TỔNG THỐNG THIỆU VÀ CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN NĂM 1975
TỔNG THỐNG THIỆU VÀ CUỘC TRIỆT THOÁI CAO NGUYÊN NĂM
1975
BIENXUA on FEBRUARY 14, 2017
https://i2.wp.com/www.quocgiahanhchanh.com/nhatrang1975.jpg
Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá
Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều
người hỏi ông: “Có phải TT Thiệu rút bỏ Quân đoàn 2 tại Pleiku, Kontum giữa
tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy
vào?”
Cách đây
khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu
rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ
đề này.
Đại Tá
Lê Khắc Lý nói ông đã đậu thủ khoa Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng ở Việt Nam năm
1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học cao nhất là “Trường Ðại Học Chỉ Huy
và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ” tại Fort Leavenworth, Kansas (US Army Command and
General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Command and
General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản
ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự
các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này
cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của
ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ
cao nguyên là sai lầm. Rồi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên
để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng”.
Tóm lại
TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng
bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.
Trên thực
tế nhiều người cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên.
Khoảng năm 1975, 1976 khi chúng tôi ở trong trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng
ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua luôn cuộc chiến.
Sơ lược
tái phối trí
Trước hết
tôi xin sơ lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của
ký giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng lãnh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc,
có tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh
này đã bị thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến
tranh VN giai đọan cuối. Người ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu
1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.
Sau ngày
Ký Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50%
khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp
liệu đạn dược.
Ngày
11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm,
Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với khả
năng hiện có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối
trí lực lượng để bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3
và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột
quan trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần
nấy.
Ngày
12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài
ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ nay sẽ không cho một xu viện
trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất tinh thần khiến ông quả quyết
tái phối trí.
Ngày
13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao
cấp quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên,
Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng
thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ
không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông
cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên
hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH
chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân trong khi BV có
5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS)
Tướng
Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông còn cho biết Tướng Phú
phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng, Quận trưởng biết, họ phải ở
lại chiến đấu. Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử
thủ. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm
duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp
cũng gần giống như lời Phạm Huấn.
Trong buổi
thảo luận ông Cao Văn Viên cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể xử
dụng được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối
Pleiku với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía
đông tây, ngoài đường số 7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7
tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch
được hợp thức hóa và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú
là Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở đường, thiết giáp đi theo các
đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn
quân di tản.
Ngày
16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo
binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn
Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay
250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.
Ngày hôm
sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng
250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở
ngại cho cuộc triệt thoái.
Ngày
18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe
từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông
được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối ấy Việt Cộng đuổi theo
pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn
320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ
16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một
số lính địa phương quân người Thượng cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm
hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng,
BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt
thoái.
Đoàn
quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú
Túc phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân
đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn
BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ
dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được giao
nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hòa 65 km đoàn di tản phải băng
qua sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu
ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hòa, vì xe cộ quá đông cầu
bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.
Chặng đường
cuối cùng từ đây về Tuy Hòa rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC
pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hòa không còn quân để tiếp
viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7
BĐQ liều mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt
địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi
tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hòa.
Đường
rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban
Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày
18-3 Cộng quân pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng
chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Các kho
quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu
Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo
Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hòa,
5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100
xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.
Ông Cao
Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư
đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng có 10
ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn
quân.
Tái phối
trí lực lượng có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh
thổ.
Những
nguyên do thất bại chính của cuộc di tản có thể gồm:
– Di tản
quá gấp rút, cả một quân đoàn quá đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và người
chạy loạn.
– Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng khiến
cho cuộc di tản bị ngừng trệ.
– Dân
chúng di tản làm náo loạn mất tinh thần quân đội.
– Thiếu
chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút.
Thực ra
cuộc di tản thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng
quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc
thúc đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và
đã pháo kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng
tỏ ta không có tin tình báo chính xác về vị trí các đơn vị Cộng quân.
Ngoài ra
theo lời kể của một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường
số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều chạy thoát
khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40
cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi
kịp pháo kích dữ dội, khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng.
Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy đạn pháo nổ ấm ầm ghê
rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân chứng
này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn
nhân đa số là dân Kontum. Ký giả chiến trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành
lang máu.
Giả thuyết
Ngoài những
nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin góp
ý thêm về giả thuyết này.
Như
chúng ta đã thấy, ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành
quân từ Pleiku, Kontum xuống Tuy Hòa phía đông, rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang
phía nam, rồi lại từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng đường hành
quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt quệ về tiếp
liệu. Kế hoạch không logic lại viễn vông cho thấy ông Thiệu có mục đích tháu
cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo
kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu thốn về mọi
mặt.
Ngoài ra
tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương.
Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu
biết BV đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã dai dẳng đòi từ mấy năm qua:
Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô
thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng
ý ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10,
trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích
Kissinger. Nixon khuyên Kissinger không nên ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định
được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.
Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu
mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH
ký bản Hiệp định bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh tả, diều hâu bên Mỹ
áp lực hành pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang
152), nếu đòi điều kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu
ký. Đó là một điều nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù
nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ
miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.
Người Mỹ
coi việc lấy 580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả
sự sống còn của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả
nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế.
Cuối
tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp
định Paris mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.
“Sài Gòn
như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc không bỏ
rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá
sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới” (Saigon apparently assumed that
an “ultimatum” story would encourage America ’s right wing to apply pressure on
the White House not to abandon a beleaguered ally threatened by Communism. It
turned out to be a gross and embarrassing overestimation. The Story caused
barely a ripple – Marvin Kalb, Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).
Từ TT
Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết
đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi
cánh biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương.
Tại nước Mỹ nay số người còn ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu
ngón tay trước hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống
và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến
tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn
chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.
Vì quá
chủ quan nên tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột
nhẩy vào.
Trên đây
chỉ là những giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.
Kết Luận
Tuy
nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới
sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh
hơn dự kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối trí và để Tướng Phú tử thủ tại
Pleiku, chính ông Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng
nhưng đó chỉ là hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm
vào tình trạng kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền Nam tháng
4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của
ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người ta thường nói vì ông Thiệu
sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói vì ông Dương Văn Minh đầu
hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.
Xin nói
sơ về thực trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm
1974, 75.
– Trước
hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong
tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ
xài 30 ngày.
– Trước
đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào
ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn
của VNCH. Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal
trang 490 như sau.
“Ông Thiệu
diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết
giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm
để còn đạn xử dụng” (He described the intensity of the North Vietnamese
attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By
contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they
fired in order to make the ammunition last)”.
– Theo
Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập cùa CS viết về tình trạng khó khăn của VNCH.
“Hỏa lực
và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng
tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật
hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay
Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom
đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại
máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…”
Years
of Renewal trang 480
Nhận xét
của CS về sự thiếu thốn của quân đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn
NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác
giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội
ta chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng
tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong
khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào.
Giai đoạn
1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ 684,666
tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng
hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày
5-10-2006).
Theo
Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12-
1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp
định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược
với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện
trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến
khích BV gây hấn
(Years
of Renewal trang 481).
Quân khu
2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên
đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân khu khác nên CS đã
chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo
vệ vùng duyên hải.
Lực lượng
BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25,
271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng
cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh
(Theo
Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975,
trang 90, 91.)
Như vậy
dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ
giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền
Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.
Tướng
Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết
tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu được Quân khu, không cứu
được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.
Trường hợp
Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta
lâm vào tình trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho
thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho
chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng
11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến
tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên
thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN chỉ còn vài
người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford. Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn,
phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy.
Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc
bay”.
Cựu Đại
Tướng Cao văn Viên cho biết
“Nghĩ lại
việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch
tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác
giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần
chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của
kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không
tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất
cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn
phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn
còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh
và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến
hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể
thành công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình
hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có
quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập
thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh
chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”.
Những
Ngày Cuối của VNCH, trang 134
Theo ông
Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân
khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền
Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ
viện Mỹ thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng
Dân chủ phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ
nắm giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện
trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng
“Sống chết mặc bay”
Tôi xin
ngược dòng thời gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm
kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu
phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ ông vì ông sắp mang lại hòa
bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau
Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon. Sự thực ngay từ
sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh chóng, số chống
chiến tranh lên cao, khi ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm
1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn
trước. Từ 1969, 70..biểu tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn
cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học (No more Vietnams ,
trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.
Đứng trước
sự chống đối ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc
chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người phụ tá cố tìm lối thoát, mở
cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối.
Nhưng thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger
cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và
miền Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.
Sự ngoan
cố của Hà nội đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội
20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ
BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn
hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh
Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện
trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói tay hành pháp.
Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng như
mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ còn đi
xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng thống, trước
khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.
Trói tay
hành pháp bằng các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều,
làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong
trào chống đối tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù
đã ký Hiệp định ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục
chiến tranh dưới hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the
agreement), trừng trị mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người đã lên kế hoạch
nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn
trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới
ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974, họ hả hê kéo nhau
vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972 tăng lên 291ghế
(66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống còn 144 ghế
(33.1%) năm 1974.
Nay những
người Dân chủ mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số
phận của ba nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện
trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ
Bổ túc 300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của VNCH đã bị bác bỏ không
thương tiếc.
Trở lại
vấn đề đang bàn trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng
không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền Nam VN còn hy vọng được
Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng. Ngay cả TT Nixon cũng không thể
quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của
Hà Nội.
Tác giả
Walter Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói
“Một khi
người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều
đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ
không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam ” (Once America had found a way to
disengage from Vietnam , neither the Congress nor public would have permitted a
reengagement, with or without Watergate. . . Irrespective of Watergate,
Americans wanted nothing more to do with Vietnam ).
Trọng Đạt
Tham Khảo
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà,
Vietnambibliography 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự
Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập,
1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến
Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa
Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt
Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên
Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon &
Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon &
Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and
Betrayal in Vietnam -The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor House, New
York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown
and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman –
General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the
Vietnam war
Comments
Post a Comment