ý kiến Phú,
ông nói đây là kế hoạch chung của Hội đồng tướng lãnh mà ông đã bàn thảo. -Tôi
ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay …về phòng thủ Duyên
hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. . . . . – Lệnh này, từ cấp tỉnh
trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết. – Thưa Tổng thống… – Có
nghĩa là các lực lượng Địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành
chánh 3 tỉnh.Pleiku, Kontum , Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng,
quận trưởng như thường lệ. . . . – Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến
xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã thảo luận với
các tướng lãnh. Đây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lãnh, như
quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I. Phòng họp im phăng phắc,
không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần
như lạc đề: – Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi
làm sao Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh
Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ? – Thì cho thằng Cộng Sản số dân đó!
Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư
đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên Vùng Cao nguyên…”
(CTTCN1975, trang 85, 86) Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt
thoái được ban hành, các tướng lãnh không ai phản đối. Kế đó họ bàn việc lựa chọn
đường rút quân, tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì
đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 sư đoàn
chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về
Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku- Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị
cắt ở hai phía Đông , Tây, Việt Cộng đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng
bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7B không còn
đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận.
Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột,
Thiệu dặn Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ
lực của quân đoàn rút, Địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế
hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau, một kế hoạch bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ
Tư lệnh quân đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao
nguyên tuy nhiên không có giấy tờ lệnh hành quân cấp quân đoàn, cuộc hành quân
tổ chức vội vã không được chặt chẽ. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ
đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 Biệt động quân và Công binh để sửa
chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7B. Dưới thời ông Diệm Cheo
Reo được tách ra khỏi Pleiku thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số 95 ngàn người, 70%
là đồng bào Thượng. Tỉnh Lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường
trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh
lộ 7B trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông.
Ngày 16-3 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ tư lệnh đi trực thăng về
Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Đoàn di tản gồm
có 4 đoàn , mỗi đoàn 250 xe, theo Tướng Hoàng Lạc (Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới)
tổng cộng có 1200 xe cộ, theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi
ngày một đoàn xe. Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ,
ngày thứ hai 17-3 dân chúng chạy ùa theo khiến cuộc di tản trở nên hỗn loạn phức
tạp. Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh tại Phú Bổn và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn.
Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú
bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn. Ngày 18-3
Liên đoàn 7 Biệt động quân đang cùng thiết giáp đánh chốt Việt Cộng xui xẻo bị
không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho phía ta. Hỗn loạn xẩy ra, bọn
lưu manh côn đồ đốt chợ, Việt Cộng pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn
di tản, tối đếnViệt Cộng pháo kích thị xã khiến người chết như rạ, các chiến xa
M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn.
Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại
hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. Ngày 16-3
-1975 Sư đoàn 320 Việt Cộng được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá đoàn
xe triệt thoái, đến 18-3 lực lượng lớn của Việt Cộng tiến vào Phú Bổn, đánh phá
dữ dội đám quân triệt thoái đang ùn tại đây rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn.
Chúng gây kinh hoàng cho đoàn quân triệt thoái, các liên đoàn Biệt động quân,
thiết giáp, bộ binh của ta bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe
tăng lấy được của ta để truy kích đánh phá đoàn quân triệt thoái, một lỗi lầm
tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới. Nhận được báo cáo tình hình nguy
khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo
dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng Sản đã tràn vào Phú Túc,
Liên đoàn 7 Biệt động quân chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc lính
tranh nhau vượt lên trước, người ta bắn nhau để tranh lên trước, súng nổ khắp
nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng do các binh sĩ rã ngũ, đào
binh tòng phạm cướp của giết người. Binh lính chửi rủa Thiệu suốt dọc đường vì
cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành
lang máu. Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến
được sông Ba thì thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường,
dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa
cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. Cộng quân từ Thuần Mẫn đổ xuống tổ chức
các chốt chặn đường, một tiểu đoàn Địa phương quân và một tiểu đoàn Biệt động
quân được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai tiểu đoàn Biệt Động quân ở đoạn hậu đánh
tan trung đoàn Bắc Việt, địch bị thiệt hại nặng phải rút lui. Việt Cộng đưa
thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh
lộ 287 đổ xuống đường liên tỉnh lộ 7B. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Phú ra lệnh
tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người còn lại chạy
về hướng đông . Phía tây xe tăng Việt Cộng đang tiến tới, hướng bắc là Pleiku,
hướng nam Việt Cộng đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy
Hoà. Ngày 26-3 tiểu đoàn 34 Biệt động quân thanh toán các chốt sau cùng tại xã
Mỹ Thạnh Tòng, những gì còn lại đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ
có 300 mở đường máu tới được Tuy Hoà. Lui binh trên tỉnh lộ 7B được coi như một
cuộc thảm bại lớn nhất trong chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến
nay.dlkh3 Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300
km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất
của cuộc lui binh thật khủng khiếp, khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà
chỉ còn khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 liên đoàn Biệt động quân khoảng
7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ
còn lại 13 cái M-113. Ông Cao Viên cho biết “Ít nhất 75% khả năng tác chiến của
quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân,
thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có
mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn
giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã
chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng
với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới.
Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn
chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh
Dương.” (Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 738) Bắc Việt
cho biết đã tiêu diệt trên 14 ngàn chủ lưc quân nguỵ, chiếm được 5,760 khẩu
súng các loại trong đó có 22 đại bác 155 ly, 9 khẩu 175 ly, 48 khẩu 105 ly, chiếm
và phá hủy 2000 xe cộ các loại … Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The
Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy
loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn
dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku
bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay Cộng
quân. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát khủng khiếp hơn thế. Theo tướng
Hoàng Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu
cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến
ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt
chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống
thấp. Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng
200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành, như vậy hằng 100 ngàn quân dân hoặc
bị bắt, bị giết. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương
trên đường chạy loạn chỉ có nước nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, ai
cũng chỉ lo chạy tháo thân, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới hằng vạn
hoặc nhiều hơn nữa. Tổng tham mưu trưởng nói: “Thất bại tự tạo của quân đoàn II
là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân
chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất
vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người” Nguyễn Đức Phương (CTVNTT, trang
738, 739). Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ
sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Trong
khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu,
quân đội cũng mất tin tưởng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui
binh trên tỉnh lộ 7B đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc
di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt
thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh
tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100
súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên,
trận đánh đã rung động cả nước Pháp. Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ
Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng,
vùng trách niệm của sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía tây và nam
Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần
trước những đợt pháo của Bắc Việt. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong
khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông
Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh vùng 1. Được Tư lệnh chấp thuận,
ông cho lui binh tức thì ngày 1-5-1972 sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như
Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 trung đoàn ồ ạt
chạy về Nam qua Quốc lộ I. Việt Cộng chớp thời cơ pháo theo chết như rạ trên đại
lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng vạn người bỏ xác tại đây,
Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất
100 xe tăng, 140 đại bác … nhatrang1975Đại
tá Phạm bá Hoa nói. “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường
Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút
lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác,
vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng
là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở
thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là
phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu
tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài
ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa. Với cuộc hành quân
giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác
trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập
kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế
hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường
nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ
tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống,
chết vì cướp giật…” (Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7) Theo Đại tá Phạm bá Hoa, một
điều trớ trêu là ta tưởng Việt cộng bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta
rút đi ngày 16-3, 4 ngày sau, 20-3 chúng mới tiến vào tỉnh lỵ như thế chứng tỏ
tình báo của ta quá yếu kém. Việt Cộng còn ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng ta
đã quá sợ hãi tưởng chúng bao vây tấn công tới nơi. Sự thực các sư đoàn Việt cộng
còn ở xa về phía nam và đông nam Pleiku, chúng lại ở gần đoàn quân triệt thoái
nên ta đã bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa
từng thấy trong 20 năm chiến tranh. Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân
khu 2 và 1 của Nguyễn văn Thiệu là do một mình ông ấy nghĩ ra, không hỏi ý kiến
ai cả. Kế hoạch được gọi một cách bóng bẩy văn hoa “Tái phối trí lực lượng”
nhưng thực ra chỉ là sự tháo chạy một cách hỗn độn vô tổ chức, không nghiên cứ
lộ trình, vô kỷ luật… đánh lừa lẫn nhau. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế
hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước.
Chúng ta thấy dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng không thể chấp nhận được
vì nó là một kế hoạch bất nhân, tàn nhẫn. Như chúng ta đã thấy Tướng Thiệu lệnh
cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để
lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đã gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân
chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch thật là bất nhân khi
rút đi bỏ rơi đồng bào ruột thịt của mình vào tay Cộng sản, chính chúng ta đã bỏ
rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh. Hầu
như tất cả giới quân nhân, chính khách, ký giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch
tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của Tướng Thiệu
là liều lĩnh, ẩu tả nó đã làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu
quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất cẩu thả và không
tưởng, cho dù đường tỉnh lộ 7B có rộng rãi thênh thang như xa lộ Sài Gòn Biên
Hoà chăng nữa cũng không thể di tản hàng nghìn xe cộ, hằng mấy trăm nghìn quân
dân chạy loạn tới nơi tới chốn được huống hồ đó chỉ là con đường đã bỏ hoang từ
bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp. Tướng Thiệu đã quá độc đoán khi
khăng khăng cho di tản cả hai Quân khu cùng một lúc bất chấp sự cầu khẩn của
hai Tướng Tư lệnh xin ở lại chiến đấu đến cùng, sinh mạng của đất nước, của
hàng nghìn vạn người được ông đem ra làm trò chơi mà không hề bàn với nội các,
với quân dân các cấp. Nhưng nhiều người cũng cho rằng Tướng Thiệu chơi trò tháu
cáy giả vờ thua chạy để Mỹ sót ruột phải nhẩy vào. Địch không thể ngờ ta lại có
thể sai lầm lớn lao về chiến lược đến thế, đối với chúng kế hoạch triệt thoái
Cao nguyên của Thiệu là một tặng phẩm từ trên trời rơi xuống. “Nhưng bây giờ, cả
một quân đoàn chủ lực của ngụy rút chạy hộc tốc, bỏ cả Tây nguyên – một địa bàn
chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta đánh ở
Nam Tây nguyên đã làm rung động quân địch đến thế kia ư? Đúng là đòn đánh trúng
huyệt, địch bắt đầu ngấm, chỉ sau có mấy ngày. Đúng là địch đã choáng váng và rối
loạn về chiến lược. Lại một sai lầm nữa rất lớn về chiến lược của chúng. Lệnh
rút quân đoàn 2 phải do ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn phát ra, vậy thì vấn đề
đã vượt quá phạm vi chiến dịch và lên tới tầm chiền lược. Lần đầu tiên trong cuộc
chiến tranh Đông Dương, trong phạm vi chiến dịch, một quân đoàn địch được trang
bị hiện đại đã phải bỏ địa bàn chiến lược quan trọng rút chạy.Tình hình này sẽ
dẫn đến nhiều sự kiện quan trọng khác, có thể dẫn đến việc ta kết thúc thắng lợi
nhanh chóng cuộc chiến tranh” Văn Tiến Dũng (Đại Thắng Mùa Xuân trang 99) Tướng
Thiệu đi từ sai lầm này tới sai lầm to lớn khác, kế hoạch tái phối trí lực lượng
của ông đã khiến cho kẻ địch không phải giao chiến cũng chiếm được cả Kontum,
Pleiku. Cho lệnh Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đã mở một
cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi, chưa bao giờ Việt Cộng
sung sướng thoải mái như tháng 3-1975, trong vòng một tuần lễ cả Cao nguyên rơi
vào tay Cộng sản, tai hại hơn nữa nó kéo theo sự sụp đổ của hệ thống phòng thủ
Quân đoàn 2. “Thế là rõ.Trận Buôn Ma Thuột hiểm và mạnh quá, tiếp đến trận đánh
diệt quân viện sư đoàn 23 ở phía đông Buôn Ma Thuột nhanh và gọn quá làm cho địch
hốt hoảng, rối loạn không những ở cấp sư đoàn, quân khu mà chính là động đến cơ
quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn. Từ sai lầm về chiến thuật, chiến dịch, bị
ta đánh đau quá, địch đi đến sai lầm về chiến lược; ngụy quyền Sài Gòn hốt hoảng
ra lệnh rút chạy khỏi Tây nguyên đưa quân về đồng bằng hòng giữ lực lượng và giữ
đất. Nhưng nào có đưa được lực lượng về đâu, có giữ được đất nữa đâu! ta đã diệt
chúng trên đường rút chạy. Mà đã sai lầm về chiến lược rồi thì thất bại trong
chiến tranh là điều chắc chắn, không sớm thì muộn” Văn Tiến Dũng (ĐTMX trang
105) Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy,
trong hàng ngũ Tướng lãnh điều khiển bộ máy chiến tranh chưa có ai ẩu tả và bạt
mạng cho bằng Tướng Thiệu. Thất bại trên đường số 7B do thất thủ Ban Mê Thuột,
nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm
chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng
tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân
đoàn,3195559083_658cb9dc73_o Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho
các đơn vị, chính vì Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống
phòng thủ nhanh như vậy. Lệnh triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ
quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa
gạt lẫn nhau để bỏ chạy trước. Vì phải tháo chạy vội vã nên không có kế hoạch đầy
đủ, vô kỷ luật, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh
sĩ hỗn độn, người ta cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn
đốc cuộc lui binh cấp quân đoàn. Sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng gì tại
quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay
không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn. Trên thực tế không có một lệnh tổng
quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính
xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên
Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị
sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại.
Các Tướng Trần văn Cẩm, Lê Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt
thoái bay trực thăng thật cao trên trời.. cả một quân đoàn không có ai chịu
trách nhiệm. Sau này ngày 21-4-1975, sư đoàn 18 đã thực hiện rút quân tại Xuân
Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, họ đã cho di tản gia đình binh sĩ trước
để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của sư đoàn 18 cho thấy thất bại của
Quân khu 2 và 1. – Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh – Không kiểm
soát đôn đốc cấp chỉ huy. – Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn
hàng ngũ quân đội. – Không duy trì được kỷ luật khiến cho cho bọn côn đồ mặc sức
tranh cướp bắn giết nhau, dành đường đi, không còn trên dưới, không ai tuân lệnh
ai, bọn đào binh đồ thừa cơ nước đục thả câu tung hoành cướp bóc, hãm hiếp y
như trong một xã hội thời thượng cổ. Bọn lưu manh đã bêu xấu quân đội Việt Nam
Cộng Hòa để cho kẻ địch triệt để khai thác tuyên truyền nói xấu ta. Theo Phạm
Huấn trong ngày di tản Pleiku, lúc sắp khởi hành đã sẩy ra hỗn loạn, cướp bóc bắn
phá… tại nhiều nơi trong và ngoài thị xã. Dân chúng chạy tị nạn làm náo loạn
hàng ngũ quân đội, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã bị rã ngũ, tan
hàng mặc dù chưa chạm súng với địch. Người dân cứ ùn ùn kéo nhau chạy đã khiến
cho quân lính không còn tinh thần chiến đấu, dân tị nạn đã làm đảo lộn kế hoạch
triệt thoái của Quân đoàn. Cuộc triệt thoái đã khiến cho Cao nguyên lọt vào tay
Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu
2. Điều tai hại là cuộc triệt thoái đã để lọt vào tay Việt Cộng nhiều vũ khí đạn
dược, xe tăng, đại bác. “Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một
phần số lượng đạn dược đã dự tính trong kế hoạch mà lại còn lấy thêm được khá
nhiều của địch” Văn Tiến Dũng (ĐTMX trang 117) Tỉnh Quảng Đức nằm ở tây nam Darlac
(Ban Mê Thụôt) và phía bắc Lâm đồng vẫn còn đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận
Kiến đức phía tây thị xã Gia nghĩa. Ngày 9-3 một sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Đức
lập phía tây bắc Quảng Đức, còn lại quận Kiến đức phía tây thị xã vẫn chống trả
lại cuộc tấn công vũ bão của lực lượng địch đông như kiến bên Phước Long đánh
qua từ 9-3 cho tới 22-3. Nhờ sự chiến đấu anh dũng của hai tiểu đoàn 81, 82 thuộc
liên đoàn 24 Biệt động quân và hai đại đội địa phương quân Phan Rang tăng cường
quận Kiến Đức vẫn còn đứng vững, họ bảo vệ được thị xã yên ổn được gần hai tuần
lễ. Đến ngày 22-3 tình hình tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ ngoài tiền tuyến quá mệt
mỏi trước áp lực địch, tỉnh đã tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh quân
đoàn. Sáng 22-3 Đại tá tỉnh trưởng Quảng đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực
thăng đưa về Sài gòn rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy
bay trở về Quảng Đức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là
theo lời ông ấy nói. Đến chiều Trung tá tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản,
hai tiểu đoàn Biệt động quân tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các
quan đã triệt thoái nên họ cũng lui binh trong trật tự, họ đã gài mìn trên đường
về thị xã rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.hinhanhngayquochan3041975023 Về điểm
này trong Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn.
Trang 170: “Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến
đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đã tiến
sát Phi trường Quảng Đức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh
trưởng Quảng Đức bị pháo sập. Đại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng còn lại của
tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”. Không biết Phạm Huấn căn cứ vào
tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng từ đầu chí cuối tại đây đã biết rõ sự
việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức mất, thị xã Gia Nghĩa không hề bị
pháo, địch còn bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xã khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn
ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh
trưởng đã đi máy bay trực thăng từ sáng hoàn toàn không có chuyện mở đường máu
rút về Lâm đồng. Đoàn quân triệt thoái từ Quảng Đức sau 5 ngày băng rừng thì tới
Lâm Đồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy nghìn người gồm Địa phương quân,
Biệt động quân, cảnh sát.. và một số ít dân chúng vượt sông Kinh Đà qua được
Lâm Đồng, đa số dân chúng bị bỏ lại vì không thể đem hết mọi người được. Cuộc
di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng
tiếc. Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật
không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Đồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước
sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước sư đoàn 7 Việt Cộng thuộc
quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà chiếm Định Quán, Hoài Đức,
Giá Rai ..bdq_loisuoi rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Đồng. Chúng tiến theo đội
hình xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20
gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Đồng bỏ trốn từ hai giờ
sáng, lấy tiền trong ngân khố chạy lên Đà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng
gì Lâm Đồng, Quảng Đức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều
sĩ quan cao cấp thấy tình hình bi đát đã bỏ đơn vị chạy tháo thân. Cuộc di tản
tại Lâm Đồng về Phan Rang được tiến hành có trật trật tự, không sẩy ra hỗn loạn
như cảnh triệt thoái trên đường số 7B có lẽ vì không bị Việt Cộng truy kích bắn
phá tơi bời. Trong khi ấy hai trung đoàn Việt Cộng băng rừng từ Phước Long qua
tiến chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Đà Lạt bắn
thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Đà Lạt cũng di tản
về Phan Rang. Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng
ở duyên hải sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững phòng tuyền ở Bình Khê trên Quốc lộ
19, ở Tam Quan Bắc Bình Định, hai trung đoàn 41, 42 thuộc sư đoàn 22 chống trả
mãnh liệt cuộc tấn công của sư đoàn 3 Việt Cộng dưới chân đồi Bình Khê phía tây
Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều
trong trận đánh. Trung đoàn 95B, sư đoàn 968 Cộng quân được tăng cường tấn công
hai trung đoàn 41, 42 nhưng ta vẫn giữ được phòng tuyến cho đến 30-3. Ở duyên hải,
Cộng Sản tăng viện thêm từ Quảng Ngãi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung
đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập phòng tuyến mới
ở đó. Sư đoàn 320 Việt Cộng sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong
nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo
đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Đặc công,
thám sát Việt cộng xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, địa
phương quân của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 được lệnh rút về Qui Nhơn.
Ngày 30-3 trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận Bình Khê, trung đoàn
trưởng trung đoàn 42, trung tá Nguyễn Hữu Thống đã năn nỉ xin tư lệnh ở lại
đánh, ông nói tình hình chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại.
Nhưng đã quá trễ, khi hai trung đoàn vào thị xã Qui Nhơn, họ bị các chốt địch
bên trong thị xã chận đánh, địa phương quân ta đã di tản, Qui nhơn đã nằm trong
tay sư đoàn 3 Việt Cộng. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với hải pháo yểm trợ, trung
đoàn 41, 42 phá được phòng tuyến Việt Cộng ở Nam thành phố. Quân của hai trung
đoàn 41, 42 thuộc sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía nam cách bến tầu 6 cây
số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4 ba tầu hải quân cập bến chở đám binh sĩ còn lại
của sư đoàn, trung đoàn trưởng trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thông từ chối
di tản và ở lại tự sát. Trung đoàn 47 sau hai ngay cố thủ bị đánh bật ra khỏi
phi trường Phù Cát,trên đường di tản về Qui Nhơn trung đoàn bị phục kích tại quận
lỵ, tiểu đoàn trưởng địa phương quân tự tử, xác còn nằm trước văn phòng quận.
Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi vòng chiến, trong cơn
tuyệt vọng Đại tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng trung đoàn 47 cũng tự sát. Sư đoàn
22 khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ còn hơn 2,000 quân. Sáng 2-4 Việt Cộng chiếm
Tuy Hoà, địa phương quân rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía nam Phú Yên tiểu
đoàn Biệt động quân 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương sư đoàn
10 Việt Cộng và lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, Việt Cộng được pháo
binh, xe tăng yểm trợ đã phá được phòng tuyến của ta, tiếp viện cho Lữ đoàn Dù
bị chận đánh, Nhẩy Dù giữ được Khánh Dương một tuần thì thất thủ ngày 2-4, Lữ
đoàn Dù tan rã trước áp lực quá mạnh của địch chỉ còn hơn 300 lính chạy về Nha
Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà. Nha Trang đã trở
thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy
súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ.
Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư
lệnh Quân đoàn gặp Tướng Phu, hai người bàn bạc với nhau chừng 15 phút rồi cùng
đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi tìm các đơn vị, đến
chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo với Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được
với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ
chức phòng thủ phi trường Nha Trang. Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha
Trang, ông không nói gì với Ban Tham mưu quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch gì cả,
quá tuyệt vọng ông bay về Sài Gòn nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú
không còn tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng còn gì cả.
Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Ngày 2-4
các đơn vị của Tuyên Đức, Lâm Đồng rút về Phan rang để tháo chạy về miền Nam.
Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía bắc Quân khu 2 đổ về Phan
Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng nhập bọn chạy về phía nam. Địa phương quân, cảnh
sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Đại
Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan
Thiết. Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối
cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn
3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng tham
mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng đông bắc và tây bắc Phan Rang để dò
thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung
tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan
Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và phòng thủ tỉnh. Trật tự được
vãn hồi, tại phía tây Phan Thiết sư đoàn 7 Việt Cộng đang gây áp lực, toán thám
sát cho biết địch tập trung 2 sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45
km. Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về lại vùng 3 để phòng thủ Quân khu,
thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một trung đoàn của sư đoàn 22 mới trang bị,
bổ sung, một liên đoàn Biệt động quân, một tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi
quân sắp hoàn tất thì ngày 4-4 Việt Cộng tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại
một tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một tiểu đoàn
Dù, một trung đoàn bộ binh, một liên đoàn Biệt động quân, 4 tiểu đoàn địa
phương quân, một chi đoàn thiết giáp M-113, sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm
2 khu trục hạm, duyên đoàn 27, một giang pháo hạm, một hải vận hạm, một số tầu
yểm trợ. Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đã di tản về Phan Thiết. Ngày
14-4 sư đoàn 3 và 10 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang theo Quốc lộ
1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây tiểu đoàn Dù đụng độ với Việt Cộng, địch
chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng đặc trách
Quốc phòng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú phòng đánh trả ác liệt
Việt Cộng tăng thêm sư đoàn 325 và nhiều xe tăng đại bác tấn công phi trường
Phan Rang đến trưa thì phòng tuyến vỡ, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt
trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang tư lệnh sư đoàn 6 không quân, Đại tá Nguyễn
Thu Lương lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất
ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn thất thủ.
Cuộc triệt thoái Cao nguyên đã khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân,
chỉ còn sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không
thể chống lại 5 sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đã rơi vào tay Cộng
Sản.thienthanmudo Nhiều người đổ choTướng Phú đã làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ
Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn, có
người cho Tướng Phú đã vận động để được làm Tư lệnh Quân đoàn, một chức vụ
không tương xứng với tài thao lược của ông… Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân
đoàn 2 có những tị hiềm các nhân, kình chống nhau giữa những phụ tá của Tướng
Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng
văn phòng ở Sài Gòn của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú
không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng có cảm tình, ông lại không được Tướng
Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đã
làm suy yếu phần nào nội bộ của phe ta. “Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ
luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng
nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.” Phạm Huấn (CTTCN, trang 125) Sự thực
Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban MêThụôt vào tay Cộng quân vì ông
đã mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đã
thấy Tướng Thiệu, tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất. Tướng Phú
đã nhìn thấy cái nguy hại của kế hoạch lui binh, ông đã năn nỉ Thiệu xin ở lại
tử thủ và nếu cần sẵn sàng chết tại Pleiku để đẩy lui cuộc tấn công của địch, nếu
được yểm trợ về tiếp liệu ta có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không
thể giao chiến được nữa, nhưng Thiệu đã ngoan cố bắt Phú phải lui binh bằng được.
Cuộc triệt thoái được thi hành quá vội vã theo lệnh của Tướng Thiệu nên dù tài
cán đến đâu vị tư lệnh Quân đoàn cũng khó thể tránh được thảm bại ngay trước mắt.
Tổng tư lệnh quân đội đã quá độc đoán trong quyết định tai hại khủng khiếp mà tập
đoàn Tướng lãnh không ai dám cản ông, Tướng Phú đã can đảm cản ngăn Thiệu nhưng
vai trò, chức vụ của ông so với tập đoàn tướng lãnh còn nhỏ, ông không thể quay
ngược bánh xe mà đành chịu đứng nhìn nó lao xuống vực sâu. Theo dư luận chung
các nhà quân sự, chính khách cũng như giới truyền thông báo chí ai nấy đều kết
án Tướng Thiệu là người đã gây lên tấn thảm kịch đầy máu và nước mắt này, có
người nghi ngờ Thiệu đã nhận lệnh của Mỹ giật sập miền Trung. “Rõ ràng là lệnh
giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt
ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình
hành động? . . . “Trước khi vùng Một thất thủ thì ở vùng 2, toàn bộ quân đoàn 2
đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hoà bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại Tá Lê
Khắc Lý, Tham mưu trưởng quân đoàn 2, sau này ra Hải ngoại có lên một đài phát
thanh và có kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của
Quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông “Thôi rồi bàn cờ đã sắp xếp xong,
chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa” Một thiếu tá pháo binh bầy tỏ sự tức
giận với ông Lý ” Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như
thế này”. Chuyện kể của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê Khắc Lý cho thấy khi
Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hoà thì coi như số phận của Quân
đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng
2 của Sài Gòn” Trần Việt Đại Hưng (Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền
Nam Năm 1975). Những ý kiến trên đây chỉ là giả thuyết. Nhà báo PhạmTrần trong
bài Người Điên Nguyễn Văn Thiệu Và Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975″. “Có đọc
sách Phạm Huấn, chúng ta mới thấy rõ tư cách lãnh đạo của ông Thiệu, Ông Khiêm
và Đại tướng Viên… tác giả viết rất kỹ về những lệnh trước đá lệnh sau của ông
Thiệu …. đã khiến cho tình hình bi đát càng khốn khó hơn. Qua những tiết lộ của
Phạm Huấn, tôi có cảm tưởng như vào thời gian ấy chúng ta bị lãnh đạo bởi một
ông Tổng thống điên mà chúng ta không biết. Rất tiếc là kẻ điên không bị bỏ lại,
không chết mà hằng trăm ngàn chiến sĩ và đồng bào ta đã bị bỏ lại, bị gục ngã
trên tỉnh lộ 7, trên các Quốc lộ 14, 19… .. cả ông lẫn Đại Tướng Viên, Thủ Tướng
Khiêm chỉ biết ngồi ở phòng lạnh gọi điện thoại phán lệnh này lệnh kia. Trong
khi đó chiến sĩ và đồng bào ta tiếp tục ngã gục cho cái quyết định ma quái ở
Cam Ranh” Phạm Huấn (Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 241) Phạm
Huấn cũng cho rằng các Tướng lãnh đạo Thiệu, Khiêm, Viên đã tỏ ra không có tinh
thần trách nhiệm can đảm, không dám đi tới tận mặt trận như các tướng ngoại quốc
De Lattre, Navarre đã xuống Vĩnh Yên, Hoà Bình, Điện Biên Phủ hoặc như
Westmoreland lên Cao Nguyên khích lệ tinh thần binh sĩ, không ông tướng nào có
được hành động anh hùng mà chỉ ngồi văn phòng ra lệnh. Phạm Huấn cũng chê tư
các các tướng Việt Nam chỉ thích gửi con đi du học nước ngoài không có được
tinh thần như De Lattre đưa con trai ra mặt trận đóng tại Ninh Bình, Đô đốc
Sharps, tư lệnh Thái Bình Dương để con trai, một thiếu tá phi công tham gia chiến
trận. Phạm Huấn kết án các Tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang là những kẻ chủ mưu
và đồng lõa trong quyết định đưa tới sụp đổ toàn diện Quân đoàn 2. Nhà báo,
xuanloc1dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên
Năm 1975 viết. “đây là cuốn sách đầu tiên đã nói lên được cái thân phận vừa đau
thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đã mô tả được những
uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nhìn thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang
mà bó tay chịu chết, và cũng đã phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát
và bất nhân của nhóm người lãnh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội. . . . . Ba
ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đã
hoàn toàn im lặng, không góp bàn gì về cái quyết định giết người của ông Thiệu
cả” (CTTCN 1975, trang 265, 266) Trần Văn Ân đã lên án gay gắt quyết định tàn
nhẫn của Tướng Thiệu và thái độ vô trách nhiệm của tập đoàn Tướng lãnh trước
nhưng cái chết oan uổng của hằng nghìn hằng vạn người. Họ là những kẻ tán tận
lương tâm đã đẩy bao nhiêu người vào chỗ chết. “Người đọc cũng thấy rõ sự tàn
nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát choTướng
Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện….
. . . Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh còn đặt ra một khía cạnh
khác của nhân tình thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh.Trong suốt
buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới
số phận của hằng triệu dân, hàng trăm nghìn Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia
đình binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ
đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách tình hình rồi lạnh lùng
chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng
khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đã được quyết định rồi và không còn
gì để bàn cãi nữa” Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267) Những lời kết án gay gắt
của Trần văn Ân hay của Trần Việt Đại Hưng, của Phạm Trần … cũng như của bao
nhiêu người khác nữa thể hiện nỗi uất hận của quân dân đối với tập đoàn lãnh đạo
bất tài, tham ô, sợ chết và cái quái thai Hội Nghị Cam Ranh bất nhân, tàn ác của
họ.soldier2 Cái Hội Nghị giết người ma quái ấy của bọn tán tận lương tâm đã bị
muôn đời nguyền rủa, trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn cò trơ
trơ, dẫu cho đến muôn đời không bao giờ cạn lời của miệng thế thị phi. “Lịch sử
sẽ ghi những gì về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng
Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ thì sử
xanh đã truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày
14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu
sụp đổ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam.thieu Hai biến cố này thực sự là dứt
điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đã dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng
phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Đa Số Tướng
lãnh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đã bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một
nhóm nhỏ Tướng lãnh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay
của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm.
Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới
trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lãnh đạo sẽ được lịch sử ghi
rõ đời đời. Lương tâm đui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ
cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công bình. Liệu rồi đây, khi
họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay
sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân
dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh
hùng đã chết trên chiến địa, đã tự sát khi bại trận hay đã chết trong lao tù?
Những anh hùng này đã hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng vì
một Lãnh Đạo tồi tàn” Trần Văn Ân (CTTCN trang 272). Tướng Phú phải chịu trách
nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự
trọng ông đã can đảm tự xử lấy bản thân vì đã không chu toàn trách nhiệm. Dù
sao Tướng Phú vẫn còn có tư cách hơn những anh hèn bỏ chạy, đó là sự khác biệt
giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử, để kết thúc bài này chúng tôi xin mượn lời
ký giả Trần Văn Ân luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết
vinh còn hơn sồng nhục.pvp “Tướng Phú đã nằm xuống…. với đầy đủ khí tiết của một
cấp chỉ huy đã dám tự xử mình khi trách nhiệm không hoàn tất. Tại sao những Tướng
lãnh đạo nền Đệ II Cộng Hoà lại không thấy được tội lỗi của mình và không dám tự
xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người
yêu nước thật sự và người làm chính trị vì tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là
sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng chính trị Nguyễn
Văn Thiệu Trần Thiện Khiêm? Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải
phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác,
thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đã vị quốc vong thân, và xám hối về những
tội lỗi của mình” (CTTCN 1975 trang 273)
Trọng Đạt
Comments
Post a Comment