Đặc tính lãng mạn trong
những năm đầu của cuộc Kháng Chiến Chống Pháp (1946-1954)
Tháng Một 4, 2017, in Kho tàng văn hóa
Phân-tích-vẻ-đẹp-hào-hùng-và-hào-hoa-của-người-lính-trong-bài-thơ-tây-tiến-của-Quang-Dũng-1.jpg
Phạm Cao Dương
Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, với súng gươm, với giết
chóc, với gian lao, khổ ải, với tàn phá, hủy diệt,… mà lại nói tới lãng mạn,
hay dù hẹp hơn, tới thi ca lãng mạn là một điều hoàn toàn nghịch lý, khó có thể
tưởng tượng được. Nhưng đối với những người Việt Nam đã từng sống trong cuộc
chiến ba mươi năm vừa qua, đây lại là một sự thực, một sự thực có bằng chứng hẳn
hoi mà người tìm hiểu khó có thể chối cãi.
Nó hoàn toàn đúng ít ra là cho ba năm đầu của cuộc chiến nếu
ta tính từ cuối năm 1946 khi cuộc kháng chiến chống Pháp mới thực sự bùng nổ
trên toàn quốc Việt Nam đến năm 1949 là năm Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản của
ông làm chủ được Trung Hoa Lục Địa, Tưởng Giới Thạch phải bỏ chạy ra Đài Loan,
biên giới Việt Trung trở thành biên giới giữa hai nước Cộng Sản Á Châu và Quốc
Gia Việt Nam của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập, mở đầu cho một giai đoạn mới
cho cuộc chiến.
Đây chính là ba năm cuối cùng của nửa đầu của thế kỷ hai mười,
ba năm đầu của thời kỳ độc lập hay tranh đấu giành độc lập dưới hình thức này
hay hình thức khác, sau một thời gian dài sống dưới sự cai trị của người Pháp.
Đây ba năm đẹp nhất của lịch sử chiến tranh của người Việt trong thế kỷ hai
mươi, trước khi mọi chuyện đều thay đổi và thay đổi một cách bi thảm ngoài sự
tưởng tượng của mọi người. Câu hỏi được đặt ra là do đâu mà đặc tính lãng mạn
này đã có thể tồn tại và lãng mạn đã được thể hiện ra sao trong thi ca của thời
này?
Nguyên nhân nào đã khiến cho đặc tính lãng mạn tiếp tục tồn tại
trong ba năm đầu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp?
Có nhiều nguyên nhân khiến cho cuộc sống lãng mạn của người
Việt, vốn đã nảy nở và phát triển từ trước, đặc biệt là lãng mạn trong thi ca
và đương nhiên trong bộ môn song sinh của nó là âm nhạc, không những vẫn có thể
tồn tại được mà còn phát triển rộng rãi hơn trong giai đoạn này.
Thứ nhất: Người Cộng Sản chưa sẵn sàng để thực
thi chính sách kiểm soát chặt chẽ sinh hoạt văn nghệ trong ba năm đầu của cuộc
chiến
Thế lực của người Cộng Sản xuyên qua chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh cho đến hết thời gian này còn quá mới, chưa đủ để
cho họ có thể áp đặt một sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ lên mọi phạm vi sinh
hoạt của người dân, trong đó có văn nghệ, vốn dĩ là một sinh hoạt rất tế nhị mà
họ đang cần để tuyên truyền lôi cuốn mọi người vào cuộc kháng chiến chống Pháp
dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đồng thời tiêu diệt nốt những thành phần đối lập,
dù cho là bản Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản đã được soạn thảo và phổ biến
từ năm 1943. Làm sao có lợi cho vai trò lãnh đạo của họ là được rồi. Cũng cần
phải để ý là trong thời gian này Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã dời bỏ thủ
đô Hà Nội, di tản lên miền rừng núi Việt Bắc, do đó cần phải có thì giờ để củng
cố lại thế lực cũng như để sắp đặt lại mọi cơ sở, mọi hệ thống liên lạc mới nhằm
thắt chặt trung ương với địa phương, song song với vai trò lãnh đạo kháng chiến
của mình.
Thứ hai: Lãng mạn trong thời gian này đã trở thành rất phổ biến
trong sinh hoạt của giới thanh niên như là sự tiếp nối phong trào lãng mạn của
những năm cuối của thập niên ba mươi và những năm đầu của thập niên bốn mươi của
thế kỷ hai mươi.
Ở thời điểm ba mươi của thế kỷ hai mươi người ta nói tới ý muốn
thoát ly khỏi cuộc đời nhàm chán, dù cho là chẳng biết để đi đâu trong khi cách
mạng hãy còn là một ý niệm mơ hồ và chế độ đô hộ của người Pháp có vẻ mỗi ngày
một vững hơn. Sang đầu thập niên bốn mươi tất cả đã đổi khác. Lý do là sự bại
trận của người Pháp ở ngay chính nước Pháp và sự thắng thế của quân đội Nhật và
sự hiện diện của họ trên đất nước Việt Nam. Nếu vào cuối thập niên ba mươi người
ta nói tới chuyện.
Rũ áo phong sương trên
gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón
xuân sang
hay ngồi trước lò sưởi trong một ngày mưa gió, hút thuốc lá,
thở khói lên trần… thì vào đầu thập niên bốn mươi, ngưới ta lại sính hát “Hòn Vọng
Phu” của Lê Thương hay tìm hiểu và ngâm những đoạn thơ và vẽ những cảnh diễn tả
buổi chia ly tuyệt đẹp và vô cùng lãng mạn trong Chinh Phụ Ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng
pha,
Ngựa chàng sắc trắng
như là tuyết in.
Mọi người dường như chờ đợi và sẵn sàng để làm công việc này.
Khi chiến tranh toàn quốc bùng nổ vào tháng Chạp năm 1946,
tinh thần lãng mạn qua ý niệm thoát ly để đi làm cách mạng từ mơ hồ đến chỗ gần
như bế tắc đã được thay thế bằng một thứ lãng mạn yêu nước cụ thể hơn. Người ta
sẵn sàng từ bỏ gia đình, từ bỏ quê hương, ruộng vườn để ra đi và ra đi mà không
ai trách cứ. Nhiều thanh niên đã hăng hái xung phong gia nhập Vệ Quốc Đoàn, nhiều
người không được nhận vì thiếu sức khỏe đã khóc khi phải trở về nhà. Người ta
đã ra di để cứu quốc một cách ngây thơ, tự nhiên, đơn giản, không cần biết ai
là người lãnh đạo, nói như Phạm Duy ở một chỗ nào đó trong hồi ký của ông. Trước
đó, khi các mặt trận mới chỉ diễn ra ở các thành phố, các lực lương Tự Vệ Thành
đã thu hút một số lớn thanh thiếu niên nam nữ thuộc đủ mọi thành phần từ các
sinh viên, học sinh đến những người làm nghề lao động. Họ tự bỏ tiền túi ra để
may quần áo, khí giới, làm huy hiệu… và đã ở lại giữ thành trong một thời gian
khá dài, điển hình là sáu mươi ngày ở Hà Nội, trong khi quân đội chính qui của
Cộng Sản được rút lên miền núi cùng với Hồ Chí Minh và các nhân viên chính phủ
của ông.
Thứ ba: Ảnh hưởng của các phong trào Hướng
Đạo và thanh niên thể thao
Các phong trào Hướng Đạo và thanh niên thể thao qua những buổi
cắm trại hay du ngoạn đã đưa giới trẻ đến chỗ có dịp thoát ra khỏi cuộc sống chặt
hẹp nhàm chán ở các thành phố hay các phủ hay huyện lỵ của thời bấy giờ để có
thể vào rừng, lên núi, ra các miền quê hay bờ biển sống gần với thiên nhiên, tiếp
xúc với dân quê hay người miền núi hơn, đồng thời thăm viếng các thắng cảnh hay
các di tích lịch sử của đất nước mà trước đó họ chỉ có dịp tiếp xúc qua sách vở
hay trong lớp học. Lãng mạn tính thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu
thương quê hương, đất nước và đồng bào cũng như cái đẹp của quê hương, đất nước,
và của những người dân quê hay miền núi, công lao xây dựng và bảo vệ đất nước của
người xưa… của một thế hệ người Việt mới đã nẩy nở trong bối cảnh này.
Thứ tư: Ảnh hưởng của những bài ca mới đầy
tình cảm mang chủ đề quê hương, đất nước và lịch sử oai hùng của dân tộc đã xuất
hiện trước đó.
Những năm đầu của thập niên bốn mươi cũng là thời gian xuất
hiện của nhiều bài ca mang nặng tình cảm bình thường của con người cùng tình
yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là những bài ca lịch sử. Bắt đầu những bài ca
này được phổ biến ở thành thị, sau đã tràn về thôn quê do những cuộc tản cư thời
phi cơ Mỹ ném bom các cơ sở của quân đội Nhật hay trong các cuộc cắm trại hay
du khảo của các phong trào Hướng Đạo hay thanh niên. Nên nhớ là khi Cộng Sản còn
ẩn náu ở các chiến khu Việt Bắc những bài ca được dùng trong các sinh hoạt của
họ phần lớn là những bài ca của Hướng Đạo và khi Văn Cao được cán bộ Cộng Sản
tiếp xúc, người nhạc sĩ này đã được giao cho nhiệm vụ làm những bài ca mới để
thay thế cho những bài ca của Hướng Đạo cũ với bài đầu tiên ông làm là bài “Tiến
Quân Ca”, sau trở thành quốc ca của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội
Việt Nam hiện tại..
Từ sau năm 1949, mọi sự đã hoàn toàn thay đổi, ở trong nước
cũng như trên thế giới. Ở trong nước, chính phủ của Hồ Chí Minh và những người
Cộng Sản đã đứng vững được về cả hai phương diện chính trị và quân sự, những lực
lượng chống đối không còn nữa. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng Sản của Mao Trạch Đông
đã hoàn toàn đánh bại được quân đội của Tưởng Giới Thạch và làm chủ được toàn
thể Trung Hoa Lục Địa, biên giới giới hai khối Cộng Sản Hoa, Việt đã tiếp giáp
với nhau và Cộng Sản Việt Nam đã được Cộng Sản Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ kèm
theo với những ảnh hưởng của họ. Sự e ngại kẻ thù từ phương bắc tới không còn nữa,
nhưng áp lực của người anh em mới mỗi ngày một thêm đè nặnglên vai của người
anh em đang cần sự giúp đỡ.
Một mặt khác, cũng năm 1949, Quốc Gia Việt Nam của Cựu Hoàng
Bảo Đại đã được chính thức thành lập với sự trao đổi văn kiện trực tiếp giữa Cựu
Hoàng Bảo Đại với chính Tổng Thống Pháp Vincent Auriol thay vì với một nhân vật
cấp dưới, rồi rất nhanh chóng chính quyền Quốc Gia này đã được hai nước Anh và
Mỹ và rất nhiều quốc gia thuộc khối tự do thân Tây Phương thừa nhận, đe dọa sự
chính thống của Hồ Chí Minh và của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những
biến chuyển này đã khiến cho Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải thay đổi
hoàn toàn đường lối cai trị của mình, trong đó có lãnh đạo văn nghệ. Sự thả lỏng
cho các văn nghệ sĩ dù là các người làm thơ, các người soạn kịch, các người vẽ
tranh… muốn làm sao thì làm, muốn đi đâu thì đi, miễn là tất cả hướng vào toàn
quốc kháng chiến, toàn quốc chống Pháp phải được bãi bỏ. Ở Đại Hội Văn Nghệ Lần
Thứ Hai mà Phạm Duy đã tinh ý nhận xét là có thêm hai chữ Nhân Dân vào mùa hè
năm 1950 ở Việt Bắc, chính quyền trung ương đã bắt đầu áp đặt đường lối mới.
Thiếu Tướng Nguyễn Sơn, một ngưới rất yêu mến văn học nghệ thuật và các văn,
nghệ sĩ, người đã biến đại bản doanh của mình ở Thanh Hóa thành một thủ đô của
giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ, bên cạnh nhiều trung tâm khác như Cống Thần – Chợ
Đại, Rừng Thông… đã bị triệu hồi về trung ương. Đây là thời điểm các cuộc dinh
tê của mọi người bấy lâu theo chân kháng chiến tản cư trở nên ào ạt hơn trong
đó có rất đông các văn nghệ sĩ mà sau này người ta thấy xuất hiện trong sinh hoạt
văn hóa ở các vùng Quốc Gia, ở miền Nam và luôn cả ở Hải Ngoại trong những năm
kế tiếp. Luận cứ cho rằng những người tản cư từ các thành phố về thôn quê hay
lên miền trung du dinh tê về thành là do họ đã quen với cuộc sống tiểu tư sản
thành thị không chịu nổi cuộc sống kham khổ, thiếu thốn ở trong vùng kháng chiến
là không đúng. Nó chỉ là một trong nhiều nguyên nhân mà thôi. Còn nhiều nguyên
nhân khác hơn nguyên nhân hoàn toàn vật chất này. Cuộc sống tự do, nhân bản và
chính quyền quốc gia không Cộng Sản, tương lai học vấn của giới trẻ, chẳng hạn.
Thi ca lãng mạn thời
chiến
Bây giờ nói tới thi ca thời chiến, đúng hơn thi ca lãng mạn
thời chiến hay đúng hơn nữa, thi ca lãng mạn trong những năm đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp của người Việt trong nửa sau của thế kỷ hai mươi, thời quân đội
kháng chiến còn được gọi là Vệ Quốc Đoàn, chưa bị đổi tên là Quân Đội Nhân Dân,
những năm tôi nghĩ đẹp nhất trong lịch sử giành độc lập của người Việt trong thế
kỷ hai mươi, bất kể là do ai lãnh đạo, trước khi mọi chuyện thay đổi. Còn nếu
so sánh với cả lịch sử của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là một trong những thời
gian đẹp nhất như chính những người tham dự đương thời đã miêu tả như:
Ở thời nhà Trần:
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên
Phong
…………….
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên
Phong
(Thơ Trần Nhân Tông, Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng
Ngô Tất Tố dịch)
và thời kháng chiến chống Pháp:
Buông tay gầu vui lại
thuở bình Mông
Thơ Yên Thao, Nhà Tôi
Nếu người lính già của thời nhà Trần cứ thỉnh thoảng ngồi kể
chuyện của thời Nguyên Phong thì những người đã từng là lính hay đã từng sống
hay tham dự vào những sinh hoạt ở thời chống Pháp từ cuối năm 1946 đến đầu năm
1950 cũng không bao giờ quên được những ngày kháng chiến của mình dù là sau này
họ sống ở vùng Tê hay ở hậu phương, ở trong Nam hay ở ngoài Bắc, ở trong nước
hay ở hải ngoại, dù là họ tiếp tục được sống trong vinh quang hay bị bỏ quên ở
một góc phố hay ở một làng thôn hẻo lánh nào đó. Có điều văn thơ của họ đã được
phổ biến mỗi ngày một rộng, từ hình thức những bài chép tay nằm dưới đáy ba lô
của những người lính Vệ Quốc Đoàn hay những cán bộ còn nặng đầu óc tiểu tư sản ở
ngay chính thời chúng mới được làm đến những bản in trong các sách vở, những bản
phổ nhạc ở miền Nam hay được đưa lên sân khấu ở Hải Ngoại. Nhưng tên tuổi của
Hoàng Cầm, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Yên Thao, Hữu Loan… đã được
người ta nhắc tới. Những tác phẩm như Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa, Bên
Kia Sông Đuống, Tây Tiến, Đôi Bờ, Đôi Mắt Người Sơn Tây, Đồng Chí, Bao Giờ Trở
Lại, Làng Tôi, Màu Tím Hoa Sim...của các tác giả này đã được nhiều người thuộc
lòng dù là thuộc một vài đoạn, một vài dòng hay một đôi câu hay ít ra là có thể
nhận ra được vì đã được nghe ngâm, nghe hát vào một dịp nào đó trong đời mình,
kể cả những người chưa từng được nghe, được học về cuộc kháng chiến chống Pháp
của thời cha ông họ.
Nhận xét về các tác giả này, người ta thấy đa số họ là những
tên tuổi mới và hầu hết đều rất trẻ. Tất nhiên là rất trẻ cho thời kỳ các tác
phẩm của họ được sáng tác. Đa số năm sinh của họ là vào đầu hay giữa thập niên
hai mươi, tuổi của những người đã đóng vai trò chính trong cuộc cướp chính quyền
của Việt Minh vào tháng 8 năm 1945. Họ cũng là những người có học, đã từng là cựu
học sinh các trường Sư Phạm, Bưởi, Thăng Long…. Điều này cũng có nghĩa là họ đã
có dịp tiếp xúc với văn hóa tây phương, trong đó có văn chương lãng mạn Pháp.
Nhưng quan trọng hơn hết họ là những nhà thơ có thực tài, có cảm giác rất bén
nhậy với những nhận định tinh vi và đã được sống trong thời kỳ sôi sục nhất của
lịch sử dân tộc. Riêng Quang Dũng còn là một người rất tài hoa, phóng khoáng.
Cái lãng mạn của họ do đó không phải chỉ khác hơn mà còn phức tạp hơn cái lãng
mạn của những nhà thơ lớp trước. Lãng mạn của họ là lãng mạn kết hợp bởi không
riêng tình yêu nam nữ mà luôn cả tình yêu gia đình, đặc biệt là tình yêu dành
cho người mẹ, người vợ, cho đứa con còn bú, cho xóm làng, bờ sông, ruộng vườn,
hình ảnh quê hương thuở còn thanh bình… và đương nhiên cả cuộc kháng chiến với
những đồng đội, với đơn vị, với núi rừng, với bệnh hoạn, với cái chết kề bên, với
những xóm làng đã đi qua…Chính vì vậy mà có nhà nghiên cứu chỉ xếp Hữu Loan và
Quang Dũng vào loại những tác giả lãng mạn, còn các tác giả khác vào loại tranh
đấu hay tuyên truyền cho kháng chiến dù là ở một mức cao về nghệ thuật. Có điều
dù xếp thơ của họ vào loại nào đi chăng nữa, người ta phải cũng phải công nhận
rằng những thi ca này đã phát xuất một cách tự nhiên, từ tâm hồn của mỗi tác giả.
Chúng đã được làm vào lúc họ vẫn còn được quyền tự do sáng tạo, chưa bị áp lực
và sự kiềm chế chặt chẽ của chính quyền Cộng Sản như trong những năm sau này.
Chính vì thế mà mỗi người có một phong cách riêng tùy theo bản chất và hoàn cảnh
của mình. Ngôn từ họ dùng cũng rất đơn sơ, giản dị, trong sáng, dễ dàng khiến
cho người nghe, người đọc không đến nỗi phải cố gắng, phải căng óc ra để tìm hiểu.
Âm điệu cũng vậy. Đa số những bài mọi người ưa thích đều là thơ tự do, nhưng
dòng thơ rất tự nhiên, trôi chảy, nhẹ nhàng từ đó lôi cuốn người đọc khác với
nhiều bài làm theo cùng thể về sau này.
Hữu Loan
Vì thời giờ có hạn, tôi không thể đi sâu vào từng tác phẩm, từng
tác giả mà chỉ đề cập tới hai tác giả chính, được nhiều người ưa thích là Hoàng
Cầm và Quang Dũng. Hữu Loan vì là, năm 2007, nên chắc chắn đã được mọi người
tìm hiểu nên tôi thấy không cần phải nói thêm ở đây.
Hoàng Cầm và Quang Dũng, hai người cùng một tuổi, một người
sinh ở Bắc Ninh, quê hương của dân ca miền Bắc, một người ở làng Phùng, một
làng được người ta biết tới là vừa chăm chỉ làm ăn, vừa ham mê du hí, nói theo
Trần Lê Văn, tác giả của một tuyển tập về Quang Dũng. Hai người cùng có trình độ
học vấn cao ở thời bấy giờ và cùng dự tính vào nghề dạy học. Nhưng trong khi
Hoàng Cầm ở lại với nghề trước khi tham gia kháng chiến thì Quang Dũng, mặc dầu
đã ra trường sư phạm nhưng lại bỏ nghề đi đánh đàn, kéo nhị cho môt gánh hát,
chỉ làm thày giáo dạy kèm để được đi đây, đi đó, kể cả lên Yên Báy làm ký ga,
sau mới về Hà Nội, tham gia cách mạng rồi kháng chiến và kháng chiến thực sự
trong đoàn quân Tây Tiến. Sự khác biệt trong đời sống của hai người đã ảnh hưởng
lớn tới thi ca. Thơ của Hoàng Cầm phát xuất từ quần chúng, từ đoàn thể, lấy quần
chúng, đoàn thể làm đối tượng nên có lời lẽ bình dị, dễ dàng, lôi cuốn, hấp dẫn,
khi thì mạnh mẽ, khi thì sôi nổi, khi thì nỉ non, kể lể, tha thiết.., điển hình
là ba bài bài Đêm Liên Hoan, Tâm Sự Đêm Giao Thừa và Bên Kia Sông Đuống. Cả ba
đều là thơ ca tụng kháng chiến và cổ võ cho kháng chiến nhưng ca tụng và cổ võ
với một nghệ thuật cao, một phong thái tự nhiên vững vàng, không sống sượng thô
lỗ như những bài thơ tuyên truyền người ta thường thấy về sau này dưới chế độ Cộng
Sản. Cả ba bài đều lấy đám đông hay người của đám đông làm khởi điểm với những
bối cảnh, những tình tiết của đám đông hay những con người của đám đông, đám
đông làm công việc chiến đấu để bảo vệ quê hương với những hình ảnh quen thuộc
của quê hương được nêu lên trong truyện kể. Bài Đêm Liên Hoan theo Phạm Duy được
làm để thay thế cho một vở kịch thơ mà ôHoàng Cầm muốn dựng, hướng vào các Vệ
Quốc Quân nhưng vì đội văn nghệ của ông có rất ít người nên cuối cùng ông chỉ
có thể làm một bài thơ cho một hay hai người ngâm trên một sân khấu ngoài trời
mà thôi. Chính vì thế ta không lấy làm lạ là khi trình bày bài thơ này người ta
không thể chỉ có ngâm, chỉ có dùng lời nói để diễn tả mà thôi mà còn phải kèm
theo những cử chỉ, những điệu bộ và kèm ngay khi ngâm mấy câu đầu:
Đêm liên hoan đầu người
nhấp nhô như sóng biển ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ
tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân
thiết Vệ Quốc Đoàn…
Hoàng Cầm
Cũng theo Phạm Duy, Phạm Duy đã cùng Hoàng Cầm diễn ngâm rất
nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân với những lời lẽ vô cùng tha
thiết và đầy hào khí như:
Trong tiểu đội của anh
Những ai còn ai mất?
Không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Người sau kẻ trước lao
vào giặc
Giữ vững nghìn thu một
giống nòi!
Dù ta thịt nát xương
rơi
Cái còn vĩnh viễn là
người Việt Nam!
“Tâm Sự Đêm Giao Thừa” kể chuyện người lính nghèo có vợ mới
sinh con. Vì nghèo và đang chiến đấu ở chiến trường nên anh lính và cũng có thể
chính tác giả không có gì để gửi về cho vợ con ăn Tết . Còn nếu có thì chỉ là
ráng lập công để sớm được về. Trong khi đó thì người vợ ở nhà sinh sống bằng
bán hàng ở một quán nhỏ, cuối năm ế khách, thiếu ăn, không đủ sữa cho con bú.
Người lính tưởng tượng ra cảnh vợ mình đang đói ăn, không có sữa cho con bú,
nhưng nghe tin chồng thắng trận thì vui mừng quá, máu bỗng chảy mạnh trong huyết
quản, sữa bỗng căng trên đầu vú và đứa con được bú một bữa no trong niềm vui lớn
của cả dân tộc. Ta hãy đọc những đoạn chính của “Tâm Sự Đêm Giao Thừa”:
Đêm nay hết một năm
Phải gác tới giao thừa
Quê hương chừng rét lắm
Lất phất mấy hàng mưa
Tôi có người vợ nghèo
Đời vất vả gieo neo
Từ khi chồng đi lính
Nhà tranh bóng hắt hiu
Lần hồi rau cháo dăm
phiên chợ
Tóc rối, thân gầy, quán
vắng teo.
Đêm ba mươi gió thổi
Tôi lại nhớ con tôi
Vợ đói, con cùng đói
Khóc thét lặng từng hồi
Mẹ thì nước mắt nhiều
hơn sữa
Ngực lép con nhai đã rã
rời…
với bốn câu kết luận:
À ơi! Cha con ăn Tết lập
công
Cho sữa mẹ chảy một
giòng nghìn thu
Cha đem cái chết quân
thù
Làm nên cuộc sống bây
giờ của con
Trong bài “Bên Kia Sông Đuống” Hoàng Cầm dùng lối kể chuyện để
giải buồn cho người yêu. Ông đã dùng tất cả những hình ảnh tươi đẹp, hiền lành
của quê hương thời thanh bình trước kia và mơ ước một ngày cùng người yêu trở về.
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng
lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Năm nghiêng nghiêng
trong kháng chiến trường kỳ
……
rồi Hoàng Cầm kể tiếp những hình ảnh hiền hòa dễ thương của
cuộc sống ở quê hương ông như lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ, áo the đen, cô
hàng xén răng đen, những cô nàng cắn chỉ môi trầu, những em bé xột xoạt quân
nâu… mà chiến tranh đã làm tan hoang phiêu bạt, để cùng người yêu mơ ước một
ngày về:
Bao giờ về bên kia Sông
Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn
lòng xuân xanh.
Quang Dũng
Thơ của Quang Dũng khác hẳn. Quang Dũng không làm thơ hướng
vào đám đông, để tuyên truyền, để cổ võ cho kháng chiến, để thúc đẩy mọi người
hy sinh cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Ông làm thơ cho ông hay chia sẻ với bạn
bè của riêng ông. Ông nhìn mọi chuyện qua con mắt riêng của ông, trình bày những
cảm nhận của riêng ông, của một con người vừa tài hoa, vừa phóng khoáng, độc lập,
không chịu sống gò bó, mà trước kia ông đã có dịp thể hiện qua hành động không ở
lại với nghề dạy học sau khi đã tốt nghiệp trường sư phạm để đi theo một gánh
hát kéo đàn nhị hay lên Yên Bái làm thư ký nhà ga. Phong thái của ông đã hiện
rõ nét trong thơ ông. Đi kháng chiến, theo đơn vị vượt biên giới sang Lào, trải
qua nhiều gian lao, vất vả, hiểm nguy, bệnh tật, chết chóc… Nhưng qua thơ của
ông tất cả đã trở thành nhẹ nhàng, rất lãng mạn, rất đẹp và rất thơ, không vướng
vào những hạt sạn của tuyên truyền.
Ông viết:
Dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm
Hiu hắt cồn mây súng ngửi
trời.
Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống…
hay
Chiêu chiều oai linh
thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người…
hay:
Tây tiến đoàn quân
không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai
hùm.
Những hình ảnh thật hào hùng khó kiếm được ở những nhà thơ
khác đương thời. Cần để ý đoàn quân không mọc tóc không phải là đoàn quân trọc
đầu vì theo kỷ luật của quân đội mà là bị sốt rét nặng mà những ai đã từng sống
ở miền Bắc trong thời gian tản cư về các miền quê hay miền núi đều có kinh nghiệm.
Với cái chết, Quang Dũng cũng nhìn với phong thái tương tự, một
phong thái bình thản, có thể nói là hồn nhiên của trẻ thơ bởi vì đi lính là
đương nhiên người ta phải chấp nhận tất cả dù là gian lao, nguy hiểm, chết
chóc, dù là đi lính cho một mục tiêu vô cùng đẹp đẽ, vô cùng lý tưởng như Hoàng
Cầm và các nhà thơ khác diễn tả. Nhưng Quang Dũng đã đạt tới một trình độ cao
hơn. Ông cảm nhận được sự mong manh của cuộc sống ngoài chiến trận. Một phút
trước người ta còn tồn tại, phút sau đã trở thành hư vô. Ông đã chấp nhận sự
mong manh đó như người ta chấp nhận trò chơi hồi còn nhỏ. Chán, mệt thì không
chơi nữa, không thèm chơi nữa, lúc khác sẽ chơi lại.
Anh bạn dãi dầu không
bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên
đời!
hay
Rải rác biên cương mồ
viễn xứ
Chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh.
hay:
Áo bào thay chiếu anh về
đất
Sông Mã gầm lên khúc độc
hành.
Thực sự thì ở đây chết là chết không có chiếu mà chôn nhưng
người ta cũng có thể hiểu theo nghĩa tình cảm đối với là về với đất nước quê
hương của dân tộc.
Những câu thơ kể trên được trích từ bài Tây Tiến của Quang
Dũng. Nhưng đó không phải là những câu hay nhất vì trong bài này câu nào cũng
hay, cũng xúc tích, cũng gợi nên những cảm xúc sâu xa ở người đọc. Xen vào những
câu này, là những câu dầy tình cảm, mang nặng bản chất hào hoa, tiểu tư sản
thành thị ở con người tác giả. Đêm trằn trọc không ngủ được trên đường hành
quân, Quang Dũng viết:
Mắt trừng gửi mộng qua
biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu
thơm.
hay ở một bài thơ khác, bài Đôi Bờ:
Khói thuốc khơi dòng
thương nhớ xưa
Đêm đêm Sông Đáy lạnh
đôi bờ.
Thoáng hiện em về trong
đáy cốc
Nói cười như chuyện một
đêm mơ.
hay trong Đôi mắt Người Sơn Tây:
Vầng trán em mang trời
quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây
phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng
lắm
Em có bao giờ em nhớ
thương.
Ngay cả đối với những sinh hoạt mà các văn nghệ sĩ đương thời
thường gặp hay tham gia trong những năm này ở vùng kháng chiến như các đêm liên
hoan chẳng hạn, khác với Hoàng Cầm, Quang Dũng cũng tham dự nhưng tham dự như
là một khách phong lưu, tài tử. Ông không gọi là liên hoan, tiếng thời thượng,
ai cũng dùng. Ông dùng hai hai chữ đuốc hoa và kèm theo hai chữ xiêm áo của văn
chương lãng mạn cổ điển:
Doanh trại bừng lên hội
đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao
giờ.
Khèn lên man điệu nàng
e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ.
và còn nhiều nữa nhưng bài đã quá dài, viết thêm nữa e làm
loãng những gì người viết muốn viết hay muốn nói. Xin để cho người đọc suy
nghĩ, tìm tòi tiếp.
Kết luận:
Khi tham gia đoàn quân Tây Tiến vào năm 1947, một đoàn quân
được nói để bảo vệ miền Thượng Lào và biên giới Việt Lào nhưng rất có thể chỉ
là để thanh toán những thành phần tiểu tư sản trí thức còn lại của Trung Đoàn
Thủ Đô và của Tự Vệ Thành Hà Nội sau khi họ đã làm tròn nhiệm vụ vì ai cũng biết
chiến đấu ở các miền rừng núi đoàn quân này không thể nào so sánh được với quân
đội chính qui của Võ Nguyên Giáp mà để lại ở miền đồng bằng thì nguy hiểm,
Quang Dũng làm đại đội trưởng. Cuộc đời binh nghiệp của ông đã không lên cao
hơn được nữa, có thể là vì gốc gác của ông cũng như bản chất con người nghệ sĩ
phóng khoáng của ông. Sau này khi về Hà Nội, ông đã được thấy những cảnh bi thảm
của vợ con những tử sĩ của thời chiến và đã ghi lại trong bài “Đường Chiều Thứ
Bảy” với những câu như sau:
Tôi đã gặp
Nhiều người vợ trẻ
Đàn ông đã ngã trên chiến
trường
Vất vả nuôi con những
ngày kháng chiến
Xót xa thương khóc bao
ngày
Chiều thứ bảy hôm nay
Họ đi bên người chồng mới
lấy
Và những đứa con
Bước còn bỡ ngỡ
Bên người cha mới hôm
qua.
Ai biết được bây giờ
Tâm sự của những người
Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng
Vào đáy hộp nữ trang
Bến nước đi thêm một bước
nữa.
Bài thơ tả chân nhưng cũng có thể mang tính chất biểu tượng.
Nó nói lên sự thê thảm, thật là thê thảm của những người được gọi là thắng trận,
thê thảm như chính cuộc đời của tác giả, của Hữu Loan, của Nguyễn Hữu Đang và của
nhiều người khác… , những người nửa đường đứt gánh, những người sáng tạo nhưng
không được sáng tạo. Có điều vì những ngày theo kháng chiến của họ đẹp quá, nên
thơ họ luôn luôn tiếc nuối, bỏ không được, giữ không xong. Họ không có được sự
nhạy cảm, dứt khoát, nhanh và gọn gàng của Phạm Duy sau khi người nhạc sĩ này
được gọi về trung ương tham dự Đại Hội Văn Nghệ Nhân Dân, người viết xin nhấn mạnh
hai chữ sau, hai chữ nhân dân, lần thứ hai vào mùa hè năm 1950 như Phạm Duy đã
nhận định và đã làm. Âu cũng là một sự bất hạnh cho nền văn học Việt Nam hậu
bán thế kỷ hai mươi.
Tháng 10 năm 2007
Comments
Post a Comment