Tự Do Ngôn Luận và Tự Do
Báo Chí
Bài nói chuyện của Thẩm
Phán Phan Quang Tuệ tại Lễ Kỷ Niệm 1 năm Báo Người Việt Minesota
Kính thưa Quý Vị,
Khi chọn đề tài Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí cho buổi nói
chuyện hôm nay, tôi chỉ nhằm mục đích chọn một đề tài thích hợp với ý nghĩa
nhân dịp kỷ niệm một năm phát hành báo Người Việt Minnesota và Ngày Truyền
Thông Báo Chí Việt Nam tại Minnesota. Tôi không ngờ đã vô tình mở cánh cửa bước
vào một vũ trụ bao la vô tận. Một biển cả mà càng đi tới, chân trời càng xa.
Tôi xin giải thích tại sao tôi có cảm tưởng như vậy. 10 ngày trước đây tôi khởi
sự ngồi xuống để soạn bài nói chuyện. Tôi vào Google và đánh hai chữ:”free
speech”. Trên màn ảnh của máy computer hiện ra con số 63,100,000 tài liệu liên
quan đến đề mục tôi muốn tìm hiểu. Con số tài liệu lớn lao này cho thấy tầm
quan trọng của vấn đề tự do ngôn luận và tự do báo chí.
Năm 1993, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã chọn ngày 3 tháng 5
hàng năm là ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới hầu cổ võ cho quyền tự do ngôn luận và
tự do báo chí trên toàn cầu. Thomas Jefferson, tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
Hoa Kỳ công bố vào ngày 7 tháng 4, năm 1776 và là vị Tổng Thống thứ 3 của Hoa
Kỳ, đã tuyên bố như sau:
“The basis of our
government being the opinion of the people, the very first object should be to
keep that right; and were it left to me to decide whether we should have a
government without newspapers, or newspapers without a government, I should not
hesitate a moment to prefer the latter. But I should mean that every man should
receive these papers and capbable of reading them.” “
Nền tảng của các chính quyền của chúng ta đặt trên lòng dân, vì
thế quyền phát biểu phải là đối tượng được bảo vệ trên hết. Nếu phải chọn lựa
giữa một chính quyền không có báo chí và một tình trạng báo chí không có chính
quyền, tôi sẽ chọn tình trạng thứ hai. Nhưng tôi cần nói thêm là với điều kiện
mọi người đều có cơ hội đọc báo và có đủ hiểu biết để đọc và hiểu các bài báo!”
Và đó là lời phát biểu 236 năm trước đây của tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập!
Câu tuyên bố của Thomas Jefferson chỉ nhằm nhấn mạnh đến vai trò
không thể thiếu trong một xã hội không có báo chí, không ngờ lại đã xảy ra
trong thực tế hơn hai trăm năm sau, không phải tại Hoa Kỳ, mà là tại một quốc
gia ở Âu Châu!! Đó là Vương Quốc Bỉ. Thực vậy, sau ngày bầu cử Quốc Hội Bỉ vào
tháng 6, 2010 đã không có một đảng phái nào hội đủ túc số để thành lập nội các.
Các cuộc thương thuyết nhằm thành lập nội các giữa 11 đảng phái đã kéo dài từ
tháng 6, 2010 cho đến khi đạt được thỏa hiệp và một nội các đã được thành lập
ngày 5 tháng 12, 2011. Tổng cộng nước Bỉ và dân tộc Bỉ đã có một đời sống quốc
gia 540 ngày mà không có một chính quyền. Nhưng tất cả các cơ quan báo chí,
truyền thông, hệ thống Internet tại quốc gia này vẫn tiếp tục trong suốt thời
gian gần hai năm đó!! Đời sống quốc gia, sinh hoạt hằng ngày của người dân, các
phương tiện giao thông, chuyên chở công cộng vẫn tiếp tục trong vòng trật tự
cho thấy tầm quan trọng của dân trí và ý thức trách nhiệm của người công dân
Vương Quốc Bỉ.
Tuy tự do ngôn luận và tự do báo chí có một vị thế quan trọng
như vậy trong đời sống con người, quyền tự do này lại không phải là một quyền
sở hữu, gắn liền với con người như con người có tay và chân cùng các bộ phận
khác! Tự do ngôn luận quan trọng vì con người là một con vật xã hội. Khi chúng
ta sống một mình cô quạnh như Robinson Crusoe trên một hoang đảo chơi vơi giữa
biển cả mênh mông xung quanh không có gì khác hơn là một cây dừa lẻ loi thì
quyền tự do ngôn luận không cần thiết phải đặt ra.
Theo cuộc kiểm kê dân số vào năm 2010 thì dân số Minnesota hơn
5,300,000 triệu người mà trong đó dân số người Việt có hơn 27,000 người, đứng
hạng thứ 13 về dân số người Việt so với toàn quốc. Twin Cities, mà tôi thấy có
quý vị địa phương dịch là Song Thành có dân số gần 2,500 người ở St.Paul và
2,000 người ở Minneapolis. Dẫu tỷ lệ dân số nhỏ so với dân số toàn tiểu bang,
báo Việt ngữ vẫn là một nhu cầu cần thiết vừa để thông tin, vừa làm nhịp cầu
liên lạc giữa cộng đồng người Việt, đồng thời nhằm nuôi dưỡng tiếng Việt, vốn
là một nét đặc thù của văn hoá Việt Nam.
Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Báo Chí được xem là đệ tứ quyền trong
hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy gọi là
đệ tứ quyền nhưng tự do ngôn luận, tự do báo chí lại không được quy định trong
7 điều khoản chính của Hiến Pháp. Thực vậy tự do ngôn luận, tự do báo chí được
quy định trong nửa phần thứ hai của Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ:
“Congress shall make no
law…abridging the freedom of speech, or of the press…” “Quốc Hội sẽ không làm
luật…hạn chế tự do ngôn luận, hay tự do báo chí”
Chúng ta cần lưu ý đến kỹ thuật thảo hiến điêu luyện của những
nhà lập hiến Hoa Kỳ mà các tài liệu lịch sử đều nhắc đến họ như là: the Framers
of the Constitution, những con người đã gầy dựng nên nền móng khuôn khổ của
Hiến Pháp. Phần lớn các bản Hiến Pháp của các quốc gia trên thế giới đều viết
đại loại như: Quốc Gia công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Hay:
Công Dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin theo qui
định của pháp luật như điều 70 trong Hiến Pháp 1992 của Cộng Sản Việt Nam. Tu
Chính Án thứ nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ qui định một cách rõ ràng và vắn tắt:
Quốc Hội sẽ không làm luật…hạn chế tự do ngôn luận, và tự do báo chí.
Kỹ thuật thảo hiến của các nhà lập hiến Hoa Kỳ 225 năm trước đây
đưa đến hai hệ quả song hành: thứ nhất, xác nhận ý chí của nhà lập hiến không
cho cơ quan lập pháp, nghĩa là Quốc Hội Liên Bang, quyền làm luật hạn chế tự do
ngôn luận, tự do báo chí. Thứ hai, đặt nguyên tắc căn bản cho việc giải thích
tính cách hợp hiến đối với những văn kiện luật pháp hay lập qui, cho dầu trực
tiếp hay gián tiếp liên quan đến tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Hệ thống công quyền của Hoa Kỳ được đặt trên nguyên tắc căn bản
checks and balances, kiểm soát và cân bằng. Cả ba ngành luật pháp, hành pháp,
tư pháp đều có mối liên hệ hỗ tương, ngành này kiểm soát ngành kia. Thí dụ Lập
Pháp có quyền làm luật, biểu quyết ngân sách, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế.
Hành Pháp có quyền đề nghị các dự luật, phủ quyết các đạo luật do lập pháp biểu
quyết. Tư Pháp có quyền giải thích Hiến Pháp, tuyên bố tính cách hợp hiến hay
không của các đạo luật của ngành lập pháp.
Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí vốn được xem như là đệ
tứ quyền thì sao? Ngoài điều khoản công nhận tự do ngôn luận và tự do báo chí
trong Tu Chính Án Thứ Nhất, không có một giới hạn hiến định nào khác được trù
liệu để giới hạn hay kiểm soát quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Một sử gia Anh Quốc, Lord Acton, trong thế kỷ 19 đã từng
nói:”Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely”. Quyền hạn
dễ đưa đến lạm dụng, và quyền hạn tuyệt đối sẽ đưa đến lạm dụng tuyệt đối.
Quyền lực, hay quyền hành, tự bản chất thực ra không hẳn đối
ngịch với đời sống dân chủ. Vấn đề là làm sao để điều hành quyền lực như thế
nào cho phù hợp với sinh hoạt dân chủ. Chúng ta đã thấy các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp được giới hạn và kiểm soát hỗ tương như thế nào. Trong
lãnh vực tư, chúng ta cũng thấy mối tương quan hỗ tương giữa các công ty sản
xuất và nghiệp đoàn nhân công, và những giới hạn của cả hai bên bởi luật pháp
và các cơ quan hành chánh. Nhưng còn tự do ngôn luận, tự do báo chí được công
nhận trong Tu Chính Án Thứ Nhất thì sao?
Ai cũng đồng ý tự do báo chí là điều cần thiết cho tự do chính
trị, và nơi đâu mà con người không được chuyển đạt, bày tỏ tư tưởng giữa con
người với con người, nơi đó không có tự do. Nhưng nếu tự do này bị lạm dụng thì
sao? Và phải chăng tự do bị lạm dụng sẽ đưa đến sự hủy diệt của tự do? Nhưng
câu hỏi trên chính là vấn đề khó xử khi thảo luận về tự do ngôn luận, tự do báo
chí. Và đâu là ranh giới phân biệt giữa những điều có thể chấp nhận và những
điều không chấp nhận được mỗi khi hành xử quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Không ai có thể nghĩ rằng qua Tu Chính Án Thứ Nhất, những nhà
thảo hiến có thể chủ trương rằng tất cả mọi người dân đều có quyền tự do phát
biểu không giới hạn về bất cứ vấn đề gì theo ý muốn, bất cứ ở đâu và bất cứ vào
lúc nào. Thí dụ, khai gian trước toà hay phổ biến tài liệu khích dục có được
bảo vệ như là một phần của tự do ngôn luận hay không? Thí dụ viết bài đặt điều
nói xấu người khác, phỉ báng (libel) hay phát biểu nói xấu gây thiệt hại cho
người khác (mạ lỵ, slander) có phải là tự do ngôn luận được Tu Chính Án Thứ
Nhất bảo vệ hay không?
Khi giải thích những vấn đề liên quan đến tự do ngôn luận và tự
do báo chí, án lệ Toà Án thường đối chiếu quyền tự do ngôn luận với những quyền
khác cần được bảo vệ trong một xã hội tự do dân chủ. Đó là những quyền như
quyền được sống an toàn, quyền được bảo vệ trong đời sống riêng tư, quyền của
những người khác trong một xã hội mà mọi người đều có quyền được đối xử bình
đẳng. Khi mang đối chiếu với các quyền lợi khác, Toà Án thường đặt quyền tự do
ngôn luận và tự do báo chí vào một điạ vị ưu tiên, preferred position vì đây là
hai quyền tự do căn bản cho đời sống dân chủ. Đặc biệt toà án có khuynh hướng
bảo vệ tự do ngôn luận trong lãnh vực các phát biểu về những vấn đề chính trị.
Trong lãnh vực này, phán quyết của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ
trong vụ án New York Times v. Sullivan (1964) là một án lệ căn bản trong lãnh
vực tự do báo chí. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán rằng
giới chức chính quyền phải chứng minh là người chủ nhiệm hay chủ bút tờ báo
đăng bài chỉ trích phải biết là điều chỉ trích không đúng với sự thật và người
chủ nhiệm có ác ý (malice) khi đăng bài báo chỉ trích. Trách nhiệm dẫn chứng
(burden of proof) này đặt một tiêu chuẩn quá cao khó cho các nguyên đơn có thể
đạt được. Từ tiêu chuẩn áp dụng cho các giới chức chính quyền (government
officials) lý luận của án lệ Sullivan đã dần dà nới rộng cho những người tuy
không phải là giới chức chính quyền nhưng vì điạ vị và hoạt động của họ, được
xem như là những khuôn mặt công cộng (public figures).
Ngoài tiêu chuẩn “preferred position”, vị trí ưu tiên, Tối Cao
Pháp Viện Hoa Kỳ còn áp dụng 4 tiêu chuẩn khác cần phải chứng minh trước khi
một đạo luật giới hạn tự do ngôn luận được công nhận là hợp hiến.
Tiêu chuẩn thứ nhất, luật giới hạn tự do ngôn luận phải không là
một luật nhằm mục đích ngăn chận trước, prior restraint. Điều này nhằm tránh
tình trạng kiểm duyệt và tiêu chuẩn này được xem như là trách nhiệm dẫn chứng
khó khăn nhất trong phạm vi luật pháp.
Thứ hai, luật giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí phải có
nội dung vô tư, neutral. Thí dụ, nếu một thành phố ra quyết định cấm dán giấy
quảng cáo trên các cột đèn, thì quyết định này phải nhằm cho tất cả các quảng
cáo, không phải cho một loại quảng cáo nào đặc biệt.
Thứ ba, điều giới hạn phải không quá bao quát, too vague, khiến
cho ai cũng ngần ngại. Một đạo luật như vậy sẽ có thể gây một tác dụng mà án lệ
gọi là chilling effect sẽ làm tất cả mọi người ngần ngại, chùn bước không dám
hành xử quyền tự do ngôn luận.
Tiêu chuẩn thứ tư là khi một đạo luật hay một nghị định đi quá
xa trong mức giới hạn tự do ngôn luận thì đạo luật hay nghị định có thể bị xem
là bất hợp hiến. Thí dụ tất cả mọi người đều có thể đồng ý là trật tự và an
toàn lưu thông là cần thiết cho ích lợi chung. Nhưng khi một thành phố quyết
định cấm hết tất cả mọi cuộc diễn hành hay biểu tình trên đường phố thì quyết
định hành chánh này có thể bị xem là bất hợp pháp. Thành phố có thể giới hạn
cuộc diễn hành vào một thời gian và trên một số đường phố thì giới hạn này có
thể được xem là không vi phạm quyền tự do ngôn luận.
Những tiến bộ trong kỹ thuật thông tin ngày nay, đặc biệt là
Internet, cho thấy những khó khăn mà Toà Án gặp phải khi phân biệt thế nào là
tự do ngôn luận khả chấp và tự do ngôn luận bất khả chấp. Khi Tu Chính Án Thứ
Nhất ra đời 221 năm trưoóc đây nào đâu đã có Internet!! Ngày nay qua Internet,
hệ thống liên mạng, tất cả mọi công dân bình thường đều có thể nhận được vô vàn
tin tức trong đủ mọi lãnh vực và liên lạc hầu như ngay tức khắc với một số
người hầu như không giới hạn mà không cần phải rời nhà của mình. Trong số lượng
những tin tức thông tin này có cả những tài liệu, hình ảnh khiêu dâm, bạo hành
rất có hại cho trẻ em. Năm 1995, Quốc Hội liên bang đã biểu quyết đạo luật
Communications Decency Act, gọi tắt là CDA, xem việc xử dụng Internet để chuyển
các tài liệu “indecent material”, xúc phạm công sĩ, là tội hình sự có thể bị
phạt 2 năm tù và phạt vạ $250,000 Mỹ kim cho mỗi vi phạm.
Đạo luật CDA đã bị Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tuyên bố bất hợp
hiến trong phán quyết Reno v. ACLU (American Civil Liberties Union), 521
U.S.844 ((1997). Phán quyết này được biểu quyết thuận bởi tất cả 9 thẩm phán
Tối Cao Pháp Viện, với thẩm phán John Paul Stevens là tác giả thảo ra phán
quyết.
Reno v. ACLU là phán quyết quan trọng đầu tiên của Tối Cao Pháp
Viện đối với những luật lệ quy định cách thức và nội dung các tài liệu gửi qua
trên hệ thống Internet. Trong phán quyết này, TCPV đã phán đạo luật CDA bất hợp
hiến vì đã không tôn trọng các tiêu chuẩn quá mơ hồ (too vague), nội dung không
khách quan (content not neutral), vì đã gộp chung tài liệu khiêu dâm với những
tài liệu thuộc loại khác dưới một danh xưng quá rộng “indicent material”, và
sau cùng đã không tìm những biện pháp ít cực đoan hơn nhằm bảo vệ các trẻ em
không được xem các tài liệu khiêu dâm.
Mặc dầu có phán quyết Reno v. ACLU, án lệ về tự do ngôn luận
trong lãnh vực Internet vẫn chưa rõ ràng và TCPV và các toà án còn nằm ở giai
đoạn dò dẫm trong lãnh vực mới mẻ này.
Nói chung, luật lệ giới hạn quyền tự do ngôn luận và tự do báo
chí có thể được xếp vào 3 loại: giới hạn về nội dung, content restriction, giới
hạn về nơi chốn, place restriction, và tự do ngôn luận có tính chất biểu tượng,
symbolic speech. Cộng thêm vào đó là loại phát biểu gây nên mối nguy hiểm rõ
ràng và tức khắc, clear and present danger.
Thí dụ giới hạn về nội dung là những tài liệu khiêu dâm. Giới
hạn vì lời phát biểu có thể gây nên mối nguy cơ rõ ràng và tức khắc là trường
hợp trong một rạp hát đông nghẹt có một người đứng lên hô to “cháy, cháy” tạo
nên hỗn loạn. Giới hạn về biểu tượng, symbolic speech, như khi chống chiến
tranh bằng cách đốt thẻ động viên.
US v. O’Brien, 391 U.S.367 (1968) là một phán quyết liên quan
đến phong trào phản chiến. Trong phán quyết này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán
rằng hành vi đốt thẻ động viên không phải là một hành vi có tính cách tự do
ngôn luận được bảo vệ bởi Tu Chính Án Thứ Nhất.
Các mục quảng cáo trên báo chí, truyền hình, đài phát thanh được
xếp chung vào loại commercial speech. So với political speech được luật pháp
bảo vệ nhiều thì commercial speech được bảo vệ ít hơn. Nói thế không có nghĩa
là các mục quảng cáo không được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ. Nhưng nếu quảng
cáo sai lạc, thổi phồng quá đáng, gây nên thiệt hại cho người tiêu thụ thì lại
là vấn đề khác.
Bài nói chuyện của tôi sẽ thiếu sót nếu tôi không đề cập đến tự
do ngôn luận trong công tư sở, hãng xưởng. Đa số chúng ta thường hay nói: tôi
có quyền tự do của tôi khi phát biểu về vấn đề gì. Điều này đúng nhưng không
đúng cho nơi làm việc, work place. Nguyên tắc chung là quyền tự do ngôn luận
rất giới hạn tại nơi làm việc, nhất là khi nơi làm việc là một hãng xưởng hay
công ty tư, không phải công sở. Mục đích của chủ nhân thâu nhận chúng ta vào
làm việc là để làm việc, không phải để xử dụng tự do ngôn luận. Tu Chính Án Thứ
Nhất quy định: Quốc Hội không làm luật … hạn chế tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Tu Chính Án này không hề quy định là chủ nhân không được sa thải một nhân viên
khi nhân viên này nói quá nhiều, không chịu làm việc!
Tôi vừa trình bày cùng quý vị về tự do ngôn luận và tự do báo
chí dưới khía cạnh hiến pháp, luật pháp, trong đời sống quốc gia. Bây giờ chúng
ta thử xét vấn đề trong đời sống cộng đồng. Cộng đồng đây là Cộng Đồng người
Việt tại Hoa Kỳ, không phải là cộng đồng người Việt tại Twin Cities Song Thành
ở đây.
Theo cuộc kiểm tra dân số thực hiện năm 2010 vừa qua thì dân số
người Việt tại Hoa Kỳ là 1,548,449 người, xếp hạng thứ tư trong dân số người Á
Châu. Bốn thành phố có người Việt đông nhất là San Jose, Garden Grove,
Westminster và Houston.
Tôi sẽ đơn cử 4 trường hợp liên quan đến quyền tự do ngôn luận
và tự do báo chí trong đời sống cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Bốn trường hợp
này đều xảy ra tại 4 thành phố nói trên.
Trường hợp đầu tiên là trường hợp tờ Thời Báo xuất bản ở San
Jose, California. Vào khoảng đầu năm 1984, tờ Viêtnam, nhật báo đầu tiên của
người Việt tại hải ngoại ra đời. Sau đó, người chủ báo tách ra làm tờ Thời Báo,
phát hành 5 số một tuần, số báo ra cuối tuần có trên 80 trang. Năm 1986, số
Xuân Thời Báo đang hai bài phỏng vấn xếp cạnh bên nhau, một bài phỏng vấn thẩm
phán Phan Quang Tuệ, một người quốc gia, một bài phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong,
lãnh sự Cộng Sản tại San Francisco. Ngay lập tức có phản ứng chống đối tờ Thời
Báo vì đã đăng bài phỏng vấn viên lãnh sự Cộng Sản. Các người chống đối tổ chức
biểu tình 86 lần, kéo dài hơn 100 ngày. Ngày ngày họ kéo đến trước toà soạn tờ
Thời Báo chửi rủa. Họ điện thoại đến toà báo chửi rủa. Họ làm áp lực với các
thân chủ quảng cáo trên tờ Thời Báo chấm dứt quảng cáo. Họ đòi hỏi tờ báo phải
công bố tên người ký giả đã phỏng vấn trực tiếp 2 nhân vật cho hai bài phỏng vấn.
Tờ Thời Báo cho tới nay vẫn còn tồn tại nhưng không còn mạnh mẽ như trước.
Vụ thứ hai xảy ra gần đây, 2012 tại Houston, Texas. Luật sư
Hoàng Duy Hùng nộp đơn kiện cựu Đại Tá Trương Như Phùng đã phỉ báng ông qua
những lời tố cáo LS Hùng đã thụt két công quỹ Fema, đã liên lạc với Toà Lãnh Sự
Việt Nam tại Houston và đã làm ăn với Việt Cộng. Tin mới nhất cho biết vụ kiện
đã được Toà Án bãi nại chiếu theo đạo luật Anti-Slap. Anti-Slap là một đạo luật
ở Texas và ở 26 tiểu bang khác cộng với vùng Hoa Thịnh Đốn nhằm mục đích giảm
thiểu các vụ kiện về phỉ báng, mạ lỵ giữa các người tố cáo và các nhân vật có
khuôn mặt công chúng (public figure).
Trường hợp thứ ba lại cũng xảy ra ở San Jose. Tháng Sáu vừa qua
2012, một số người đứng ra tổ chức mời ông Bùi Tín, cựu Đại Tá Cộng Sản, đã ly
khai đảng Cộng Sản và từ năm 1990 là một nhà báo sống tại Paris, đến nói
chuyện. Một số người Việt tổ chức biểu tình phản đối. Xem cuộc biểu tình trên
YouTube, còn thấy một người đi dự buổi nói chuyện bị một người biểu tình nhổ
nước miếng vào mặt.
Trường hợp thứ tư là trường hợp mới nhất xẩy ra tại quận Cam vào
đầu tháng 7 này. Báo Người Việt phát hành tại Westminster, đăng một lá thư của
một độc giả đã viết “..ngày 30 tháng 4 là ngày vui mừng của dân tộc và Việt Nam
Cộng Hoà là bè lũ tay sai của giặc Mỹ”! Lập tức có phản ứng ngay từ các cá
nhân, hội đoàn, và ngay cả các báo khác. Chủ nhiệm của báo Người Việt quận Cam
có thư xin lỗi ngay trên trang đầu, công nhận “đã phạm lỗi nặng nề nên xin lỗi
toàn thể cộng đồng”. Thư xin lỗi cho biết tờ báo đã điều tra và cho nhân viên
phụ trách chọn đăng bức thư độc giả nghỉ việc. Ban Điều Hành báo Người Việt
Westminster đã tổ chức một cuộc tiếp xúc giữa Ban Điều Hành và đại diện cộng
đồng để trình bày những biện pháp kỷ luật mà tờ bào đã áp dụng với những nhân
viên trách nhiệm trong việc đăng lá thư nói trên.
Khi các nhà thảo hiến soạn thảo Tu Chính Án Thứ Nhất vào năm
1791, hơn 200 năm trước đây, họ nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí của người công dân đối với với nhà cầm quyền. Tu Chính Án nhằm đến chính
quyền và quy định: Quốc Hội sẽ không làm luật hạn chế tự do ngôn luận và tự do
báo chí. Các nhà thảo hiến đã xem chính quyền là nguồn gốc chính đe dọa quyền
tự do báo chí.
Trong 4 trường hợp đơn cử, không có một trường hợp nào có sự can
thiệp của chính quyền, dẫu cho là cấp liên bang, tiểu bang, quận hạt, hay thị
xã, để giới hạn tự do ngôn luận, tự do báo chí của cộng đồng người Việt.
Không ai phủ nhận là cộng đồng người Việt được hưởng hoàn toàn
và được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ hoàn toàn trong việc xử dụng quyền tự do
ngôn luận. Vấn đề là có những cá nhân và tổ chức trong cộng đồng muốn xử dụng
tự do ngôn luận của họ để dập tắt tự do ngôn luận của những ai không đồng chính
kiến với họ. Đăng một bài phỏng vấn hay một lá thư có thể gây phẫn nộ cho độc
giả. Sự phẫn nộ có thể được chia xẻ bởi rất nhiều người, và được xem là một sự
phẫn nộ chính đáng. Câu hỏi cần được đặt ra là đây có phải là lý do chính đáng
để kêu gọi tẩy chay tờ báo, làm áp lực đóng cửa toà báo. Và chúng ta có muốn
tiếp tục theo con đường và áp dụng những biện pháp tương tự cho đến khi tất cả
chúng ta chỉ còn những tờ báo đồng một tiếng nói, một luận điệu, một ngôn ngữ
với một lời cảnh cáo: ai nói khác sẽ bị tận diệt!
Và nếu như thế thì lợi ích và mục tiêu chính đáng của Tu Chính
Án Thứ Nhất có còn cần thiết nữa hay không?
Ngày 3 tháng 5 năm 2012 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã tổ chức mừng
ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới. Ông Ban Ki-moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc và bà
Irina Bokova, Giám Đốc UNESCO đã ra một tuyên bố chung có đoạn như sau: Freedom
of Expression is one of our most precious rights. It underpins every other
freedom and provides a foundation for human dignity. Free, pluralistic and
independent media is essential for its exercise.
Tự do ngôn luận là một trong những quyền quý báu nhất của chúng
ta. Nó là căn bản cho các quyền tự do khác và đặt nền móng cho phẩm cách của
con người. Tự do, đa dạng và độc lập của báo chí là điều tối cần thiết cho việc
thực thi quyền tự do ngôn luận.
Tôi xin mượn đoạn trên trong bản tuyên bố chung làm kết luận cho
bài nói chuyện hôm nay.
Xin cám ơn quý vị!
23/07/12
Comments
Post a Comment