CHÚNG
TA CÓ THỂ THA THỨ CHO
7
NÚI TỘI ÁC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO KHÔNG
hay
MỘT
BẢN ÁN CHỐNG CÔNG GIÁO
[A
Case Against Catholicism]
Trần
Chung Ngọc
Vài
Lời Nói Đầu:
Motto của Trần Chung Ngọc [Dựa theo
OCRegister.com]:
Những người chống đối [hay người Công giáo]
có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản [hay
chống Công giáo] thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ rõ
ràng là các người thiếu học vấn.
(Do you protestors (or Catholics) realize
how ignorant it sounds to utilize and accuse someone of being a communist [or
anti-catholic] in today's world? It's outdated and clearly demonstrates your
lack of education.)
Những người Công giáo thường lên án tôi
là “Chống Công Giáo”, làm như “Chống Công Giáo” là một cái gì không được phép
làm, hay không có đạo đức tôn giáo, hay chia rẽ tôn giáo v..v.., và nhất là sẽ
mang tội với Chúa của họ. Tôi không phủ
nhận là tôi “Chống Công Giáo”, không phải là chống lơ tơ mơ, mà chống triệt để. Tại sao?
Vì tôi cho đây là điều cần thiết trong thời đại ngày nay.
Những người lên án tôi là “Chống Công Giáo”
nên tự hỏi, Công giáo có đáng chống không? Và tại sao không? Nhưng họ cần biết rõ một điều: tôi “Chống
Công Giáo” nhưng không chống người theo Công Giáo. Nghe ra thì có vẻ nghịch lý, nhưng thật ra
thì tôi “Chống Công Giáo” với mục đích “giúp người Công giáo”, giúp để ngưởi Công giáo hiểu biết rõ thêm về
chính tôn giáo của họ mà vì ở trong một cấu trúc quyền lực của giới giáo sĩ tiếm
danh Chúa, và bị “bề trên” bưng bít, họ không có khả năng hoặc cơ hội để biết đến
những sự thật về đạo Công giáo của họ, nhất là để giúp họ nhận thức được rằng:
chẳng có ai “chống Công Giáo” như họ
nghĩ cả, mà chính Công Giáo đã chống Công Giáo.
Thật vậy, chính cái lịch sử ô nhục, đẫm
máu của Giáo hội Công Giáo trong 2000 năm nay mà Giáo Hoàng John Paul II đã phải
lên tiếng xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội ngày 12.3.2000 tại Vatican; chính
những triều đại dâm loạn của một số không ít Giáo hoàng; chính cái định chế độc
tài buôn thần bán thánh của Giáo hội;
chính cái chính sách liên kết của Giáo hội với các chế độ thực dân để đi
truyền đạo ở các nước nghèo yếu; chính sự suy sụp đạo đức của giới chăn chiên,
điển hình là các vụ đồi bại như Linh mục cưỡng bức tình dục một số nữ tu trong
23 quốc gia trên thế giới, rồi cưỡng bức họ đi phá thai, vụ một số không nhỏ
Linh mục ở Mỹ, khoảng hơn 5000 “Chúa thứ hai” cưỡng bức tình dục trẻ em và nữ
tín đồ, bắt đầu nổ ra ở Boston năm 2002 v..v.., đã là những thực tế “chống Công
Giáo” mạnh mẽ nhất mà người Công Giáo không bao giờ nhìn thấy và chấp nhận vì đầu
óc đã bị điều kiện hóa từ khi còn nhỏ, và những kẻ hoạt đầu chính trị dựa hơi
Công Giáo cũng không nghĩ đến.
Điều đáng buồn là, vì hoàn cảnh đất nước từ
khi Pháp, với sự hỗ trợ đáng kể của Công Giáo Việt Nam, xâm chiếm được Việt
Nam, trí thức Việt Nam đã đi sau những trí thức Âu Mỹ cả nhiều thế kỷ trong nhiệm
vụ “chống Công Giáo”, hay nói đúng hơn,
“giải hoặc” Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng.. Bài viết này chỉ có mục đích trình bày cho độc
giả biết “chống Công Giáo” trong thế giới Âu Mỹ ngày nay không phải là chuyện
vô đạo đức hay gây chia rẽ tôn giáo, mà là bổn phận của giới trí thức trước những
sự thực về Công Giáo do chính Công Giáo đã thú nhận. Gần đây, Giáo Sư Nguyễn Mạnh Quang đã có cả
một thiên khảo cứu về nhiều quốc gia trên thế giới đã chống Công giáo như thế
nào. Bài viết này chỉ muốn nói lên một điều: Trong thời đại này,
cái mũ “Chống Công Giáo” của những người
Việt có đầu mà không có óc đã không còn một giá trị trí thức, nhất là
khi những luận điệu chụp mũ này thường chỉ là sự suy diễn từ những đầu óc của
những con bò mộng Tây Ban Nha trước mảnh vải đỏ, không có bất cứ một bằng chứng
nào, không dựa trên bất cứ cơ sở nào.
*
Lloyd Graham: "Chúa Ki Tô cầu nguyện (Chúa Cha):
"Cha hãy tha thứ cho họ vì họ không biết là họ đang làm gì"… Nếu cái
tên Ki Tô không biết gì về siêu hình học này (Giê-su) mà có chút kiến thức nào
về luật nhân quả, thì lời cầu nguyện của hắn phải đọc ngược lại – “Con người,
hãy tha thứ cho Thiên Chúa [God], vì ông ta không biết là ông ta đã làm gì.” Tất
cả cuộc sống đều chứng tỏ cái sự kiện thê thảm này, cho nên vấn đề không phải
là Thiên Chúa có tha thứ cho tội lỗi của con người hay không, mà là con người
có thể tha thứ cho sự độc ác của Thiên Chúa hay không?
(Christ prayed: "Father forgive them
for they know not what they do."… Had this metaphysically ignorant Christ
possessed any knowledge of Causation, his prayer would read in reverse – “Man,
forgive God, for he knows not what he does.” All life attests this tragic fact,
so the question is not, will God forgive man for his sins? but can man forgive
God for his cruelty? )
TCN:
Giáo hội Công Giáo đã xưng thú 7 núi tội ác của Công giáo đối với nhân
loại và xin được tha thứ. Nhưng khác với
Thiên Chúa của Công Giáo, không biết là mình đã làm gì, Giáo hội Công giáo biết
rất rõ những việc Giáo hội làm. Cho nên,
vấn đề của chúng ta ngày nay là : Chúng ta có thể tha thứ cho 7 núi tội ác của
Giáo hội Công giáo hay không?
*
Ngày Chủ Nhật 12 tháng 3, 2000, trong một
cuộc “Thánh lễ” công cộng tại "Thánh đường" Phê-rô, trước nhiều chục
ngàn con chiên, người Chủ Chiên, Giáo hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II), đại diện
cho "hội Thánh" Công Giáo gồm
gần một tỷ tín đồ, trong đó có khoảng 5 triệu tín đồ Việt Nam, cùng vài chức sắc
trong bộ tham mưu thần học của ông ta, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận,
đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại của Công Giáo, một tôn
giáo tự nhận là “thiên khải”, “duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông
truyền”, “vương quốc của Thiên Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại” v…v…,
và xin thế giới tha thứ cho những hành động ác ôn đặc thù Công Giáo, của những
con cái giáo hội Công Giáo "thánh thiện". Những hành động này, qua gần 20 thế kỷ, đã
đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như Thánh Chiến, Tòa Hình Án xử Dị
Giáo, kỳ thị phái nữ, xâm lăng văn hóa, ý muốn thống trị và thái độ thù nghịch
đối với những tôn giáo khác, bách hại dân Do Thái, gây chia rẽ trong cộng đồng
Ki Tô, liên kết với những thế lực thực dân, phát xít v...v... như đã được nhắc
tới hết sức đại cương trong những lời xưng thú 7 núi tội lỗi của Công Giáo.
Đây không phải là lần đầu tiên Giáo hoàng
xưng thú tội lỗi của Công Giáo. Người ta
ghi nhận, trong thời gian 21 năm ở ngôi vị giáo hoàng, Ngài đã xin lỗi hơn 100 lần về những tội lỗi rõ ràng là Giáo
hội đã phạm. (Chicago Tribune, March 13, 2000: By some counts he has already
apologized for specific sins linked to the church on more than 100 occasions
during his 21- year pontificate). Nhưng
lần này, sự xưng thú tội lỗi của giáo hoàng có tầm mức rộng lớn hơn những lần
trước rất nhiều, vì nó bao quát, tuy không đầy đủ, 7 núi tội lỗi chính của giáo
hội Công Giáo đối với nhân loại trong suốt 2000 năm qua, đặc biệt là trong
thiên niên kỷ thứ hai, theo Thường Lịch.
Các tín đồ Công Giáo, nhất là tín đồ Công
Giáo Việt Nam, bèn tung hô hành động của Gion Pôn Hai là một hành động can đảm
chưa từng có trong giáo hội, theo luận điệu diễn giải của giới chăn chiên dạy
các con chiên có đầu nhưng không có óc.
Một kẻ cướp, một sát nhân …, khi bắt buộc phải thú tội thì đó không phải
là một hành động can đảm. Huống chi,
giáo hội Công giáo, trong lịch sử, đã là một tập đoàn kẻ cướp [trong các cuộc
thánh chiến, hay toa rập với thực dân đi cướp chùa để xây nhà thờ, thí dụ như ở
Việt Nam], một tập đoàn sát nhân [trong các tòa án xử dị giáo, săn lùng và
thiêu sống phù thủy v..v…], vậy thì làm sao có thể coi những lời xưng thú tội lỗi
là can đảm hay là hành động thống hối.
Ngoài giáo hội, ai cũng biết đây là một bước đi chính trị bắt
buộc của giáo hội trong một thế giới mà ý niệm về đa nguyên tôn giáo đã được chấp
nhận rộng rãi. Trong thế giới này, nhãn
hiệu tự phong của Công Giáo như là một tôn giáo “thiên khải”, “thánh thiện duy
nhất” v..v.. thực chất chỉ là những lời huênh hoang hợm hĩnh tự đề cao, hoàn
toàn vô giá trị đối với hơn 5 tỷ người phi- Công Giáo trên tổng số trên 6 tỷ người trên thế giới. Học Hội Đức Giêsu Ki Tô Phục Sinh (Hội Ki Tô
Học) của một nhóm tín đồ Công Giáo Việt
Nam ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã vạch rõ: “Roma chọn con đường cáo thú tội lỗi
của mình là có những lý do thầm kín đã suy nghĩ lâu dài và nát óc để có quyết định
này. Trong những con đường xấu (nghĩa là
có ảnh hưởng tai hại đến giáo hội. TCN), chọn con đường ít xấu hơn, là con đường
“xưng tội trống với Thiên Chúa và với đồng loại”. Hơn nữa, có xưng thú tội lỗi hay không thì cả
thế giới cũng đã biết rõ bản chất của Công Giáo La Mã là như thế nào rồi, bằng
chứng ở trong sự hiện hữu của hàng trăm, hàng ngàn tác phẩm nghiên cứu về lịch
sử Công Giáo. Hành động xưng thú tội lỗi
của Vatican không phải là một hành động
can đảm. Đó chẳng qua chỉ là sự thú nhận
những điều mà thế giới đã biết rõ từ lâu, và vì trước công luận thế giới, trước
sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Công Giáo không có cách nào có thể
bưng bít, che dấu sự thực được nữa. Để vớt vát uy tín của Công Giáo qua việc
xưng thú tội lỗi này, Giáo hoàng phán: “Người ngoài sẽ khó mà hiểu được ý nghĩa
tôn giáo linh thiêng của hành động thống hối”, trong khi thực sự có gì là linh
thiêng và khó hiểu đâu, vì hành động thống hối này không phải là một hành động
đặc thù Công Giáo, chỉ riêng Công Giáo mới có, và thực chất chỉ là những lời
nói trên đầu môi chót lưỡi “xưng tội trống với Chúa”, không chút nào thành thật,
như nhiều người đã nhận xét..
Không ai lấy làm lạ vì tại sao cho tới thời
điểm gần đây mới có một giáo hoàng công khai xưng thú tội lỗi và xin được tha
thứ cùng thế giới. Chúng ta đã biết, 359
năm sau khi kết án Galileo Galilei và sau 13 năm nghiên cứu của một ủy ban gồm
những nhân vật thượng thặng trong Tòa Thánh, giáo hội mới chính thức công nhận
sự sai lầm của giáo hội trong vụ án này, trong khi cả thế giới đã biết là
Galilei đúng, còn Kinh Thánh và Giáo hội đã sai, từ mấy thế kỷ nay. Chúng ta cũng đã biết, Giáo hội đã kết tội
oan một nữ anh hùng cứu quốc của Pháp, Jeanne d’Arc, là phù thủy và đưa bà lên
giàn hỏa thiêu sống năm 1431, rồi gần 500 năm sau (1920), mới thống hối bằng
cách truy phong chức Thánh cho bà. Sự
kiên trì che dấu tội lỗi của Giáo hội Công Giáo đã nổi tiếng trên hoàn cầu, cực
chẳng đừng giáo hội mới công khai hóa những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng không
tốt cho giáo hội, vì những sự kiện lịch sử này đối ngược hẳn với những nhãn hiệu
“thánh thiện” v..v.. tự tôn của giáo hội.
Dù giáo hội có ngụy biện để giải thích hành
động xưng thú tội lỗi của giáo hoàng như thế nào đi chăng nữa, là hành động can
đảm hay theo đúng tinh thần tự kiểm ăn năn thống hối của Công Giáo, là để thanh
tẩy ký ức hay để tiến tới sự hòa hợp tôn giáo v…v…, các tín đồ Công Giáo vẫn
không thể nào giải đáp được thỏa đáng những câu hỏi như:
Tại sao một giáo hội do chính Chúa thành lập,
thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại",
là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn"
v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm
nay đối với nhân loại như vậy? trong khi
các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo chụp cho cái mũ vô thần
lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại
nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki
Tô Giáo hơn 500 năm? Vậy vô thần so với
hữu thần, đằng nào thánh thiện hơn? Tại sao cho tới ngày nay mà những người
Công Giáo Việt Nam ngu ngơ vẫn luôn luôn mở miệng ra là lên án vô thần, làm như
vô thần đồng nghĩa với vô đạo đức, vô tôn giáo, trong khi, xét theo lịch sử, chính cái tôn giáo của họ, Công giáo, là vô đạo đức và vô tôn giáo vào bậc nhất
thiên hạ.
Những câu hỏi này sẽ luôn luôn ám ảnh những
tín đồ Công Giáo có đầu óc, còn đôi chút lương tri và liêm sỉ. Vì một tôn giáo mà gây ra nhiều tội đại ác
như tra tấn, tù đầy, thiêu sống v..v.., giết hại hàng chục triệu sinh mạng vô tội,
nếu không muốn nói đến cả trăm triệu, gồm cả đàn bà và trẻ con, bất cứ vì lý do
nào, thì không thể được coi là một tôn giáo, theo bất cứ nghĩa nào. Đó chẳng qua chỉ là một tổ chức núp sau bình
phong tôn giáo để duy trì những quyền lực thế tục. Lương tâm trí thức của họ bắt họ phải trực diện
với sự thực này. Phải chăng họ đã bị lừa
dối từ bao thế kỷ nay bởi một cái bánh vẽ trên trời mà không cần đếm xỉa gì tới
vấn đề đạo đức, luân lý? Phải chăng họ
đã bị nhào nặn từ nhỏ để có một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ ham hố một sự “cứu
rỗi” tưởng tượng cho riêng mình mà không cần biết đến cái cộng đồng tôn giáo của
mình ra sao? Phải chăng họ đã bị nhồi sọ từ nhỏ đến độ chỉ còn có thể tin một
cách mù quáng, không còn khả năng suy nghĩ để tìm ra lẽ thật? v..v..
Tín đồ Công Giáo muốn tôn vinh quyền năng của
Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và Giáo hoàng thế nào thì tôn vinh, nhưng
họ không bao giờ có thể xóa bỏ được những sự thực lịch sử về Công Giáo, những sự
thực đã làm cho cả thế giới phải ghê sợ, những sự thực đã bị phanh phui đến mức
độ giáo hội không thể làm gì khác là đưa giáo hoàng và bộ tham mưu của ông ta
ra xưng tội cùng thế giới loài người về những tội ác của Giáo hội Công Giáo để
xoa dịu dư luận thế giới. Những tội lỗi
của Công Giáo đối với nhân loại, qua lời xưng thú tội lỗi của tập đoàn Vatican,
sẽ ám ảnh lương tri của người Công Giáo suốt đời, không phải vì họ phải chịu
trách nhiệm về những việc làm của giáo hội trong quá khứ, mà vì dù muốn dù
không, họ cũng thuộc một đoàn thể có một lịch sử quá đen tối, trái ngược với những
lời tuyên truyền giả dối đã tạo thành niềm tin của họ. Từ nay, họ không còn có thể tự đề cao mà
không ngượng miệng những điều họ được nhồi vào đầu óc từ khi còn nhỏ để biến họ
thành những kẻ cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, hợm hĩnh và huênh hoang, ví dụ
như Công Giáo là một tôn giáo thánh thiện,
duy nhất thiên khải, cao quý hơn tất cả các tôn giáo khác, hoặc như, người
trong đạo là những người lành thiện, đạo đức hơn tất cả những người “ngoại đạo”
v…v… Thế giới đã thấy rõ từ lâu, tất cả
những lời tự tôn, tự ca tụng, tự tôn vinh v..v.. của Giáo hội Công Giáo chỉ là
những lời tự nhận tuyên truyền huênh hoang giả dối cho đám tín đồ thấp kém,
trái hẳn với bản chất mê tín, hoang đường, thấp kém, tàn ác v..v.. của giáo hội
Công Giáo. Sau đây, tôi xin đi vào phần
phân tích vài vấn đề liên quan đến hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” và “xin
được tha thứ” của "hội Thánh" Công Giáo.
Giáo hoàng xin thế giới tha thứ cho những tội
ác của Công Giáo bằng những lời lẽ rất đại cương, cho nên không mấy người biết
rõ những tội ác của Giáo hội là những tội ác nào. Lewis Weinstein viết trong tờ
Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000,
như sau:
"Hầu hết các tín đồ Công Giáo không biết
đến cái lịch sử (chứa đầy tội ác của Công Giáo. TCN) mà Giáo hoàng nói đến, và
nếu, theo lời của Hồng Y John O'Connor, tổng giám mục địa phận New York, tín đồ
Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó
như thế nào."
(Most Catholics are unaware of the history
to which the pope alluded, an if, in the words of Cardinal John O'Connor,
archbishop of New York, Catholics are to be "liberated by the truth",
then they must know what that truth is.)
Sự thật đó như thế nào? Đọc kỹ lịch sử truyền đạo của Công Giáo và những
gì Công giáo đã gây ra cho nhân loại, chúng ta có thể tóm tắt sự thật đó trong
một câu ngắn gọn:
Tội ác của Công Giáo đối với nhân loại có thể
mô tả như sau, mượn lời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Quyết
Đông hải chi thủy, bất túc dĩ trạc kỳ ô;
Khánh
Nam sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác.
(Độc
ác thay, trúc rừng không ghi hết tội;
Dơ
bẩn thay, nước bể không rửa sạch mùi.)
bởi
vì, trong gần 20 thế kỷ, cả trăm triệu sinh mạng gồm già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ,
vô tội đã bị giáo hội, nhân danh cái gọi là “phúc âm, chân lý” của Chúa, bắt bớ,
giam cầm, tù đầy, bạo hành, tra tấn cực hình, cắt cổ, chôn sống, thiêu sống
v…v… chưa kể đến những hành động phá hủy đền thờ miếu mạo của các tôn giáo
khác, hoặc những hành động nhằm tiêu diệt các nền văn hóa phi Công Giáo
v..v… Đây là những sự kiện bất khả phủ
bác đã được ghi rõ trong sử sách.
Đi vào chi tiết, sự thật đó nằm trong những
lời xưng thú tội lỗi, dù rất đại cương, liên quan đến 7 “núi tội ác” của giáo hội,
được 5 Hồng Y và 2 Tổng Giám mục long trọng
tuyên đọc tại Thánh đường Phê-rô ngày 12 tháng 3, 2000. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận được hân hạnh
đọc lên những lời xưng thú tội lỗi trong mục chống lại công lý và hòa bình
v...v... của “hội Thánh” Công Giáo. Giáo
hoàng và ban tham mưu thần học của ông đưa ra những lời xưng thú tội lỗi tổng
quát trong 7 mục sau đây:
1. Xưng thú “tội lỗi chung”.
2. Xưng thú “tội lỗi trong khi phục vụ “chân
lý””.
3. Xưng thú “tội lỗi đưa đến sự chia rẽ giữa các
tín đồ Ki Tô”.
4. Xưng thú “tội lỗi trong sách lược bách hại
dân Do Thái”.
5. Xưng thú “tội lỗi trong những hành động với ý
muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không
tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển”.
6. Xưng thú “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ,
coi thường phẩm giá phụ nữ”.
7. Xưng thú “tội lỗi trong việc vi phạm những
quyền căn bản của con người”.
Vậy mà các con chiên Việt Nam vẫn rêu rao là
những quan niệm về tự do, nhân quyền v..v..
đều bắt nguồn từ Công Giáo [sic], trong khi bản chất Công giáo là một định
chế tôn giáo độc tài thần trị phi nhân quyền vào bậc nhất thiên hạ. LS Trần Lê
Nguyên trên trang nhà VietCatholic viết: “Tự do Ngôn Luận hay Tự Do Phát Biểu
là một trong những quyền căn bản tự nhiên do Thượng Đế ban cho con người được
hưởng, không phải do cá nhân, tổ chức hay Chế Độ Chính Trị nào ban phát cho người
dân.” Nhưng thử hỏi trong định chế Công
giáo, những quyền căn bản này có được tôn trọng hay không? LS Nguyên đã có bao giờ nghe đến những tên
như Linh mục Leonardo Boff, nhà thần học Công giáo nổi tiếng ở Ba Tây; Hans
Kung, nhà thần học Công giáo Đức; Linh mục Charles E. Curran, giáo sư thần học
Đại Học Công giáo Hoa Kỳ; Tổng Giám Mục Raymond Hunthausen ở Seattle v..v… Tất cả những chức sắc này trong Công Giáo đã
đều bị Vatican bịt miệng vì có những ý kiến không thuận tai những tên độc tài
trong Vatican. Mà họ bị ai bịt miệng,
chính là Hồng Y Ratzinger, Bộ Trưởng Thánh Bộ (sic) Truyền Giáo, nay lên làm
Giáo hoàng Benedict XVI. Có phải là những
con chiên Việt Nam, từ những bậc trí thức như LS Trần Lê Nguyên cho tới các con
chiên bình thường đều đã bị nhồi sọ tẩy não kỹ đến độ chỉ có thể lập lại những
điều “giáo hội dạy rằng…”, không hề biết đến thực chất độc tài thần trị của
Giáo hội Công giáo không? Hơn nữa, thời
buổi này mà nói đến những quyền do Thượng Đế ban cho mà không sợ người ta cười
cho hay sao? Đọc Thánh Kinh thì thấy Thượng
Đế hiện thân là một ác quỉ, vi phạm tất cả mọi quyền tự do của con người. Và đọc lịch sử Công Giáo thì chúng ta cũng thấy,
giáo hội Công giáo đã vi phạm mọi quyền tự do của con người, những quyền do sự
tiến bộ trí thức của con người nằm trong định luật Tiến Hóa hình thành, chứ chẳng
phải do một Thượng đế của người Do Thái ban cho. Ai phủ nhận điều này xin mời lên tiếng.
Học Hội Đức Giêsu KiTô Phục Sinh đã viết
trên trang nhà, www.kitohoc.com, ngày 5 tháng 4, 2000, một bài phê bình, gọi 7
núi tội lỗi trên là “sa mạc tội lỗi dàn trải hàng ngàn năm trên một địa bàn rộng
lớn toàn cõi Âu Châu, và các thuộc địa của Âu Châu trên khắp thế giới”, và gồm
“15 Lời Bàn” về việc Giáo Hoàng “xưng thú tội lỗi” và “xin được tha thứ”. Lời bàn
thứ 6 nguyên văn như sau:
“Giáo hội dạy giáo lý nhồi sọ giáo dân rằng
Tội là Quỷ Satan, và Quỷ Satan là Tội, người phạm tội là người của Quỷ Satan,
người có Tội là người bị Satan bắt linh hồn, nắm đầu nắm cổ và chịu sai khiến
như tù nhân khổ sai…Giáo hội Công giáo Rôma Latinh ôm ấp 7 mối tội to như 7
trái núi hàng ngàn năm. Và 7 chương tội
là 7 đàn quỷ có sừng có đuôi hàng triệu đứa, Giáo hội nằm gọn trong tay 7 đàn
quỷ và bị 7 đàn quỷ này thống trị. Nhưng
ngày xưng thú ngàn năm hi hữu này, Giáo hội còn thiếu một chương thứ 8 “về tội
trong hoàng cung và triều đình Giáo hoàng”.
Ví dụ Giáo hoàng Tây Ban Nha dòng Borgia là Alexander VI (1492-1503) hiện
nguyên hình là một “con quỷ râu xanh” loạn luân 3 đời trực hệ đàn bà, con trai
hắn là Cesare và con gái là Lucrezia lộng hành đến nỗi thay cha cai trị Giáo hội,
có lần Lucrezia ngồi trên Tòa Phêrô và các triều thần, các thầy dòng xúm vào
hôn chân nàng… Đây là chuyện “thất tình
lục dục” của ngàn năm thứ hai, nếu ngược lên ngàn năm thứ nhất, có chuyện cổ
kim Đông Tây độc nhất vô nhị là “Phiên Tòa Đại Hình Khai Quật Xác Giáo Hoàng
Formosus (891-896) chết đã mục xương ngồi vào ghế bị cáo”, sử gọi là “Cadaver
Synod”, một phiên tòa Giáo hoàng xử tội Giáo hoàng mà người đời mường tượng ra
cảnh dưới âm ti cắt lưỡi móc mắt chặt từng ngón tay, tùng xẻo phân thây ra trăm
mảnh ném xuống sông Tiber. Năm sau, Giáo
hoàng Stephen VI và người bố trí phiên tòa xử xác chết này bị lật đổ, bị tù và
bị thắt cổ cho chết. Hàng trăm cuộc phế
lập, tranh quyền, thanh trừng, cướp ngôi Giáo hoàng cực kỳ hung bạo, tàn nhẫn,
vô luân, y hệt thời Xuân Thu Chiến Quốc.”
Dù trong bản văn xưng tội giáo hoàng và ban
tham mưu của ông chỉ đưa ra những lời hết sức đại cương, tránh né chi tiết và
nhiều trường hợp trọng đại trong lịch sử Công Giáo và trong nội bộ Giáo hội,
hành động xưng tội này cũng có một ảnh hưởng trên toàn thế giới. Ảnh hưởng như thế nào, đó là tùy theo sự nhận
định của mỗi người.
Đối với dân tộc Việt Nam, những lời xưng thú
tội lỗi của Giáo hội Công Giáo như trên đã bạch hóa nhiều sự kiện lịch sử. Những tác phẩm ngụy sử để biện bác, bào chữa
cho Công Giáo Giáo ở Việt Nam của những tín đồ Công Giáo Việt Nam như Phan Phát
Huồn, Vũ Đình Hoạt, Bùi Đức Sinh v..v.. đã trở thành vô giá trị. Vì sự bách hại đạo Công Giáo ở Việt Nam không
bắt nguồn từ lý do tôn giáo mà vì ý muốn thống trị của Công Giáo, vì thái độ
thù nghịch của Công Giáo đối với các tôn giáo truyền thống của dân tộc Việt
Nam, vì sự liên kết của Giáo hội Công Giáo với những thế lực thực dân đưa đến sự
đô hộ Việt Nam của Pháp, vì sự coi thường, không tôn trọng nền văn hóa và luật
pháp Việt Nam, vì đã đào tạo một lớp giáo dân cuồng tín, sẵn sàng phản bội quốc
gia, vì đã khích động gây nội loạn trong đất nước Việt Nam v…v… Tất cả những điều này đã được sử sách ghi
rõ. Những lý do cấm đạo mà những tín đồ
cuồng tín Công Giáo bịa ra như các Vua Triều Nguyễn thù nghịch Công Giáo vì đạo
này đối nghịch với Nho Giáo, giới Văn Thân “Bình Tây Sát Tả” vì Công Giáo làm
cho họ mất thế đứng trong xã hội hay mất nồi cơm, vì đạo Công Giáo chủ trương
công bằng, bác ái v..v… nay đã không còn một giá trị nào, vì toàn bộ những luận
cứ này đã bị Giáo hoàng phủ bác dứt khoát qua những lời xưng thú tội lỗi trên.
Mặt khác, những lời xưng thú tội lỗi của
giáo hội đã bảo đảm giá trị của những tác phẩm nghiên cứu về Công Giáo trên thế
giới, và của một số tác giả Việt Nam: ví dụ như cuốn Đạo Thiên Chúa Và Chủ
Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam của Cao Huy Thuần, cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm của
LM Trần Tam Tĩnh, cuốn Công Giáo Chính Sử của Trần Chung Ngọc, cuốn Thực Chất Của
Giáo Hội La Mã của Nguyễn Mạnh Quang, cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm của giáo
dân tỉnh ngộ Charlie Nguyễn. cuốn “Ki Tô Giáo: Những Khuyết Điểm” của Bác sĩ Trần
Quý Nhu, cuốn “Công Giáo: Nhận Định Mới về Tín Lý và Giáo Lý ” của Bác sĩ Công
giáo tỉnh ngộ Nguyễn Văn Thọ v..v.. vì trong những cuốn này, các tác giả không
làm chuyện gì khác hơn là đưa ra phần nào chi tiết sự thật về thực chất và những
tội lỗi của Công Giáo đối với nhân loại nói chung, đối với Việt Nam nói riêng,
những sự thật mà Giáo Hoàng, đại diện cho Công Giáo, đã thừa nhận qua những lời
xưng thú tội lỗi tổng quát và xin được tha thứ ở trên.
Vì giáo hoàng đã công khai xưng thú tội lỗi
của Giáo hội Công Giáo đối với nhân loại, những tác phẩm vạch trần những sự thực
và những tội lỗi của Công giáo ngày nay đã được bảo đảm giá trị trí thức. Giáo
hội và các tín đồ Công Giáo Việt Nam cuồng tín không còn có thể tiếp tục theo
sách lược vu khống từ trước tới nay của giáo hội, lên án các tác phẩm nghiên cứu
sự thật trên là chống Công Giáo, hay là chụp mũ Cộng Sản chống tôn giáo, hoặc
là tác phẩm của những kẻ thù của Công Giáo v..v...
Theo lời diễn giải của giáo hội thì hành động
xưng thú tội lỗi này là để thanh tẩy ký ức (purification of memory) có tác dụng
cất bỏ mặc cảm tội lỗi của giáo hội qua hành động ăn năn thống hối và thú nhận
tội lỗi. Một ký giả đã nhận xét như sau: Nhưng nếu Giáo hoàng cho rằng, với những
lời xưng thú tội lỗi của giáo hội, đọc lên trong vài mươi phút, là có thể xóa bỏ
cái lịch sử 2000 năm chứa đầy tội ác của giáo hội thì Ngài đã lầm. (If the pope
thinks that he can wipe out the criminal record of the Church in the last 2000
years in a 15-minute sermon, he’s wrong.)
Tờ Newsweek ngày 20 tháng 3, 2000 cũng viết: Nhưng làm sao mà Giáo hoàng nào có thể giải
thích được, đừng nói đến thống hối, mọi tội lỗi mà giáo hội đã phạm nhân danh đức
tin Công Giáo trong ngàn năm qua? (But how can any pope account for, much less
repent for, all the sins committed in the name of the Catholic faith over the
past thousand years?) Kết luận:
"Xin được tha thứ" chỉ là một bước đi chính trị để xoa dịu dư luận quần
chúng trong một thế giới mà sự tiến bộ trí thức không cho phép giáo hội hành xử
như trước, vì như học giả John Remsburg đã viết: bó củi (để thiêu sống người)
và cây gươm (để giết người) đã bị tước đoạt khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo
hội (The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands...), hoặc
che dấu sự thực lâu hơn nữa. Học Hội Đức
Giêsu Ki Tô Phục Sinh cũng viết trong lời bàn thứ 7 như sau:
“Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7
chương tội đối ngoại - và một chương tội đối nội là 8 - nghệ thuật tuyên truyền
của Giáo hội Roma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ
thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời:
Giáo hội là Thánh, Giáo hội là Mầu Nhiệm, Giáo hội là Bí Tích, Giáo hội là Hiền
Thê đức Giêsu, Giáo hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền,
Giáo hội là Vương Quốc của Thiên Chúa…
Giáo hội tự nhận cho mình tất cả những khái niệm (sic) cao cả thánh thiện,
vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù
nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, Giáo
hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt thần học”
lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một
cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật “núi tội thành
con chuột”, “kẻ cướp mặc áo thầy tu”, và “quỷ Satan có diện mạo ông thánh.”
Không ai hiểu rõ đạo mình hơn nhóm Ki Tô Học
và khó ai có thể phủ bác được những lời bàn của nhóm này.
Mặt khác, giáo hoàng có thể tự ban cho mình
cái quyền đại diện cho giáo hội để xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ, nhưng
ai là người đại diện cho hàng chục triệu nạn nhân của giáo hội Công giáo trong
suốt 2000 năm qua, những nạn nhân đã bị giáo hội nhân danh "tình yêu
thương" của Chúa, nhân danh chương trình "cứu rỗi" của Chúa,
nhân danh "chân lý" của Chúa, nhân danh sự "mạc khải" của
Chúa v..v.., chà đạp nhân phẩm, bắt bớ, giam cầm, tra tấn cực hình, cắt cổ,
chôn sống, thiêu sống, tàn sát tập thể trong sách lược diệt chủng v..v.. để mà
tha thứ cho giáo hội?
Giáo hoàng và 5 hồng y cùng 2 tổng giám mục
của ông đã xưng thú tội lỗi của giáo hội Công giáo trước công chúng và xin được
tha thứ. Nhưng, một ủy ban các nhà Thần
học do Vatican bổ nhiệm, đã tung ra một văn kiện dài 30 trang, giải thích căn bản
triết lý và thần học của việc xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ của giáo
hoàng và viết rõ là sự xưng tội trong toàn thể giáo hội là xưng tội cùng
Chúa. (Steve Kloehn in Chicago Tribune,
March 13, 2000: Last week, a panel of
Vatican-appointed theologians released a 30-page document laying out the
philosophical and theological basis for the pope’s apologies and repentance -
the document makes it clear that churchwide confession is addressed to
God). Trong bản văn này, Giáo hội cũng
trốn trách nhiệm, đổ tội lên đầu các tín đồ, vài (sic) con cái của Giáo hội gây
ra tội ác, chứ còn giáo hội thì vẫn “thánh thiện bởi vì Chúa Ki Tô là Thủ Lãnh
và là vị hôn phu của giáo hội; Chúa Thánh Thần là linh hồn linh động giáo hội
v..v..” (Báo Dấn Thân số 35, trang 4).
Dù văn kiện này chỉ có mục đích vớt vát mặt mũi và uy tín của giáo hội
nhưng không có cách nào giáo hội có thể hòa hợp một tín lý chính thức của giáo
hội: rằng giáo hội là nhiệm thể của Chúa Ki Tô (the mystical body of Christ),
do đó không thể nào gây ra tội lỗi (incapable of sin), với thực tế hiển nhiên
là giáo hội như một định chế (institution), đã gây ra nhiều tội lỗi. Linh mục Thomas Reese, một sử gia Công giáo,
cũng phải thú nhận rằng: “Cần phải nhấn mạnh rằng, con cái của giáo hội gồm những
giáo hoàng, hồng y, giám mục và linh mục chứ không phải chỉ có những tín đồ
thông thường ngồi trên ghế nhà thờ.” (It should be emphasized that the
“children” of the church include popes, cardinals, bishops, clergy and not just
the people in the pews.) Giáo hoàng, hồng
y, giám mục, linh mục là những người quyết định và thi hành đường hướng hoạt động
của giáo hội, còn đám con chiên ngu ngơ ở dưới thì “bề trên” bảo sao nghe vậy,
tuyệt đối tuân phục không có ý kiến. Điều
này có nghĩa là, những tội ác của Công Giáo đối với nhân loại không phải là do
“một vài (sic) anh em chúng ta đã sa ngã” (some of our brothers have fallen)
gây nên, mà chính là trách nhiệm của giáo hội, như tôi sẽ trình bày với vài chi
tiết trong phần sau. Vả chăng, nếu chỉ cần
xưng tội với Chúa thì cứ đóng kín cửa thánh đường Phê-rô mà xưng tội, việc gì
phải làm công khai để quảng cáo trước quần chúng? Thủ đoạn vớt vát uy tín này đã gây nhiều bất
mãn trong dư luận thế giới. R. J.
Weissman viết trong tờ Chicago Tribune ngày 16 tháng 3, 2000:
“Sự xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ của
giáo hoàng không đặc biệt làm tôi khó chịu vì ông ta không nhắc gì tới những Lò
Thiêu Sống của Đức Quốc Xã. Nó thực sự
làm tôi khó chịu vì giáo hoàng không xin được tha thứ từ những kẻ đã phải đau
khổ gánh chịu những sự tàn bạo ác độc.
Con người là phần sống quan trọng nhất trên trái đất.. Tại sao giáo
hoàng không nhận ra điều này? Tôi là một
người không chấp nhận lời xin lỗi của giáo hoàng đối với Chúa. Có thể đó là một bước đi đúng đường. Nhưng tôi nghĩ rằng đó là sự trốn tránh trách
nhiệm.”
(It doesn’t particularly bother me that the
Holocaust was not mentioned. It does
bother me that the pontiff has not ask forgiveness from the people who suffered
the atrociries. People are the most
important part of life on Earth…Why doesn’t the pontiff recognize this. I, for one, do not accept his apology to
God. Perhaps it is a step in the right
direction. But I think that it is an
avoidance of responsibility.)
Thật vậy, Chúa, một sản phẩm do óc tưởng tượng
của con người tạo ra, không phải là nạn nhân của giáo hội, mà nạn nhân chính là
những con người bằng xương bằng thịt, máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, như Giêsu
khi còn sống, như các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, và
như tất cả mọi người chúng ta. Chúa đã
chết trên thập giá từ lâu. Chúa không bị
giáo hội Công Giáo tù đầy, tra tấn cực hình, thiêu sống, giết chóc v…v…, mà
chính là con người, hàng chục triệu con người.
Phạm tội đối với con người mà lại xưng tội cùng Chúa, một nhân vật đầy
huyền thoại tính và không có một căn bản thuyết phục nào, về hiện thực cũng như
về khoa học, để chứng tỏ rằng Chúa có thể chuộc tội hay tha thứ tội lỗi của con
người, một nhân vật đã được một số đệ tử dựng lên với nhiều chi tiết mâu thuẫn
và sai lầm như được viết trong Thánh Kinh, thì chuyện “xưng tội cùng Chúa” đúng
là chuyện phi lý, chỉ có giáo hội Công Giáo mới có thể làm như vậy. Giáo hội vẫn
giữ thái độ kiêu căng tự tôn của thời Trung Cổ: cho rằng chỉ có Chúa là có quyền
tha tội cho giáo hội. Đây cũng là điều
mà khi xưa giáo hội đã từng áp dụng ở bất cứ nơi nào giáo hội có quyền hành và ở
thế mạnh: những linh mục, giám mục v..v.. của giáo hội, bất cứ họ làm điều ác
ôn nào, không ai có quyền phán xét họ ngoài Giáo hội. Nói tóm lại, Chúa chỉ là cái bung xung mà
giáo hội đưa ra để tha hồ làm điều ác, vì làm xong chỉ việc xưng tội với Chúa,
xin Chúa tha tội là ký ức đã được thanh tẩy, là mặc cảm tội lỗi đã được cất bỏ,
là lương tâm lại yên ổn để tiếp tục làm ác, nếu ở vị thế có quyền hành và có cơ
hội thuận tiện. Chúa chỉ là cái bình
phong giáo hội đưa ra để che đậy, bảo vệ và duy trì định chế độc tài của chính
giáo hội chứ thật ra chẳng làm gì có chuyện Chúa tha tội hay không tha tội. Chúng ta cũng biết, ở Việt Nam, khi các con
chiên phàn nàn về mấy ông linh mục làm bậy thì giám mục “bề trên” cũng khuyên rằng:
“các con đừng có nói hành các cha mà mang tội với Chúa”. Điều này có nghĩa là “cha cũng như Chúa”, đưa
Chúa ra làm bung xung che đỡ cho những hành động bậy bạ của các cha “bề
trên”. Nhưng ở Bắc Mỹ thì tín đồ Công
Giáo tiến bộ hơn nhiều. Tín đồ đã đưa
hơn 5000 ông “cha cũng như Chúa” can tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ vị
thành niên ra tòa, và kết quả là nhiều ông “cha cũng như Chúa” vào tù ngồi đếm
lịch, chờ ngày lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa, và giáo hội đã phải bỏ ra
gần 2 tỷ đô la để trả tiền tòa phạt bồi thường cho các nạn nhân. Tiền ở đâu mà giáo hội có nhiều thế? Chắc chắn một phần là do giáo dân đóng góp “để
giáo hội làm việc thiện xã hội.”
Nhưng xét cho cùng thì vấn đề chính là: Nếu chúng ta không thể tha thứ cho những sự độc
ác của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng không thể tha thứ cho 7 núi tội ác của
Giáo hội Công giáo La Mã. Tại sao chúng
ta không thể tha thứ cho Thiên Chúa? Bởi vì đọc trong Thánh Kinh, người ta đã đếm
số người mà Thiên Chúa giết bừa bãi là 2,270,365+ [hơn 2 triệu 2 trăm 70 ngàn 3
trăm 65 người, Posted by Steve Wells at 8/02/3006] gồm cả đàn bà và trẻ con, đó
là chưa kể số người chết trong nạn Hồng Thủy, trong thành Sodom và Gomorrah
v..v.. hay trong các bệnh truyền nhiễm như dịch hạch mà Thiên Chúa gây nên
không thể đếm được, trong khi Satan chỉ giết có 10 người. [No attempt was made
to include the victims of Noah's flood, Sodom and Gomorrah, or the many
plagues, famines, fiery serpents, etc., with which the good book is
filled.] Về Công giáo, trong giòng lịch
sử, Giáo hội Công giáo đã giết nhiều người
hơn Thiên Chúa của họ gấp bội. Do
đó những người có lương tâm của con người như chúng ta làm sao có thể tha thứ
cho những tội ác của giáo hội Công giáo?
Không
tha thứ cho Giáo hội Công giáo không có nghĩa là bắt giáo hội phải đền tội,
chúng ta không có khả năng như vậy.
Không tha thứ cũng không có nghĩa là chúng ta phải mang lòng hận thù và
có những hành động bạo hành đối với giáo dân Công giáo. Chúng ta không muốn như vậy, người Việt Nam chúng ta văn minh tiến
bộ không như người Công giáo, tàn bạo đối với những người khác đạo. Nhưng điều mà chúng ta có thể làm để tỏ thái
độ không tha thứ của chúng ta, đồng thời có tính cách xây dựng, là thường xuyên
nhắc lại 7 núi tội ác của Công giáo để giáo dục những người Công giáo cho đến
khi mọi người Công giáo và người ngoại đạo đều ý thức được cái lịch sử ô nhục đẫm
máu của Công Giáo để mà sửa mình, giữ mình, chọn cho mình một con đường tâm
linh lành mạnh hợp lý, đầu óc không mang gánh nặng tỳ vết của sự bạo tàn, vô
luân, phi dân tộc hay phản dân tộc.
Nhìn kỹ vào vấn đề xưng tội cùng Chúa và xin
Chúa tha thứ, chúng ta thấy có nhiều điều không ổn, và việc xưng tội cùng Chúa
không hợp với lôgic thông thường, không có căn bản vững chắc, thực chất chỉ là
một thủ đoạn của giáo hội trước đám tín đồ thấp kém bị huyễn hoặc bởi những luận
điệu đầy tính chất mê tín dị đoan. Tại
sao? Vì giáo hội đã theo đúng những lời
trong Thánh Kinh, được coi là chứa những lời mạc khải không thể sai lầm của
Chúa, nên mới có những hành động dã man tàn bạo đối với nhân loại. Chúa không
thể tha thứ cho giáo hội, vì chính Chúa
là nguồn cảm hứng và cũng là nguồn chỉ đạo tâm linh cho giáo hội, hướng dẫn
giáo hội. Mọi tín đồ Công giáo, từ Giáo hoàng trở xuống, đã được Thánh Linh hay
Chúa Thánh Thần vào ngự trong người, mà Chúa Thánh Thần là linh hồn linh động
giáo hội [theo báo Dấn Thân của Công Giáo].
Vậy nếu giáo hội phạm tội, thì theo một nghĩa nào đó, tội của Chúa Thánh
Thần, alias Chúa Cha, alias Chúa Con (Giê su), theo thuyết Chúa Ba Ngôi của
Công giáo, nặng hơn tội của giáo hội, vì giáo hội chỉ là cấp thừa hành. Đây không phải là những lời vô căn cứ, có
tính cách phỉ báng Chúa, mà dựa trên sự kiện như được chứng minh qua những luận
cứ sau đây.
Đọc Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta
thấy rõ ràng là những hành động tội lỗi của Giáo hội Công giáo trong 2000 năm
qua bắt nguồn từ những luật lệ, những điều
Chúa Cha cũng như Chúa Con dạy trong Thánh Kinh. Trích dẫn tất cả những điều này từ Thánh Kinh
ra để chứng minh luận cứ trên thì chiếm quá nhiều chỗ trong bài, cho nên tôi chỉ
đưa ra vài tài liệu của một số học giả trong xã hội Âu Mỹ:
David Voas, Giáo sư đại học tiểu bang New
Mexico (New Mexico State
University), trong cuốn
"Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước" ("The
Bad News Bible: The New Testament", trg. 1 - 2) đã viết về nội dung tổng
quát của cuốn Tân Ước như sau:
"Vấn đề là người ta nghĩ rằng người
ta biết ở trong Thánh kinh có những gì, hoặc ít nhất là Thánh kinh chứa loại
tài liệu gì. Hầu hết đều lầm, họ chỉ
quen thuộc với vài đoạn trích dẫn đã được giáo hội chấp thuận, và họ sẽ ngỡ
ngàng khi thấy không những Thiên Chúa trong Cựu Ước khủng khiếp dễ sợ như thế
nào, mà con của hắn (nghĩa là Giê-Su;
TCN) trong Tân Ước cũng còn ở dưới mức
hoàn hảo khá xa. Thông điệp của Giê-su
không hẳn toàn là tin mừng, thiên đường nhiều nhất là một viễn cảnh không chắc
chắn. Xét về toàn bộ thì đó rất có thể
là cuốn Thánh kinh mang tới tin xấu."
(The problem is that people think they know
what's in the Bible, or at least what kind of material it contains. Most of them are wrong: they are only
familiar with a few church-approved extracts, and are astonished not just how
awful God is in the Old Testament, but also at how much less than perfect his
son seems in the New. The message of
Jesus isn't all good news; paradise is an uncertain prospect at best. Taken as a whole, it could well be The Bad
News Bible.)
Tiến sĩ Madalyn O’Hair, trong cuốn Tất Cả
Những Điều Mà Bạn Muốn Hỏi Những Người Mỹ Vô Thần (All The Questions You Ever
Wanted To Ask American Atheists), đã viết về ảnh hưởng của điều răn thứ nhất
trong Cựu Ước và điều Giêsu truyền các tông đồ phải đi cải đạo người khác (ngày
nay các học giả nghiên cứu Tân Ước đã chứng minh rằng đây chỉ là câu được ngụy
tạo và thêm vào Thánh Kinh về sau để biện minh cho sự bành trướng của Công giáo
trên thế giới, vì câu này mâu thuẫn với nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh nói về
sự tái giáng trần của Giêsu và ngày phán xét đã gần kề, ngay trong thế hệ của
những người sống đồng thời với Giêsu. TCN) như sau:
“Cái tiền đề căn bản của Ki Tô Giáo là không
khoan nhượng các tôn giáo khác. Tín đồ
Ki Tô không thể chỉ theo tín ngưỡng của mình và để cho mọi người khác tự do
theo tín ngưỡng của họ. Giê-su đòi hỏi rằng
các tín đồ Ki Tô phải đi cải đạo người khác (nghĩa là cưỡng bách người khác phải
tin vào đạo Giê-su, thực ra điều này chỉ là sự ngụy tạo của giáo hội Công giáo)
và điều này đã gây nên nhiều sự đau khổ cho nhân loại hơn bất cứ tôn giáo nào
khác. Những Thần của tôn giáo đa thần sống
hòa bình với nhau. Nhưng khi Ki Tô Giáo
xuất hiện với tính cách duy nhất của nó, dựa trên điều thứ nhất của mười điều
răn, “Ngươi không được có Thần nào khác ngoài Ta”, thì sự giết chóc bắt đầu.”
(The basic premise of Christianity is
intolerance. The Christian cannot just
have his belief and permit everyone else to have theirs. Jesus Christ demanded that the Christian
convert and this has caused more grief to mankind than any other religion. The old pagan gods lived side by side. But when Christianity came with its
exclusivism, based on the first of the Ten Commandments, “Thou shalt have no
other god before Me,” the killing began.)
Mục sư Ernie Bringas viết về ảnh hưởng của sự
tin mù quáng vào Thánh kinh như sau trong cuốn
Những Thảm Họa Trong Quá Khứ và Hiện Tại Do Sự Sùng Tín Thánh Kinh
(Going by the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority) trg. 17-18:
"Trải qua nhiều thế kỷ, sự sùng tín
Kinh Thánh đã dẫn tín đồ Ki Tô trong một niềm tin mù quáng, trong sự khủng bố,
ngược đãi người Do Thái và những người phi Ki-Tô, giết hại và khủng bố, áp bức
phái nữ, đè nén dục tính, kiểm duyệt, tạo tâm
lý tôn sùng, và nhiều lầm lạc
khác. Những mô thức hành xử có tính cách
hủy diệt này, người ta có thể thấy dễ dàng là chúng bắt nguồn từ sự tin vào quyền
năng tuyệt đối của những điều viết trong Thánh Kinh…
Ki Tô Giáo đã để lại một dấu vết kinh
khoàng, khổ sở và chết chóc như đã được ghi trong những trang sử đẫm máu. Và những biến cố tàn ác, lố bịch trong sử
sách đã được gây ra dưới ảo tưởng (đôi khi là cái cớ): đó là sự chỉ đạo của
Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, là những thí dụ chủ yếu về một niềm tin bị lạc dẫn."
(Over the past centuries, bibliolatry has led
Christians in bigotry, the
persecution of Jews
and other non-Christians, murder and terrorism, the
oppression of women, the suppression of sexuality, censorship, cult mentality,
and other aberrations. The destructive
behavior patterns can be easily
traced to the unchallenged authority accorded biblical writing.
Christianity has left an appalling trail of
misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And the cruel, grotesque events they record
are prime examples of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometime
pretext) of divine guidance.)
Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia lỗi lạc
của Mỹ vào cuối thế kỷ 19, đã đưa ra một thách đố: ông sẽ tặng một giải thưởng là $100 (năm
1890) cho vị linh mục hay mục sư nào
dám lên bục giảng, giảng
những đoạn mà chính Ingersoll
trích dẫn từ Thánh kinh. Trong nhiều
năm, không có một người nào nhận lời thách đố này cả. Một người có óc suy luận tối thiểu có thể mường
tượng
ngay ra là nội dung những đoạn đó
trong Thánh Kinh nó như thế nào. Ông viết
về những tác hại của Thánh Kinh và của niềm tin vào Chúa trên nhân loại:
" Nhân danh Chúa Ki Tô hàng triệu nam nữ
đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu
gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của
những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia
bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong phúc âm của hắn chúng ta thấy cái tín
lý về sự đau khổ vĩnh viễn, và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận
vào sự chết. Phúc âm của hắn chất đầy thế
giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh
phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như
là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và
tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại
sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan
niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra."
(In Christ name millions and millions of men
and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been
enslaved. In his name the thinkers, the
investigators, have been branded as criminals, and his followers have shed the
blood of the wisest and the best. In his
name the progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal
pain, and his words added an infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred and
revenge, made intellectual honesty a crime, made happiness here the road to
hell, denounced love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry
and destroyed the liberty of man.
It would be far better had the New Testament
never been written - far better had the theological Christ never lived.)
Nhưng rõ ràng hơn cả là những đoạn sau đây của
Jack Bays viết trong cuốn Hình Bóng Của Quỷ (The Shadow Of The Demon), trg. 6-7, về những điều độc ác phi lý trong Thánh Kinh,
những điều đã làm nguồn cảm hứng cho những hành động của Giáo hội Công giáo sau
này:
“Theo Thánh Kinh, hơn 99% những sự trừng phạt
của Chúa Cha là đổ lên đầu những người vô tội - những người không hề dính líu
gì tới những trường hợp để Chúa phải trừng phạt.
Vì Adam ăn một trái táo mà cả nhân loại bị
đày đọa: “Vì sự xúc phạm của một người, cả nhân loại bị kết án và luận phạt”
(Rom: 5:18). Những tư tưởng như vậy là từ
đầu óc của một người man rợ không hề có một mảy may ý niệm nào về công lý.
Chúng ta được biết Thiên Chúa mang 10 tai họa
đến cho dân Ai Cập vì tim của Vua Ai Cập (Pharaoh) trai cứng (nghĩa là tàn nhẫn.
TCN). Những người dân này không liên
quan gì tới việc Pharaoh có trái tim trai cứng.
Tuy vậy, gia súc của họ bị chết hết, mùa màng hư hại, vườn tược suy sụp,
nhà cửa đổ nát, và tất cả những đứa con sinh đầu lòng đều bị giết. Nếu là lỗi của Pharaoh thì chỉ mình Pharaoh
phải gánh chịu tai họa mà thôi. Và chúng
ta cũng biết, chính Thiên Chúa đã làm cho trái tim của Pharaoh trai cứng.
Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa đã dạy dân mà
Ngài đặc biệt chọn (Do Thái) làm tội ác và giúp dân này thực hiện những tội
ác. Thiên Chúa giúp Jacob lừa dối cậu của
hắn ta (Gen: 30: 27-43), và Thiên Chúa dạy dân ngài chọn đi lừa dối dân Ai Cập
trong một cuộc lừa đảo lớn nhất trong lịch sử (Exo: 11: 2-4). Dân Ai Cập không trả công đủ cho dân Do Thái
(đang làm nô lệ ở Ai Cập. TCN), cho nên, bài học luân lý vĩ đại của Thiên Chúa
là: nếu chủ ngươi không trả công xứng đáng cho ngươi thì ngươi hãy ăn cắp của
chủ để bù vào sự thiệt hại này.
Những chuyện này trong Thánh Kinh chứng tỏ
những người viết Thánh Kinh có đầu óc của những dân man rợ, không có một ý niệm
nào về công bằng và bác ái. Trong những
cuộc chiến tranh chiếm đất phát động bởi “dân được Thần chọn”, lệnh truyền ra
là phải giết sạch mọi người, già hay trẻ.
Ít ra là trẻ thơ không có tội tình gì và tội lỗi duy nhất của những người
lớn tuổi là họ có đất đai và con gái mà những kẻ man dại, liều lĩnh, muốn chiếm
hữu. Những nạn nhân này cũng là người có
tín ngưỡng khác, và sự khoan nhượng tín ngưỡng của người khác là điều mà Thiên
Chúa quyết định cấm, theo như Thánh Kinh.
Dân “thánh Chúa” được lệnh phải tiêu diệt tất cả những ai không cùng tín
ngưỡng. Thánh Kinh dạy chúng ta là phải
giết ngay cả con trai, con gái, cha, mẹ chúng ta nếu những người này không theo
tôn giáo của chúng ta. (Phục Truyền 13: 6-10).”
(More than 99% of all the punishment meted
out by God, according to the Bible, was upon innocent people - people not even
accused of having anything to do with the incidents that brought on the
punishment.
Because Adam ate a certain apple all mankind
is doomed: “By the offense of one, judment came upon all men to condemnation”
(Rom: 5:18). Such thoughts came from the
mind of a savage who never had the slightest conception of justice.
We are told that God brought the ten
scourges upon the Egyptians because Pharaoh’s heart was hardened. These people had nothing to do with the
hardening of Pharaoh’s heart. Yet their stock was killed, their crops ruined,
their orchards destroyed, their buildings broken down, and their first born
killed. If it was Pharaoh’s fault then
he alone should have suffered. As the
story goes it was God who hardened his heart..
According to the Bible, God taught his
chosen people crime and aided them in it.
He helped Jacob cheat his uncle (Gen: 30: 27-43), and he taught and
helped his chosen people defraud the Egyptians in the largest con game in
history (Exo: 11: 2-4). The Egyptians
did not pay the Israelites enough, so the great moral lesson seems to be that
if your boss does not pay you enough you are supposed to steal from him to make
up for it.
These stories show that the Bible writers
had the minds of barbarians with no conception of mercy or justice. In the wars of conquest waged by the “chosen
people of God”, the command was for slaughter of old and young. At least the children were innocent of
anything wrong and the only sin for which adults were being punished was that
they had lands and young daughters that these wild, ruthless barbarians
wanted. The victims had different
religious ideas, too, and religious tolerance was positively forbidden by God
according to the Bible. The “holy
people” were to exterminate all who had a different religion. The Bible commands that son, daughter, father
or mother be killed if they differ with us in religion. (Deut: 13: 6-10)).
Từ vài tài liệu nêu trên, đây chỉ là một số
nhỏ trong số rất nhiều tài liệu khảo cứu chính xác về Ki Tô Giáo hiện hữu ngày
nay, và đọc lịch sử Công giáo, chúng ta đã hiểu tại sao “hội thánh” Công giáo lại
phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại. Chúng ta đã hiểu tại sao, trong cuộc
Thánh Chiến Albigense, khi một sĩ quan hỏi đại diện của Giáo hoàng đương thời:
“Làm sao phân biệt được ai là tín đồ Công giáo (catholics) và ai là kẻ lạc đạo
(heretics)” thì câu trả lời là: “Giết hết đi, Thiên Chúa sẽ nhận biết ai là tín
đồ của Người” (Kill them all. God will
recognize His own.). Vì câu trả lời này
mà trên 15000 người trong thị trấn Béziers, không phân biệt già trẻ lớn bé, đàn
ông, đàn bà, con nít đều bị tàn sát không nương tay. Chúng ta đã hiểu tại sao giáo hoàng Paul IV lại
có thể tuyên bố: “Nếu cha tôi lạc đạo (nghĩa là không tin Chúa như tôi tin) thì
tôi sẽ đích thân đi lượm củi để thiêu sống ông ta.” (If my own father were a
heretic, I would personally gather the wood to burn him.); tại sao chính quyền
Công giáo của Ante Pavelic ở Croatia trong kỳ đệ nhị Thế Chiến, trong đó có các
linh mục, giám mục làm trưởng trại giam, làm cấp chỉ huy trong tổ chức Ustashi,
đã tàn sát, cắt cổ, thiêu sống khoảng 700000 người “ngoại đạo” theo Chính Thống
Giáo hoặc Do Thái; tại sao chính quyền Ngô Đình Diệm, người được Hồng Y
Spellman đặt lên ở Nam Việt Nam, người đã bị gọi là một Phán Quan Tây Ban Nha,
đã giết trên 3 trăm ngàn người “ngoại đạo” sau cái bình phong “chống Cộng”, đã
dung túng cho các linh mục, giám mục buôn lậu, chiếm đất công làm nhà thờ, dung
túng cho người em vô tài vô đức như Ngô Đình Cẩn tổ chức mật vụ miền Trung, muốn
giết ai thì giết, muốn cướp đoạt tài sản của ai thì cướp v..v…; tại sao Công
giáo tại Việt Nam đã làm tay sai cho Pháp, phản bội dân tộc, và rồi dựa vào
quan thầy Thực dân Pháp để chiếm đất Chùa làm nhà thờ, ví dụ như nhà thờ lớn ở
Hà Nội, nhà thờ La Vang ở Quảng Trị, nhà thờ Đức Bà ở Sài gòn v..v.. đều làm
trên đất cưỡng chiếm của Phật Giáo.
Thật là rõ ràng, nguồn gốc tội lỗi của Giáo
hội Công giáo là ở trong Thánh Kinh. Tất
cả tội ác của Giáo hội Công giáo đối với nhân loại là do sự tin tưởng của Công
giáo vào những lời “mạc khải” không thể sai lầm của Thiên Chúa (Christian God)
được viết trong Thánh Kinh. Từ những thế
kỷ đầu, Giáo hoàng đã ra lệnh đốt sách vở ngoại đạo. Giáo hoàng Urban II phát động cuộc Thánh Chiến
đầu tiên vào cuối thế kỷ 11; Giáo hoàng Gregory IX ký sắc lệnh thiết lập những
Tòa Hình Án xử Dị Giáo vào thế kỷ 13 và sau đó, Giáo hoàng Innocent IV ký sắc lệnh
cho phép những Tòa Hình Án dùng cực hình tra khảo để lấy những lời “thú tội” của
những người mà giáo hội kết án là lạc đạo hay dị giáo; các Giáo Hoàng Martin V,
Callistus III, Alexander VI, trong thế kỷ 15, ký sắc lệnh cho dân Chúa đi ăn cướp
đất đai, chiếm thuộc địa, và cưỡng bách dân thuộc địa phải làm nô lệ, phải cải
đạo. Giáo hoàng là ai? Chính là đại diện của Chúa trên trần (Vicar
of Christ), không thể sai lầm trong những quyết định về Đức Tin hay đạo đức
(Infallible in matters of Faith or Morals).
Như vậy, xưng thú tội lỗi và xin Thiên Chúa tha thứ cho những hành động
bắt nguồn từ chính những luật lệ và điều răn, điều dạy của Thiên Chúa trong
Thánh Kinh là một điều khôi hài đối với người ngoại đạo, những người đã hiểu rõ
Thánh Kinh và nguồn gốc những tội ác đối với nhân loại của Công giáo. Nhưng ít ra, hành động xưng thú tội lỗi và
xin tha thứ này cũng làm sáng tỏ một điều:
những lời mà Giáo hội cho là “mạc khải” không thể sai lầm của Thiên Chúa
trong Thánh Kinh chẳng qua chỉ là sản phẩm của những đầu óc mọi rợ của thời bán
khai, đầu óc của những người viết Thánh Kinh, không có một ý niệm nào về đạo đức
và công bằng, như Jack Bays đã viết ở trên.
Do đó, những lời “mạc khải” này không còn một mảy may giá trị trong ánh
sáng của khoa học, hoặc theo tiêu chuẩn luân lý và đạo đức của chúng ta ngày
nay. Đây chính là những sự thật mà tín đồ
Công giáo cần phải biết qua việc xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ của Giáo
hoàng để mà tự đó họ có thể được giải phóng.
Xin
xem phim tài liệu “La Maitresse du Pape” (Người tình của Đức Giáo hoàng) sau
đây để biết đời sồng dâm loạn của Giáo hoàng: http://www.dailymotion.com/video/k12CHqRLTAo7qdOUF5
(Nhấn
vào để xem Video Clip)
Người Công giáo tin rằng, sau khi được rửa
cái gọi là “tội tổ tông” hay “nguyên tội” dù rằng ngày nay Giáo Hoàng John Paul
II đã dứt khoát thú nhận không làm gì có cái gọi là “tội tổ tông”, thì họ đã được
Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần vào ngự trong người họ, do đó họ chính thức là
giáo hữu của một “hội Thánh”. Họ được nhồi sọ để tin tưởng rằng cái hội
Thánh của họ là thánh thiện, thiên khải, cao quý v…v…Nhưng họ sẽ nghĩ sao trước
những lời xưng thú 7 núi tội ác của “tòa thánh” Vatican? Họ có tin rằng với vài lời xưng thú tội lỗi
và xin được tha thứ là lịch sử đen tối của Công giáo trong suốt 2000 năm trở thành trong sạch
không còn chút tì vết nào? Họ có tin rằng
thế giới sẽ quên đi tất cả những tội lỗi của Công giáo đối với nhân loại, hoặc
các tác phẩm nghiên cứu về những tội lỗi này sẽ biến mất trên thế gian? Hơn nữa,
đi sâu vào mọi vấn đề trong xã hội, ngay cả trong những hoạt động mà giáo hội
thường thổi phồng phô trương như mở nhà thương, trường học, viện tế bần, hay
các công cuộc từ thiện, chúng ta cũng có thể thấy mặt trái của chúng khác hẳn với
những điều giáo hội thường tuyên truyền.
Vậy làm sao họ còn có thể hãnh diện về tôn giáo của họ? Hãnh diện về cái gì, so với những tôn giáo
khác? Trong lịch sử nhân loại, không có
một tín đồ tôn giáo Đông phương nào, ví dụ như Phật Giáo, nhân danh Giáo chủ
hay tôn giáo mình đi giết người để truyền đạo.
Nếu chỉ vì một chiếc bánh vẽ trên trời (từ của Linh mục Ernie Bringas chỉ
Thiên đường: A Pie-in-the sky), hoặc vì một viễn tượng không chắc chắn (từ của
giáo sư đại học David Voas chỉ Thiên đường: Paradise is an uncertain prospect
at best), hoặc không có chỗ nào là thiên
đường ở trên các tầng mây (Giáo hoàng John Paul II) mà họ phải nép mình trong một
cộng đồng mà tiếng xấu trong mọi lãnh vực không sao xóa sạch được, một cộng đồng
mà bản chất chỉ “là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người
có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (theo định nghĩa của Thống Đốc
Tiểu Bang Minnesota Jesse Ventura: Christianity is a sham and a crutch for
weak-minded people who need strength in numbers), thì quả thật là tội nghiệp
cho họ.
Trở lại vấn đề xưng thú tội lỗi của giáo hội:
ngoài việc đổ tội cho “vài con cái” của giáo hội chứ không phải là chính giáo hội
phạm tội, và chỉ “xưng tội cùng Chúa”, Giáo hoàng còn đưa ra một luận cứ thần học
có tính cách lừa dối về ý nghĩa chuộc tội của Giêsu:
“Chúa KiTô, bậc Thánh, tuy tuyệt đối không
có tội, nhưng đã bằng lòng gánh những tội lỗi của chúng ta. Người đã bằng lòng hoàn thành sứ mệnh nhận từ
Chúa Cha để chuộc tội cho chúng ta.”
(Christ, the Saint, although absolutely
without sin, agreed to take our sins upon himself. He agreed, in order to redeem us,..to accomplish
the mission he received from the father.)
Tiếng nói chính thức của Vatican,
L’Osservatore Romano, ngày 15 tháng 3, 2000, cũng đưa ra cùng một luận điệu:
“Đức Ki Tô đã gánh hết những tội lỗi của mọi
người, những tội lỗi của chính chúng ta, để qua sự hi sinh cứu chuộc của Người,
chúng ta có thể hòa giải với Thiên Chúa.”
(Christ took upon himself the burden of the
sins of all people, the burden of our own sins, so that through his saving
sacrifice we might be reconciled with God).
Tôi cho đây là những luận điệu thần học méo
mó, xảo quyệt và mơ hồ, vì Giáo hội không giảng rõ những tội trên là tội
nào. Nhưng trong khuôn khổ một bản văn
liên quan đến hành động xưng thú tội lỗi của Giáo hội, chúng ta phải hiểu rằng
đó là những tội mà Giáo hội đang xưng thú. Chúng ta hãy phân tích câu trên
trong ánh sáng của lý trí và những sự kiện bất khả phủ bác trong khoa học.
Trước hết, chúng ta thấy ngay rằng, về
phương diện luân lý và đạo đức, những câu trên đã khuyến khích con người phạm tội,
vì nếu hiểu rằng Chúa đã gánh hết tội lỗi, những tội lỗi thế tục như giết người,
cướp của v..v.. của giáo hội và tín đồ từ trước tới nay, thì giáo hội và tín đồ
vẫn có thể tiếp tục phạm tội mà không còn phải e ngại điều gì. Thứ đến, nếu “Đức Ki Tô đã gánh hết tội lỗi
của mọi người” thì trong “mọi người” này chắc chắn là có tôi, nhưng tôi đâu có
khiến ông ta gánh tội cho tôi đâu. Tuy nhiên, tôi vẫn thắc mắc một điều. Nếu tôi, khi đọc Thánh Kinh, nhận thấy những
hành động Chúa Cha cũng như Chúa Con trong đó không đáng để tôi kính trọng, đừng
nói đến chuyện tôn thờ, vậy thì Chúa có gánh cái tội đó, nếu có thể gọi là tội, cho tôi không? Hay là Chúa vẫn giữ lập trường trong Tân Ước,
Luke 19:27 : "Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn
Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta" (Bring here those
enemies of mine who did not want me to reign over them and slay them before me)
hoặc sẽ đầy đọa tôi xuống hỏa ngục vĩnh viễn?
Tôi nghĩ rằng, theo giáo lý Công giáo, Chúa kkông bao giờ gánh tội và
tha thứ cho cái tội tự do tư tưởng, tận dụng lý trí và suy tư của những người
ngoại đạo, không tin Chúa.
Thật ra thì Giáo hoàng và ủy ban thần học của
ông ta đã chơi trò nhập nhằng, đồng hóa “tội tổ tông” với 7 núi tội mà giáo hội
xưng thú để vuốt ve, an ủi, làm yên lòng tín đồ. Đây chính là sự thiếu thẳng thắn của những luận điệu thần học như trên của
Công giáo vì những luận điệu này không phù hợp với vai trò “chuộc tội” của
Giêsu mà các nhà thần học đã bày đặt ra để chiêu dụ tín đồ.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ nghĩa của
danh từ “redeem”: chuộc. Chuộc có nghĩa
là dùng cái gì đó có giá trị để mua lại cái đã mất chứ không phải cái chưa xảy
ra. Chúa chết đã 2000 năm nay, không thể
“chuộc” những tội của tín đồ mà Chúa không thể biết là những tội đó như thế nào
và xảy ra khi nào sau khi Chúa chết. Nếu
Chúa thực sự hứa hẹn một cách vô trách nhiệm là sẽ gánh hết những tội lỗi của
con người, bất kể đó là những tội nào, theo như lời diễn giải của giáo hội, thì
Chúa đã là đồng lõa với tội lỗi, khuyến khích sự phạm tội, do đó Chúa chính là
nguồn gốc của tội lỗi.
Sự thực là, vai trò “cứu chuộc” của Giêsu bắt
nguồn từ huyền thoại về sự sáng tạo của Chúa Cha, về sự sa ngã của Adam và Eve
được coi như là tổ tông của loài người do đó đã gây ra cái gọi là “tội tổ
tông”, về cái chết của Giêsu trên giá gỗ hình chữ thập. Trong nhiều thế kỷ, nhiều nhà lãnh đạo Công
giáo đã vật lộn với cái mà họ gọi là “Thần học về cây thập giá” (Theology of
the Cross) để cố tìm chất liệu biện minh cho vai trò cứu chuộc của Giêsu: Vì Adam và Eve nghe theo lời xúi bậy của
Satan (thực ra chính là lời khuyên tốt để cho họ mở mắt ra, biết rõ phải trái,
thoát khỏi cảnh nô lệ ngu đần trí thức) nên đã cưỡng lời Thiên Chúa của Ki Tô
Giáo, ăn một trái trên cây hiểu biết (the tree of knowledge). Điều này làm cho Thiên Chúa giận dữ vì như vậy
là trí tuệ của con người trở thành ngang với của Thiên Chúa (thực ra thì trí tuệ con người ngày nay đã vượt
xa trí tuệ của Thiên Chúa như được viết trong Thánh Kinh), cho nên Thiên Chúa
trừng phạt con người từ kiếp này sang kiếp khác cho đến vô tận. [Đây là chuyện của những người trong thời bán
khai. Vì, truy nguyên gốc gác của sự sa
ngã của Adam và Eve, lỗi về phần Thiên Chúa chứ không phải là Adam và Eve. Thật vậy, Thiên Chúa “sáng tạo” ra Adam và
Eve theo hình ảnh của Thiên Chúa và tự
khen là tuyệt hảo (very good), nhưng hai người này lại không đủ sức chống lại sự
cám dỗ của một con rắn biết nói. Thiên
Chúa là bậc “toàn năng” và “toàn trí”, nghĩa là làm gì cũng được và cái gì cũng
biết, nhưng Thiên Chúa lại thản nhiên ngồi nhìn một tác phẩm sáng tạo khác của
Thiên Chúa là Satan, dưới dạng một con rắn, len lỏi vào vườn Eden để cám dỗ
Adam và Eve, rồi cứ để yên cho Adam và Eve nghe theo lời khuyên tốt lành của
con rắn ăn trái cây trên cây hiểu biết để mở mang trí tuệ, mà không có một hành
động nào ngăn cản, tuy Thần đã biết trước việc gì sẽ xảy ra (toàn trí). Ngày nay còn ai tin được những chuyện phi lý
như trên không?] Vì cái gọi là “tội tổ
tông” trên, hình phạt nặng nhất của Thiên Chúa dành cho loài người là con người
ai cũng phải chết (thực ra thì từ thời ông Bành Tổ, chẳng có ai sống mãi, nên
dân Do Thái mới cho rằng đó là hình phạt của Thiên Chúa mà không biết đến 4
giai đoạn thành, trụ, hoại, diệt của các pháp hữu vi trong đó có con người). Trải qua 4000 năm (theo Thánh Kinh: Thiên
Chúa sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài cách đây 6000 năm), Thiên Chúa không nghĩ gì tới chuyện hòa giải với con người. Cho tới cách đây 2000 năm, Thiên Chúa mới hóa
thân làm Thánh Ma (Holy Ghost), xâm phạm tiết hạnh của một người đàn bà đã có
chồng là Maria (trong khi thiếu gì các trinh nữ khác chưa chồng) để sinh ra
“con một” của Thiên Chúa là Giêsu, rồi bắt Giêsu phải chịu cực hình bị đóng
đinh trên thập giá, lấy máu “rửa sạch tội lỗi” của con người, tội đã cưỡng lời
Thiên Chúa ăn đại một trái trên cây hiểu biết từ 4000 năm về trước, để con người
có thể được Thiên Chúa tha tội và hòa giải lại với Thiên Chúa. Đó chính là nhiệm vụ “cứu chuộc” của
Giêsu. Giêsu dùng máu của mình (tương tự
như thời xưa con người dùng máu của người hay của loài vật, để làm nguôi cơn giận
của các Thiên Chúa trong dân gian) để chuộc cái “tội tổ tông” của con người và
cứu con người khỏi sự trừng phạt của Thiên Chúa
Ki Tô. Do đó, “Giáo hội dạy rằng”:
người nào tin Giêsu thì sẽ không còn bị luận phạt (nghĩa là bị đày đọa xuống hỏa
ngục vĩnh viễn) và sẽ hưởng “sự sống đời đời”, lẽ dĩ nhiên là sau khi chết, ở
trên một thiên đường mà theo lời tuyên bố của giáo hoàng Gion Pôn Hai gần đây,
không ở trên các tầng mây mà chính ở trong tâm con người. Theo thuyết này thì tất cả những người trong
những thời đại trước khi Giêsu sinh ra đời, trong đó có cả tổ tiên, họ hàng
Giêsu, vì không biết đến một Giêsu sinh sau đẻ muộn để mà tin, nên bị luận phạt
hết.
Đó là sơ lược, vô cùng sơ lược, lý thuyết
“thần học về cây thập giá” của Công giáo.
Còn chuyện Giêsu tình nguyện “gánh hết những tội lỗi của mọi người” là
chuyện thêm thắt về sau, với mục đích gì, chẳng phải là một thần đồng mới đoán
ra nổi.
Chỉ có điều, trong thời buổi này, chẳng còn
ai, kể cả nhiều người trong Giáo hội Công giáo, tin vào những chuyện hoang đường
như Giêsu “chuộc tội” và "tội tổ tông". Trọng điểm của Tân Ước là vai trò "chuộc
tội" và "cứu rỗi" của Chúa Con, Giêsu. Nhưng vai trò này, như chúng ta đã biết, đặt trên giả thuyết là con người có tội, cần
đến một sự "chuộc tội" và "cứu rỗI". Do đó, câu chuyện con người sa ngã, phạm tội
với Chúa Cha và bị Chúa Cha nguyền rủa, hành hạ, đày ải, trừng phạt v...v...được
đặt ra qua các nhân vật của huyền thoại Adam và Eve như tôi vừa trình bày hết sức
sơ lược ở trên. Ông Đỗ Mạnh Tri, một trí
thức Công giáo, trong cuốn Ngón Tay Và Mặt Trăng, đã phủ nhận những lời "mạc khải"
không thể sai lầm của Thiên Chúa trong Cựu Ước, chấp nhận chuyện Adam và Eve ăn
trái cấm tạo thành tội tổ tông là một huyền thoại. Theo rõi thời cuộc, chúng ta cũng biết rằng
Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã công nhận thuyết vũ trụ sinh ra từ một Big Bang cách
đây trên 13 tỷ năm, nghĩa là phủ nhận vai trò sáng tạo ra vũ trụ của Thượng đế
cách đây mới 6000 năm, và công nhận thuyết Tiến Hóa của Darwin và những khai
triển của thuyết này sau Darwin, nghĩa là phủ nhận huyền thoại "tội tổ
tông". Vậy thì, vai trò "chuộc
tội" và "cứu rỗi" của
Chúa Con có ý nghĩa gì trong thời đại này ngoài việc trở thành một chuyện hoang
đường?
Tội tổ tông chỉ là một huyền thoại của dân
Do Thái, vậy thì ai cần ai "chuộc tội", và ai cần ai "cứu rỗi"? Điều này kéo theo chuyện Chúa Con chịu đóng
đinh trên Thập Giá để "chuộc tội" cho nhân loại là chuyện hoang đường
nhất trong những chuyện hoang đường. Nói
tóm lại, vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Chúa Con,
Giêsu, đặt nền tảng trên huyền thoại về các nhân vật Adam và Eve trong cuốn đầu
trong Cựu Ưóc, Sáng Thế (Genesis), và cùng sống hay cùng chết với huyền thoại
này. Nhưng, trong ánh sáng của khoa học
và lý trí, giá trị đích thực của huyền thoại về tội tổ tông trong Cựu Ước đã được
chứng minh rằng không hơn giá trị của một mớ huyền thoại khác thuộc lịch sử của
dân tộc Do Thái. Cũng vì nhận rõ được
tính chất hoang đường, vô hiệu, lỗi thời của “bí tích rửa tội”, của vai trò
“chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su, mà
trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why
Christianity Must Change or Die), Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng
chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp
Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go).
Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau, trang 98-99:
"Nhân loại chúng ta không sống trong tội
lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội
tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không
phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục
tình trạng trước khi sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời Darwin
và một sự vô nghĩa sau thời Darwin."
(We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of our
original sin washed away in baptism. We
are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized... A
savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian
superstition and post-Darwinian nonsense.)
Trong cuốn “Thiên Chúa Vẫn Sống: Từ Sợ Hãi
Tôn Giáo Đến Tự Do Tâm Linh” (God Lives: From Religious Fear To Spiritual
Freedom, Steven J. Nash Publishing, IL., 1993), trang 114, Linh mục James
Kavanaugh cũng đưa ra nhận xét sau đây về tín điều “chuộc tội” trong Công giáo
:
“Đối với bất cứ người nào trong thế giới cổ
xưa đứng trước Thiên Chúa của Ki Tô Giáo như là một nạn nhân bất lực, tin rằng
mình là một người có tội một cách vô vọng, coi Thiên Chúa như là một ông quan
tòa giận dữ không thể tới gần được, cái chết có tính cách hi sinh của đức Ki Tô
là một huyền thoại với đôi chút thực tế.
Nhưng đối với con người hiện đại, nó chẳng còn ý nghĩa gì mấy trừ khi hắn
đã bị làm cho sợ hãi và tẩy não một cách thích hợp từ khi mới sinh ra đời. Đối với hắn, hắn là một nạn nhân tuyệt đối thụ
động của sắc luật của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Đối với tôi, đó là một huyền thoại “cứu rỗi”
thuộc thời sơ khai miêu tả một người cha lấy cái chết của chính con mình để bớt
đi cơn giận dữ. Đó là một chuyện ác độc
không thể tưởng tượng được…
Tôi chấp nhận sự kiện là đức Ki Tô đã chết,
ngay cả chuyện ông ta bị đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi không thể chấp nhận huyền thoại cho
rằng cái chết của ông ta là để chuộc tội cho tôi. Huyền thoại cứu rỗi như được viết trong Tân Ước
chỉ là một lối diễn giải. Đó là một huyền
thoại của thời sơ khai, bản chất của nó tương đương với nhiều huyền thoại cứu rỗi
của nhiều dân tộc trong thời sơ khai ở khắp mọi nơi, nhưng nó lại độc ác một
cách không tưởng hơn là hầu hết các huyền thoại khác. Nó phản ánh một thế giới mà con người có thể
làm nguôi cơn giận của những thần sấm sét trong một cơn giông tố. Ngày nay, chó và mèo vẫn còn sợ sấm sét,
nhưng con người thì ngồi yên trong nhà và hiểu rõ cái hiện tượng thiên nhiên
đang xảy ra…
Tôi sẽ không chấp nhận cái huyền thoại về một
Chúa Cha khắt khe đối xử với chính con của mình, Giêsu, bằng một công lý vô
tình cảm, và đòi hỏi con mình phải chết trên thập giá cho những tội lỗi của
tôi. Cái huyền thoại này cũng chẳng trở
thành hấp dẫn hơn vì Chúa Cha đã làm cho con sống lại, đội mồ mà lên một cách
vinh quang. Tôi không thể yêu mến một người cha như vậy hoặc phải biết ơn một
người con như vậy trong một câu chuyện mượn từ một câu chuyện truyền tụng của nền
thần học Do Thái cổ lỗ và thay đổi nó đi.
Tôi không hề yêu cầu Giêsu phải chịu khổ thay cho tôi và ngay cả muốn
ông ta làm như vậy…”
(To any man in the ancient world who stood
before God as a helpless victim, who believed himself a hopeless sinner, who
considered God an unapprochable and angry judge, the sacrificial death of
Christ was a myth of some substance. But
to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably frightened
and brainwashed from birth. To him, he
is a voiceless victim of God’s decree in the Bible. To me, it is a primitive ‘salvation” myth
which portrays an angry father appeased by the death of his own son. It is a tale of unbelievable cruelty…
I
accept the fact that Jesus died, even that he was crucified. But I cannot accept the myth that his death
was an atonement for my sins. The
salvation myth as it appears in the New Testament is an interpretation. It is a primitive myth, in essence parallel
to the salvation myths of primitive peoples everywhere, but it is more
unbelievable and cruel than most myths.
It rings of a world in which man could appease the gods of thunder
during a storm. Now cats and dogs are
frightened during storms; man stays inside and understands the natural
phenomenon that is taking place…
I will not accept this mythical
God-the-demanding-Father Who could treat His own son Jesus in unfeeling justice
and demand his death on the cross to pay for my sins. Nor is the myth more appealing because He
brought His son gloriously from the tomb.
I cannot love such a Father or even be grateful for such a son in this
borrowed and modified tale of archaic semitic theology. I did not ask him to suffer for me or even want
him to..)
Những nhận định như trên của Giám mục Spong
và Linh mục Kavanaugh cho chúng ta thấy trí tuệ của con người trong thời đại
này không còn tin vào những điều hoang đường, phi lý trong Công giáo nữa, ít ra là trong giới trí thức hiểu biết, ở
trong cũng như ở ngoài giáo hội. Tuy
nhiên, điều đáng nói là, không phải là giáo hội không biết đến những sự kiện
này, mà vì những quyền lợi thế tục về quyền lực cũng như về kinh tế, giáo hội vẫn
tiếp tục lùa đám giáo dân thấp kém vào những ốc đảo ngu dốt (từ của linh mục Trần
Tam Tĩnh), bưng bít và dấu kín mọi tiến bộ của con người. Tín đồ Công giáo quả là những người đáng
thương chứ không đáng trách. Họ bị nhào
nặn từ nhỏ để tin vào những điều không còn giá trị gì trong thế giới tiến bộ vì
chúng cực kỳ phi lý, phản khoa học, chỉ
phù hợp với đầu óc của những tín đồ Âu châu trong thời Trung Cổ. Cho nên, theo tôi, mọi người chúng ta cần phải
nỗ lực giải hoặc cho họ, giúp họ theo kịp đà tiến bộ của nhân loại, giúp họ biết
rõ sự thật về bản chất của tôn giáo họ, để từ đó họ có thể tự mình giải thoát
ra khỏi mớ xiềng xích tâm linh vô hình.
Trong thế giới Tây phương, không thiếu gì những bậc lãnh đạo Công giáo,
từ những nhà Thần học, các hồng y, giám mục, linh mục, cho đến các học giả trí
thức v..v.. đã làm công việc này. Chính
vì vậy mà giáo hội đã phải đi đến quyết định xưng thú tội lỗi và xin được tha
thứ.
Trên đây tôi đã phân tích vấn đề giáo hoàng
đại diện cho Công giáo xưng thú tội lỗi của Công giáo đối với nhân loại và xin được tha thứ. Tôi đã chứng minh rằng, những tội lỗi của
Công giáo bắt nguồn từ Thánh Kinh. Cùng
lúc, tôi cũng đã chứng minh rằng, những quyền phép có tính cách ảo thuật của
các giới chăn chiên trong Công giáo, từ giáo hoàng trở xuống tới các linh mục
mà nền Thần học Công giáo đã nhồi vào đầu óc đám tín đồ thấp kém, xét trong ánh
sáng của lôgic, khoa học và thực tế, đều chỉ là ngụy tạo. Thực tế là, từ giáo hoàng trở xuống cho tới
các linh mục, không ai có thể là đại diện của Chúa trên trần, để nắm giữ chìa
khóa Thiên đường, có quyền tuyệt thông tín đồ, có khả năng đuổi quỷ Sa Tăng
hoang đường ra khỏi con người, hay biến chất mẩu bánh thành thịt Chúa v..v..,
vì lịch sử đã chứng tỏ, trong số các giáo hoàng và các hồng y, giám mục, linh mục
từ xưa tới nay, không thiếu những kẻ dâm loạn, sát nhân, trí tuệ thấp kém, vô đạo
đức, và tất cả những bí tích của giáo hội đưa ra để kiểm soát đầu óc tín đồ đều
thuộc loại mê tín, không có một căn bản thuyết phục nào trước trình độ hiểu biết
của con người hiện nay. Nhưng vấn đề cần
bàn đến là, sau hành động xưng thú tội lỗi và xin được tha thứ này, giáo hội sẽ
có đường hướng hoạt động như thế nào.
Chắc chắn là không phải giáo hội chỉ cần đưa
ra vài lời “xưng thú tội lỗi” và “xin được tha thứ” suông, và coi như vậy là
xong, là ký ức đã được thanh tẩy, là mọi tội lỗi đã được Chúa gánh hộ hết rồi. Thế giới không bao giờ chấp nhận điều
này. Điều quan trọng và thực tế nhất là,
Giáo hội phải chứng tỏ cho thế giới, qua những hành động thực tiễn điển hình,
là Giáo hội đã thành thực sám hối, ăn năn tội lỗi. Để chứng tỏ thành tâm trong việc này, giáo hội
cần công bố và phổ biến rộng rãi trước thế giới, và nhất là trong mọi giáo hội
địa phương, trong mọi giáo xứ, từ thành thị đến thôn quê, trong mọi quốc gia, một
đường hướng mới, đoan quyết không bao giờ tái phạm những tội lỗi Giáo hội đã phạm
trong quá khứ. Mặt khác, với một tài sản
của Giáo hội lên đến hàng ngàn tỷ đô la, Giáo hội có nghĩ đến sự đền bù phần
nào những sự tác hại mà giáo hội gây ra hay không?
Lịch sử đã chứng tỏ rằng, thế giới không thể
tin vào những lời Giáo hội nói mà cần phải nhìn kỹ vào những gì Giáo hội
làm. Do đó, thế giới sẽ luôn luôn quan
sát những hoạt động trong tương lai của giáo hội. Á Châu là lục địa cần phải đề cao cảnh giác
và kiểm soát cẩn thận, coi chừng thật kỹ những hoạt động này, vì gần đây giáo
hoàng đã nói rằng: “Cải đạo là một nhân quyền.
Cũng như cây thập giá đã cắm chắc trên đất của Âu châu trong thiên niên
kỷ thứ nhất, và ở Mỹ Châu và Phi châu trong thiên niên kỷ thứ hai, thiên niên
Ki Tô thứ ba có thể sẽ được mùa lớn về đức tin ở trên lục địa rộng lớn và cốt yếu
này.” (The pope said that religious
conversion is a human right. “Just as
the 1st millenium saw the cross firmly planted in the soil of Europe, and, the
2nd, in America and Africa, so may the 3rd christian millenium witness a great
harvest of faith on this vast and vital continent,” the pope said.)
Giáo hoàng nói vậy vì hiện nay Công giáo
đang xuống dốc một cách thê thảm ở phương trời Âu Châu, cái nôi của Gia Tô Giáo
trước đây, và ở cả Mỹ Châu và Phi Châu,.
Tại sao Công giáo lại có tình trạng suy thoái như vậy? Câu ngắn gọn sau đây trong cuốn Missionaries,
một cuốn sách nghiên cứu về những thành quả truyền giáo của Ki Tô Giáo trên khắp
thế giới, đi kèm với một chương trình TV 6 kỳ của đài BBC, có thể cho chúng ta
rõ một trong nhiều nguyên nhân xuống dốc của Công giáo Giáo:
“Đòi hỏi những người Âu Châu tin vào thế giới
của Thiên Chúa và Satan có vẻ như là đòi hỏi họ phải từ bỏ sự thông minh của
chính mình. Quan trọng hơn nữa, những lợi
khí của thương vụ thừa sai: củ cà rốt “cứu rỗi” và cây gậy “đày đọa vĩnh viễn”
đã mất đi hiệu lực đe dọa rồi.”
(Asking the Europeans to believe in a world
of God and Satan, seems to be asking them to deny their own intelligence. More importantly, the tools of the
missionaries’ trade, the carrot and stick of salvation and damnation, have lost
the power to frighten.)
Câu trên có nghĩa là, trong thời đại này,
trí tuệ con người đã tiến bộ, những người có đôi chút đầu óc đều không còn tin
vào những chuyện hoang đường cổ xưa như “cứu rỗi” (tội ở đâu mà cứu rỗi?) và
“đày đọa vĩnh viễn” (hỏa ngục ở đâu mà đày đọa?). Ngay chính Gion Pôn Hai cũng phải thú nhận là
không làm gì có chỗ nào là hỏa ngục để mà đày đọa những người không tin Chúa,
Giám mục Spong coi chuyện “tội tổ tông” với chuyện “cứu rỗi” là chuyện mê tín của
thời trước Darwin, và linh mục Kavanaugh nói thẳng là ông không khiến và cũng
không muốn Giêsu leo lên thập giá chịu khổ thay cho mình hoặc chuộc tội cho
mình. Những tư tưởng khai phóng trên hiển
nhiên đã soi sáng cho con người thoát ra khỏi sự tối tăm của những tín lý đã lỗi
thời. Bất hạnh thay, đa số giáo dân Công
giáo thấp kém trên thế giới, nhất là giáo dân Việt Nam, kể cả một số trí thức
Công giáo Việt Nam, không hề biết đến những sự tiến bộ trí thức ngay trong tôn
giáo của họ, cho nên vẫn còn bám chặt vào những điều hoang đường chỉ có giá trị
phần nào trong thời bán khai.
Để bù đắp phần nào sự hao hụt tín đồ ở những
nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ và ở những nước đang thức tỉnh ở Phi Châu, Giáo hội
Công giáo, qua lời tuyên bố của Giáo hoàng ở trên, đang có sách lược truyền
giáo sang các nước kém mở mang ở Á Châu.
Truyền Giáo là sự phát triển tự nhiên của mọi tôn giáo. Tôn giáo nào cũng mong muốn đạo mình có thêm
tín đồ. Nhưng phương cách truyền giáo là
cả một vấn đề và thường phản ánh bản chất của tôn giáo đó. Chúng ta không nên quên 7 núi tội lỗi mà giáo
hoàng vừa xưng thú, những tội lỗi trải dài suốt 2000 năm và ở mọi nơi Công giáo
mang cây thập giá tới. Chúng ta cũng
không nên quên Công giáo đã giữ một vai trò then chốt quyết định trong việc đưa
Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp. Lịch sử
đã chứng minh: Sách lược truyền giáo của Công giáo La Mã là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi
nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa
dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ,
dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Một sắc thái đặc biệt nhất của Công giáo là,
bất cứ tôn giáo này truyền tới đâu là ở đó xảy ra những cảnh hỗn loạn, thù nghịch,
chia rẽ v…v… trong gia đình, trong xã hội, đúng như lời khẳng định của Chúa
Giê-su trong Thánh Kinh, Matthew 10: 34-36:
“Chúa
Ki Tô Mang Đến Sự Chia Rẽ:
Đừng nghĩ rằng ta xuống trần để mang lại hòa
bình trên trái đất. Ta không xuống đây để
mang lại hòa bình mà là gươm giáo.
Vì ta xuống đây để làm cho con trai chống đối
cha, con gái chống đối mẹ, và con dâu chống đối mẹ chồng.
Và những kẻ thù của một người thì ở ngay
trong nhà hắn.”
(Christ
Brings Division:
Do not think that I came to bring peace on
earth. I did not come to bring peace but
a sword.
For I have come to set a man against his
father, a daughter against her mother, and a daughter-in-law against her
mother-in-law.
And a man’s foes will be those of his own
household.)
Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh
nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Công giáo còn ghi rõ
trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền
giáo của đạo Công giáo đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào
có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những
lời dụ dỗ huyền hoặc của Công giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết
truyền thống trong gia đình. Công giáo
cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch
sử đã chứng tỏ. Chính Linh mục Lương Kim
Định cũng phải thú nhận rằng, Cẩm Nang Triết Việt, trang 57:
“Sự
truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam…đưa đến sự chia khối dân tộc đang thống nhất
thành hai phe Lương Giáo làm cho sự liên lạc giữa đôi bên trở nên nhức nhối đầy
e dè nghi kỵ. Đấy là một tai nạn lịch sử
mà thời gian tuy có làm giảm đi, nhưng xem ra không sao xóa sạch được”
Vì vậy, hơn ai hết, người Việt Nam cần phải
đề cao cảnh giác trước âm mưu truyền giáo sang Á Châu của Vatican. Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng quyền tự
do tôn giáo của con người và quyền tự do truyền đạo bằng những phương cách có
tính cách xúc phạm đến mọi nền văn hóa phi- Công giáo của Công giáo như Giáo hội
đã thú nhận. Chúng ta cũng cần phải ý thức
được rằng, Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, đang lạm dụng và núp sau
chiêu bài “Nhân quyền” và dựa vào ưu thế kinh tế và quân sự của các cường quốc
Âu Mỹ để truyền đạo trong những quốc gia mà họ có thể ép được. Họ không dám đụng tới khối Hồi Giáo hay Do
Thái, những khối tuyệt đối không nhân nhượng về vấn đề tự do truyền đạo. Họ cũng không dám đụng tới Trung quốc, một quốc
gia vĩ đại với gần một tỷ rưỡi dân, có tiềm lực kinh tế và quân sự không thể
coi thường, và có một chính sách rõ rệt để ngăn chận và kiểm soát sự tự do truyền
giáo. Nhưng họ lại khai thác sự yếu kém
kinh tế của các nước nhỏ ở Á đông và tính dễ dãi của những dân tộc trong vùng
này, trong đó có Việt Nam, để thực hiện ảo vọng Ki Tô hóa các quốc gia
này. Chính quyền Việt Nam cần phải ý thức
được cái hiểm họa Ki Tô nếu không muốn truyền thống dân tộc và văn hóa của Việt
Nam bị xóa sạch trong tương lai, rơi vào vòng nô lệ Vatican.
Ngoài ra, để đối phó với sách lược đang được
thi hành hiện nay của Công giáo và Tin Lành: dùng bọn người trí thức nô lệ mất
gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam, nhất là lịch sử
và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc
Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu bài như “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”,
hoặc “quay về với truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, nhưng vẫn khăng
khăng bám chặt vào “chân lý về Chúa KiTô đấng trung gian duy nhất, vẫn là và sẽ
mãi mãi là một tín điều, và không thể chấp nhận sự giàn xếp hay dung hòa
(compromis) nào cả”, chính quyền và người dân Việt Nam cần ý thức được tầm quan
trọng của sự mở mang dân trí.
Thật vậy, nữ học giả Gia Tô Joane H. Meehl,
sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của giáo hội Công giáo từ thế
kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn Người Tín Đồ Công giáo Tỉnh Ngộ (The Recovering Catholic, Prometheus
Book, 1995), trang 288:
“Đạo Công giáo chỉ thịnh hành và phát triển
trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ
bị khắc phục bởi giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải
mái.”
(Catholicism thrives and grows among the
poor and ignorant. It is overcome by
education and economic well-being.)
Điều này đã xảy ra trong những nước văn
minh tiến bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao, và
những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo của những người có uy tín
trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học
v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
Đừng bao giờ nên e ngại trước những sự phản đối vô căn cứ, lên án việc mở
mang dân trí là chống tôn giáo hay chia rẽ tôn giáo. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng
khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu
về tôn giáo được phổ biến tự do và rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi
ích của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về các tôn giáo
trong xã hội.
Ngoài ra, tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam, nhất là các Phật tử, cũng cần phải biết đến những điều khác biệt căn bản
giữa hai tôn giáo lớn tại Việt Nam, Phật Giáo và Ki Tô Giáo. Xin đọc bài “Phật giáo – Ki Tô giáo đối chiếu
qua những Nhận định của một số Danh nhân thế giới” [
http://sachhiem.net/TCNtg/TCN56.php]. Hi
vọng những tài liệu này sẽ giúp cho người dân
ít nhiều vốn liếng trong bất cứ một cuộc đối thoại nào với các tín đồ
Công giáo, hoặc trước những lời tuyên truyền giả dối của Ki Tô Giáo. Ngoài những
nhận định của một số danh nhân trí thức Âu Mỹ về Ki Tô Giáo và Phật Giáo trong
bài trên, tôi muốn nói đến vài điều khác biệt căn bản giữa Phật Giáo và Ki Tô
Giáo.
Thứ nhất, lịch sử truyền giáo của đạo Phật,
một tôn giáo có trước Công Giáo hơn 500 năm, đã cho thế giới thấy Phật Giáo là
một tôn giáo hòa bình, không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền giáo
và phát triển trong suốt hơn 2500 năm nay.
Trái lại, lịch sử truyền giáo của Công Giáo trên thế giới đã chứng tỏ rằng
Công Giáo là một tôn giáo hiếu chiến, sắt máu, tàn bạo v..v.., và trong quá
trình truyền giáo qua 16 thế kỷ, từ thời Constantine, đã làm cho máu nhiều triệu
người vô tội chảy thành sông, xương chất thành núi. Đây chính là lý do khiến cho giáo hội Công
Giáo ngày nay phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được tha thứ trước
thế giới. Nhưng dù giáo hội có làm gì đi
chăng nữa thì núi xương sông máu này cũng vẫn muôn đời tồn tại trên bờ vai
lương tâm của giáo hội và của những tín đồ còn đôi chút lương tri và đầu óc suy
tư.
Thứ nhì, Kinh Luận Phật Giáo gồm thiên Kinh
vạn quyển, số lượng nhiều gấp bội Thánh Kinh.
Nguyên bộ Đại Phẩm Bát Nhã do ngài Huyền Trang dịch sang tiếng Hán đã gồm
600 quyển. Nhưng chúng ta không hề thấy
trong rừng kinh điển Phật Giáo bất cứ một lời nói nào hay một hành động nào của
Đức Phật, hay của các đệ tử Phật, trái với những tiêu chuẩn luân lý và đạo đức
của con người xưa cũng như nay. Trái lại,
trong Thánh Kinh chúng ta thấy vô số những chuyện ác độc, thương luân, bại lý,
không của Chúa Cha thì cũng của Chúa Con, hoặc của các bậc được gọi là Thánh
trong Ki Tô Giáo, cùng những chuyện dâm ô, loạn luân, thù hận, giết người tập
thể v…v… Cũng vì vậy, càng đi vào Kinh
điển Phật Giáo chúng ta càng thấy chân trời của chúng ta mở rộng, càng thấy những
tư tưởng Phật Giáo quả là siêu việt, vượt thời gian và không gian. Đây chính là lý do Phật Giáo đang phát triển
mạnh trong thế giới, trong những nền văn minh Âu Mỹ, nhất là trong giới trí thức. Trái lại, càng đi sâu vào Thánh Kinh, chúng
ta càng khám phá ra nhiều điều sai lầm, về thần học cũng như về khoa học, ngoài
những điều không thể chấp nhận được vì chúng đối nghịch hẳn với những tiêu chuẩn
luân lý đạo đức của con người ngày nay.
Đây chính là lý do làm cho Công Giáo suy thoái khắp nơi trên thế giới.
Thứ ba, Phật giáo và Công Giáo đều là tôn
giáo ngoại lai, theo nghĩa từ ngoài du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên bản chất của sự du nhập và ứng dụng
của mỗi tôn giáo vào trong xã hội Việt Nam hoàn toàn khác nhau và đối ngược hẳn
nhau.
Phật giáo đi vào dân tộc Việt Nam qua giới
trí thức bằng con đường tận dụng khả năng suy tư của con người, con đường phát
triển trí tuệ, tự lực tự cường, không có những giáo điều khô cứng, không có những
hứa hẹn hão huyền có tác dụng ru ngủ dân chúng, và nhất là không chống lại những
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Với những giáo lý nhân bản, lấy con người làm gốc, phục vụ con người
ngay trong đời sống này, lấy trí tuệ làm căn bản, và qua những triết thuyết cao
siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi hỏi
suy luận trí thức của giới có học. Từ giới
trí thức, tinh thần Phật Giáo được phát huy qua những giáo lý hòa bình, bao
dung, bình đẳng, giản dị, đạo đức, từ bi v..v.. cho nên Phật Giáo đã lan xuống
mọi giới bình dân, ít học trong xã hội Việt Nam. Từ đó, Phật Giáo đã hội nhập trong dân gian,
để tạo nên một tinh thần Phật Giáo dính liền với tinh thần yêu nước cao độ cố hữu
của người dân Việt Nam. Phật Giáo chưa
bao giờ phản bội dân tộc, liên kết với kẻ ngoại xâm chống lại tổ quốc. Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ nhận lệnh của
bất cứ chức sắc ngoại quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ chức tôn giáo hay chính
trị quốc tế nào. Do đó, ảnh hưởng của Phật
Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không
còn phân biệt được đâu là văn hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có thể
phủ bác.
Trái lại, Công Giáo du nhập vào Việt Nam qua
giới cùng đinh thất học bằng những phương pháp truyền đạo xảo quyệt, đượm màu
mê tín hoang đường, thí dụ như của thừa sai Alexandre de Rhodes [Xin đọc bài Di
Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”: Nhân Đọc Cuốn “Hành Trình Và Truyền Giáo”
Của Alexandre de Rhodes” trên http://sachhiem.net/TCNtg/TCN50.php] xuyên tạc sự thật, và mạ lỵ, xâm phạm tới
toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức và cấu trúc văn hóa của xã hội Việt Nam. Ngoài ra nhiều thừa sai Công Giáo còn trắng
trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã
xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa trong xã hội Việt Nam. Họ ru ngủ đám tín đồ thấp kém bằng những điều
mê tín hoang đường, bằng một đức tin vào những giáo điều tín lý khô cứng, phi
lôgic, phản khoa học, bằng những hứa hẹn vô trách nhiệm vào một niềm tin “xác
chết ngày sau sống lại” để có “sự sống đời đời”, do sự “cứu rỗi” của một Thiên
Chúa đã chết trên cây thập giá cách đây 2000 năm và chưa bao giờ xuất hiện để cứu
bất cứ ai v..v... Những giáo sĩ thừa sai
đầu tiên có ảnh hưởng trong việc truyền đạo không phải là những nhà tu hành đạo
đức mà là những tên gián điệp như Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Lambert
de la Motte v..v.., hoặc những tên lính đánh thuê như Pigneau de Béhaine (Bá Đa
Lộc), hoặc những tên thực dân như Retord (thầy của Trần Lục), Gauthier (thầy của
Nguyễn Trường Tộ), Puginier, Huc, Pellerin v..v.. Nhưng bất hạnh nhất cho Việt
Nam là Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ của Công giáo đã thành công trong việc đào tạo
được một lớp tín đồ trong những giới thấp kém nhất của xã hội Việt Nam (từ của
Toàn quyền Đông Dương de Lanessan: the lowest classes), sẵn sàng phản bội dân tộc,
tiếp tay với thực dân Pháp vì một cái bánh vẽ trên trời cho riêng mình. Lời thú nhận của giám mục Puginier “Không có
các thừa sai và giáo dân Công giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua
đã bị bẻ gãy hết càng” về vai trò quyết định của giáo dân Việt Nam trong sự hỗ
trợ đoàn quân xâm lăng của Pháp là một bằng chứng. Sự kiện linh mục “Trần Lục mang 5000 giáo dân
đến hỗ trợ quân Pháp để hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình” là một bằng chứng
khác. (Xin đọc chi tiết những sự kiện trên trong cuốn Công Giáo Chính Sử,
chương VIII.) Bản chất của Giáo hội Công
giáo Việt Nam chỉ là một mớ tín đồ hạng hai.
Công giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có một giám
mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ
hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của
Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn
luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam.
Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt
Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn.
Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm với những
đòn phép của Vatican. Việt Nam không thể
không dè dặt khi đối diện với một thế lực quốc tế đã có 2000 năm kinh nghiệm
trong những thủ đoạn thần học, chính trị, xã hội, kinh tế v..v.. để lạc dẫn tín
đồ vào con đường mê muội, tuyệt đối tuân phục và theo lệnh của một thế lực thế tục
ngoại quốc núp sau cái vỏ tôn giáo. Với
một tổ chức vô cùng chặt chẽ, với một tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đô la, với
đa số tín đồ thấp kém cuồng tín tạo thành một lực lượng hậu thuẫn khó lường, với
những phương tiện truyền thông bao trùm mọi lãnh vực v..v.., trước đây, không
có một quốc gia nào có thể coi thường thế lực của Vatican. Tuy nhiên, trước sự tiến bộ trí thức của nhân
loại, và vì thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người) đã bị tước
khỏi bàn tay đẫm máu của giáo hội Công giáo, ngày nay, Vatican không còn khả
năng để khuynh loát những thế lực tôn giáo đối nghịch với Công Giáo. Những biện pháp quyết liệt của Trung Quốc, Việt
Nam, Ấn Độ, Thái Lan v..v.. và của các khối Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Chính Thống
Giáo, Tin Lành Giáo đối với vấn nạn Công Giáo đã có thể ngăn chận và giảm thiểu
âm mưu thống trị tôn giáo của Vatican trên hoàn cầu.
Những biện pháp ngăn chận này thực ra rất hợp
lý và chính đáng. Tại sao? Vì trong một bài diễn văn đọc tại Maribor,
Slovenia, ngày 19 tháng 5, 1996, giáo hoàng Công Giáo Gion Pôn Hai đã kêu gọi
các quốc gia phải bảo tồn nền văn hóa dân tộc, nguyên văn như sau:
“Các quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ
như là một biểu thị của phẩm cách quốc gia”
(Countries must preserve their culture as an
expression of national dignity).
Giáo hoàng thừa biết rằng, nền văn hóa Á
đông nói chung, Việt Nam nói riêng, tuyệt đối không tương hợp (incompatible) với
nền văn hóa Công Giáo của Tây phương. Vậy
có cách nào mà sách lược truyền đạo của Công Giáo sang Á châu không đụng chạm tới
những nền văn hóa dân tộc của các nước Á Châu?
Thật vậy, như trên đã nói, nền văn hóa Việt Nam cũng là nền văn hóa Phật
Giáo. Phật Giáo, một tôn giáo nhân bản,
không chấp nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa, do đó không chấp nhận huyền thoại
sáng tạo của Công Giáo, một huyền thoại mà tuyệt đại đa số người dân trên thế
giới đã dứt khoát bác bỏ, vì huyền thoại này không còn một căn bản thuyết phục
nào trước những bằng chứng tràn ngập trong khoa học về sự sinh ra của vũ trụ,
tuổi của vũ trụ, và sự xuất hiện của loài người trong định luật tiến hóa. Tất cả những bằng chứng này đều trái ngược với
những điều hoang đường phi thực tế, phản khoa học ở trong Thánh Kinh. Mặt khác,
Công Giáo là một tôn giáo thờ một vị Thần do con người thời tiền sử tưởng tượng
ra, và cho như vậy là có giá trị nhất, mọi
tôn giáo khác chỉ có giá trị nếu quy phục vị Thần Công Giáo đó. Do đó, với chủ trương độc tôn này, thực chất
của sách lược truyền đạo sang Á Châu là một cuộc xâm lăng văn hóa. Để gìn giữ phẩm cách quốc gia, Á châu nói
chung, Việt Nam nói riêng, phải có bổn phận bảo vệ nền văn hóa của mình. Giáo hoàng không thể nói một đàng: khuyên mọi
quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ, rồi làm một nẻo: mưu toan xâm lăng và
dẹp bỏ các nền văn hóa phi Công Giáo của họ ở Á Châu . Cho nên,
Giáo hoàng, hoặc bất cứ thế lực tôn giáo cũng như thế tục nào khác, đều
không thể lên án những biện pháp ngăn chận sự truyền đạo của Công Giáo nói
riêng, Ki Tô Giáo nói chung, ở Á Châu ngày nay là vi phạm nhân quyền, hay vi phạm
tự do tôn giáo.
Với kinh nghiệm qua những vụ tòa Khâm Sứ và ở
Thái Hà gần đây, Việt Nam chắc hẳn đã thấy rõ bản chất của những người Công
giáo Việt Nam như TGM Ngô Quang Kiệt và một số linh mục khác, những người đã dẫn
dắt đám con chiên ở dưới, kể cả bà già và con nít, vào những hành động bất chấp
luật pháp như thế nào. Mong rằng Việt Nam
cương quyết giữ vững lập trường trong chính sách đối ngoại và đối nội phù hợp với
sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân ngõ hầu có thể tránh cho Việt Nam một
hiểm họa mà hậu quả không sao lường được.
Trần
Chung Ngọc
Comments
Post a Comment