Đặng
Văn Nhâm
Nói
về dâm thi, dâm ca, dâm kinh... trong lịch sử, văn hoá và tôn giáo của loài người
Nhân
đọc bài "Khởi" của Lưu Nguyễn Ðạt trong sách"Thiên đường tìm lại"
của Hồ Truờng An
I-
"KHỞI": GIỚI THIỆU HAY CHƯỚNG NGẠI?
Trước
tiên tôi được biết đến"Thiên đường tìm lại" (TÐTL), một tập dâm thi của
nhà văn Hồ Trường An (HTA), là nhờ bài giới thiệu khéo léo và phê bình rất dễ
thương của nhà văn nữ Vũ Thi An (VTA), đăng trên tạp chí Hải Ngoại Nhân Văn (số
23, tháng 6.02, tr.63, nhan đề "Vấn đề dục tính trong thơ văn VN").
Vài ngày sau tôi mới nhận được tập thơ này do chính tác giả gửi tặng. Vốn là một
kẻ đam mê những gì trong phạm trù văn hóa có dính líu đến chữ "dâm"
hay có vị "dâm", tạm gọi là "dâm hương trong chữ nghĩa",
nên tôi vội vàng tò mò mở ra đọc. Nhưng mới vài trang đầu, gọi là "khởi",
tôi liền bị khựng lại ngay, bởi bài "Thi văn dục ái qua thiên đường tìm lại
" của ông Lưu Nguyễn Ðạt (LNÐ).
Ðọc
bài của ông LNÐ, tự nhiên tôi bị cụt hứng và khó chịu vô cùng. Cảm giác cụt hứng
và khó chịu của tôi ví chẳng khác nào cảm giác của một gã si tình, đã mót lắm rồi,
lại sắp sửa được giao hoan khoái chí với người đẹp đã loã lồ sẵn sàng chờ đợi
trên giường, bất ngờ lại bị một bậc đại nhân, cực kỳ nghiêm nghị, chưng diện bảnh
bao, hào nhoáng, với luận điệu rất "moralisateur", cố níu lại để giảng
giải lang bang những chuyện kinh kệ, thần thánh lăng nhăng trên trời dưới đất!
Về
nội dung, bài "KHỞI" của ông LNÐ, viết rất cầu kỳ, cộng thêm một số
trích dẫn điển cố các huyền thoại La-Hy và tên mấy bộ kinh tôn giáo. Tuy nhiên,
xem ra vẫn chẳng đủ khả năng minh giải, hay phát lộ tính chất quan yếu, cao
quí, và thiêng liêng của chữ " dâm" trong văn học, tôn giáo và lịch sử
nhân loại. Trong suốt 9 trang chữ, đã được trịnh trọng đặt ngay đầu thi phẩm,
ông LNÐ vẫn không đạt nổi mục tiêu thông thường, tối thiểu, của người viết tựa
là kích động khiếu thẩm dâm cho người đọc trước khi họ bắt đầu nếm cái vị dâm
tràn trề lai láng trong 112 trang giấy khổ nhỏ của nhà văn HTA. Có lẽ chính vì
thế mà bà VTA đã phải thành thực kể lại trong bài phê bình dẫn thượng:
"Tôi mở tập thơ ra xem, phải đỏ mặt ngay". Theo tôi, sự "đỏ mặt"
của bà là một phản xạ tự nhiên trước một trạng thái đột ngột, sững sờ, vì tinh
thần chưa được chuẩn bị.
Ðó
là một bằng chứng của sự thất bại rõ rệt. Sự thất bại ấy, thực ra không nằm
trong nội dung thi phẩm hay thuật dụng ngữ của nhà văn HTA, mà lại do chính bài
"Khởi"của ông LNÐ. Người đọc có cảm nghĩ dường như ông LNÐ viết bài
"Khởi" này chẳng phải viết cho thi phẩm "Thiên đường tìm lại",
nhắm gột rửa sạch sẽ thành kiến sai lầm, lạc hậu cuả quần chúng VN về các loại
dâm thi, dâm truyện, dâm ca, dâm kinh v.v... Cũng chẳng phải ông viết thay cho
tác giả HTA, để nói lên tính cách thiết thân, thiêng liêng, thần thánh của cái
dâm, với công năng sinh sản cao quí, vốn là giềng mối lưu truyền dòng giống
nhân loại của cái dâm, kể từ thuở Hồng Hoang (Big Bang), khi con người còn phải
đi trong thế lom khom bằng cả 2 chân lẫn 2 tay như loài dã nhân (thuyết
Darwinisme).
Nên
biết, việc hành dâm còn được chính Élôhim hay Yahweh [tiếng Hê Brơ (hébreu) là
một ngôn ngữ cổ của dân Do Thái, chỉ Thượng Ðế của đạo Du Già (Judaisme), nguồn
gốc cuả Thiên Chúa Giáo] dặn dò, khuyến khích thủy tổ loài người bằng một câu
then chốt [trích trong truyền thuyết "Document sacerdotal", do Jean
Bottéro dịch] như sau: "Soyez féconds et multipliez vous, remplissez la
terre et soumettez-la!"... (Tạm dịch: Hãy sinh sản và tăng trưởng, hãy
trám đầy mặt đất và khuất phục nó!). Trong chương Sáng Thế (Genèse:1,28) kinh
TCG cũng ghi lời dặn ông Adam và bà Eve của Yahweh-Elôhim, nguyên văn:
"Remplissez la terre et dominez la!"(hãy trám đầy trái đất và thống
trị nó!)
Ngoài
ra, còn một truyền thuyết khác, của phái Yahwiste, vẫn có trong thánh kinh viết
bằng tiếng Hê Brơ, Yahweh-Elôhim đã kể chuyện con rắn dụ khị bà Eve ăn trái cấm
(chớ không xác định trái táo như ông LNÐ viết). Chuyện "ăn trái cấm"
trong thánh kinh thực ra còn nhiều ẩn số, mặc dù hàng mấy ngàn năm nay, các nhà
thần học và lãnh tụ tôn giáo đã tốn nhiều công sức và giấy mực vẫn chưa giải
đáp được. Trong khi đó, ông LNÐ, chẳng biết gì về thánh kinh đã khẳng định nông
cạn, bừa bãi bằng câu: "Trái táo biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm
giới, đồng thời tạo kiến thức phân tách nam nữ tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục
ái và vòng sinh tử, song song với ý niệm nghiệp chướng luân hồi cuả Phật giáo.
Tất cả chỉ là kiến thức và ngộ giác ngay trong nhân thế!"
Nơi
đây, xin mở ngoặc ngay để nói nhỏ với ông LNÐ rằng cái "ý niệm về nghiệp
chướng luân hồi" giữa TCG và PG khác nhau xa lắm và tuế toái lắm, chúng ta
chớ vội quơ quào vào! Tóm lại, với cái lối "Khởi" như thế, người đọc,
dù hời hợt đến đâu chăng nữa, vẫn thừa nhạy cảm nhận ra ngay dụng tâm của ông
LNÐ, chỉ cốt viết cho riêng ông. Dĩ nhiên thôi!
Song
le, chính vì vậy mà chẳng những ông Lưu Nguyễn Ðạt đã không giới thiệu nổi đặc
tính "dâm", chất " dâm", nghệ thuật diễn tả rất hiện thực về
những hành động và khoái cảm "dâm" chứa chan lênh láng trong tác phẩm
của Hồ Trường An. Nên biết: Bản chất cái dâm vốn thông tục và thực dụng hằng
ngày như ăn, uống, ngủ, ỉa v.v... Cái dâm lại trần truồng, lõa lồ, hiện rõ từng
lỗ chân lông. Từng làn da thịt mỏng dính, màu tươi hon hỏn, dễ thương, gợi thèm
khát đến nhểu giãi, xếp nếp kín đáo ở những nơi sâu kín nhất trong cơ thể con
người... từ thuở Hồng Hoang, con người còn ăn lông ở lỗ đã tuyệt đối chối bỏ, vứt
tung hết mọi thứ vỏ che đậy giả tạo. Trong cái dâm, kể cả dâm thi, dâm truyện,
dâm ca, dâm kinh... không có một chỗ đứng nào cho trí thức huê dạng, hay đạo đức.
Cái dâm đòi hỏi cái thực và cái " người" thật người! Nếu biết được
như thế, tất ta sẽ thấy ngay lối viết cầu kỳ, trí thức của ông LNÐ đã chẳng hợp
tí nào với nội dung của tập dâm thi này. Xin dẫn chứng:
"...
Tôn giáo trên toàn thế giới thường đề cập đến dục ái như một hiện tượng minh giải.
Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo và Cựu Ước, nhân loại đồng tình, thể hiện qua
nam giới A-Ðông. Nữ tính Ê-Va xuất chiết từ cơ thể A-Ðông, nên nhân bản nguyên
thủy bất tách. Trái táo biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm giới, đồng thời
tạo kiến thức phân tách nam nữ tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục ái và vòng
sinh tử, song song với ý niệm nghiệp chướng luân hồi của Phật Giáo. Tất cả chỉ
là kiến thức và ngộ giác ngay trong nhân thế. Kinh điển Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông
Tây Tạng, và Kama Sutra, đều phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và
thánh tính ngay trong giới hạn và chiều sâu cuả nhân thế..." (tr. 14,15).
"... Chữ nghĩa dục ái trở thành âm điệu, thành hoà âm tiếp nối dòng nhạc
Mozart luân biến Don Juan thành tuyệt tác. Thi ngữ dục ái lại mắc mưu những đường
cong ấm áp, nở nang, sâu hoắm trên thân thể Apollon biến thạch, trên làn da huyền
bích của nữ thần Diane đang ngâm mình bên dòng sông vĩnh cửu..." (tr.16).
Chẳng
những vậy, ông Lưu Nguyễn Ðạt còn làm một việc có tính cách phô trương không cần
thiết. Ông viết một bài ngắn, chỉ vỏn vẹn 9 trang giấy nhỏ, chữ lớn bằng Việt
văn, cho người VN đọc, nhưng lại trịnh trọng chú thích cẩn thận đến 21 chữ Việt
rất quen thuộc và thông dụng sang tiếng Anh. Nhưng chẳng may ông lại định nghĩa
và chú thích sang Anh ngữ không chính xác lắm về chữ "dâm".
Khi
muốn biện hộ cho tập dâm thi của tác giả Hồ Trường An, cho rằng không có sắc
thái thú tính, hạ cấp, mà chính là một dục cảm thanh cao, ông LNÐ đã viết lằng
nhằng, nghĩa lý tù mù vẫn bằng cách dùng chữ cầu kỳ ra vẻ thông thái: "Trước
hết chúng ta hãy tránh vài ngộ nhận về dục cảm và thú tính. Sắc thái nặng nề của
thú tính hời hợt, thô cục, ngoại vi, ứ đọng tại khía cạnh phô bày nhục dục vụn
vặt, với những khoái lạc tạm bợ, vụng về, không phải là địa hạt hoặc cứu cánh của
thi văn dục ái, mà chỉ là môi trường hạ cấp của dâm thư ". (tr.10)
Câu
này, ông LNÐ viết bằng tiếng Việt mà người đọc còn cảm thấy thô nhám, gồ ghề cường
điệu, nuốt không trôi như: thô cục, ngoại vi... Thế mà tai hại thay, ông lại
còn chú thích thêm Anh ngữ như: thô cục (graphic), ngoại vi (epidermic), khiến
cho cổ họng người đọc càng bị nghẹn nhiều hơn.
Nhưng
tai hại nhất cho nghệ thuật của thi phẩm "Thiên đường tìm lại" là ông
Lưu Nguyễn Ðạt đã không chuyển đạt được sự khác biệt tinh tế giữa 2 từ
"porno" với "érotique / erotic" sang Việt ngữ. Ông đã dùng
ngay chữ "dâm thư" để chú thích bằng tiếng Anh là: Pornography!( số
6, tr.10)
Theo
sự hiểu biết rất tầm thường của tôi, chữ "dâm thư ", còn gọi là
"dâm thi", không kém gì "dâm ca", hay "dâm
kinh"... cần phải được trang trọng và nghiêm nghị dịch bằng từ: Érotique
(Pháp ngữ), hay Erotic (Anh ngữ). Chữ này vốn gốc Hy Lạp (erôs), (Chú ý: chữ
Erôs có dấu mũ đàng hoàng), rất thông dụng trong văn chương La-Hy. Các nhà làm
văn hoá Hy Lạp thường dùng từ "erôs" để biểu diễn một trong số những
đặc tính cảm quan tinh tế nhất cuả dân tộc Hy Lạp. Chữ này, trong Cựu Ước Kinh
TCG, ta thấy đã được hoán vị bằng từ "amour" (tiếng Anh: love), và được
lập đi lập lại đến cả thảy 600 lần. Nhưng trong Tân Ước Kinh, người ta thấy chữ
đó đã bị kiểm duyệt, loại hẳn ra ngoài, để thay thế bằng một chữ Hy Lạp khác là
"agapè" (danh từ), "agapan" (động từ), và
"agapètos" (tĩnh từ), và đã được nhắc đi nhắc lại tới 320 lần trong bộ
kinh này.
Còn
chữ "pornography" mà ông LNÐ đã dùng nên dịch là "tục dâm"
hay "nhục dâm" (trong đó bao gồm: thị dâm, thính dâm, khứu dâm, vị
dâm, khẩu dâm, thủ dâm, cước dâm, v.v...), tức phân định rõ rệt những động tác
hành dâm thuần túy (như sự giao cấu đủ các kiểu cọ), với những sản phẩm dâm thuộc
về tư tưởng hay tinh thần (như dâm thi, dâm ca, dâm kinh, dâm truyện...) Nên biết
dâm thi, dâm ca, dâm truyện, hay dâm kinh, vốn là những sản phẩm tinh thần của
con người có suy tư, với một bộ thần kinh cảm xúc cực kỳ bén nhậy và một thiên
khiếu thẩm dâm hiếm quí. Một bài dâm thi tuyệt tác, nếu phổ nhạc, và được đồng
ca ở nơi thờ phượng, tức là dâm ca. Thí dụ như những bài dâm ca trong thánh
kinh viết bằng tiếng Hê Brơ của người Do Thái cổ: "Cantique des cantiques",
những bài tụng ca "Hymne homérique V, à Aphrodite" , V, 53-74, thế kỷ
thứ VII trước TC, những bài dâm tình ca của dân Ai Cập cổ, viết theo lối chữ tượng
hình (hiéroglyphe) đã được Siegfried Schott giải tự. Thông dụng nhất, và nhẹ
nhàng nhất là bài tình ca "Hymne à l'amour" của thánh Paul (1
Corinthiens, chapitre 13) đã gợi hứng cho Edith Piaf phổ nhạc. Ðáng kể hơn nữa
là bài thánh ca tán tụng yêu đương "Quand on n'a que l'amour" (Khi ta
chỉ có tình yêu) thường được cất lên trước những cuộc lễ cưới ở nhà thờ TCG...
Còn nếu những bài dâm thi được truyền tụng lâu đời, thì được gọi là dâm kinh
(như Kâma-Sutraâ. Chú ý: chữ "â" có dấu mũ đàng hoàng nghe! Tôi sẽ
nói đến bộ dâm kinh này trong một phần sau).
Erotic
là một "ta-bu"?
Ðối
với chữ "Erotic" mà tôi vừa nêu trên, có lần ông Lưu Nguyễn Ðạt đã
dùng để chú thích ngay khi mở đầu bài, cuối trang 9. Câu này ông viết nguyên
văn: "Trong một nền văn hoá còn nhiều gò bó bảo thủ, nhục dục thường được
coi như một thứ "ta-bu", một việc cấm kỵ, kiêng tránh như phải kềm
hãm, be bờ một mãnh lực hoang tạp, hỗn độn..." Nếu chỉ có thế cũng chẳng
đáng nói làm gì, nhưng tai hại vô cùng, ông LNÐ lại còn cố giải thích thêm cái
"ta-bu" (tabou / taboo) của ông là do: "Căn cứ vào từ
"eros" (gốc Hy Lạp) và những thành ngữ như: Erotica, Erotic poetry,
Poésie érotique" (nguyên văn).
Thực
hết sức hỗn độn, và sai lầm, khi ông LNÐ khẳng định việc cấm kỵ nhục dục, là một
thứ "ta-bu" trong nền văn hoá VN, lại bắt nguồn từ chữ
"Erôs"! Qui kết như thế, chứng tỏ ông đã không đếm xỉa gì đến từ
nguyên học (étymologie). Ông LNÐ đã cột buộc cái "ta-bu" (của riêng
ông, chứ chưa hẳn của cả một nền văn hoá!) vào chữ "erôs" đầy huyền
thoại cao quí, đẹp đẽ của người Hy Lạp và nền văn hoá La-Hy tối cổ cuả nhân loại.
Xin
đưa ra vài dẫn chứng:
Trong
khuôn khổ giới hạn của bài này, dĩ nhiên tôi không thể nào kể đầy đủ chi tiết
nguồn gốc điển tích, huyền thoại kỳ bí về thần Erôs, vốn tiêu biểu cho tình
yêu, và dâm tính đầy nhựa sống, chứa chan tình cảm lãng mạn của dân tộc Hy Lạp.
Trong lãnh vực tư tưởng, nghệ thuật Hy Lạp, khi những vì tinh tú và ánh sáng
trên bầu trời giao hợp nhau, hay lu mờ đi, đều có thần Erôs. Khi nhựa cây đã
tràn ngập trong thân cây vào buổi đầu xuân ấm áp, cũng là do thần Erôs. Khi hai
sinh vật gặp nhau, ôm ghì, siết chặt lấy nhau, kéo dài trong giây lát, một thời
gian, hay cả một cuộc đời, cũng là hiện thân của thần Erôs! Nhưng ngược lại, nếu
cuộc sống trở nên ảm đạm, u buồn, lại không có Erôs!
Dĩ
nhiên, con người không thể nào có phép thăng thiên, để bay thẳng lên trời như
thần Icare, nhưng con người vẫn chẳng thể nào sống ở thế gian hoàn toàn vắng
bóng thần Erôs cho được. Hình ảnh của thần Erôs đã được các nhà nghệ thuật tạo
hình Hy Lạp mô tả như một thanh niên cường tráng, trên lưng mang đôi cánh, luôn
bay bổng giữa không trung, trong trạng thái vô trọng lực, nằm trên nền màu xanh
đen của những chiếc lọ lục bình, đủ cỡ lớn nhỏ. Sở dĩ người Hy Lạp luôn luôn tạo
hình thần Erôs đang bay lơ lửng giữa không trung, vì muốn nói lên thần lực của
Erôs, cho rằng Erôs có thể làm giảm nhẹ mọi sức ép đè nặng trên kiếp người, đồng
thời làm dịu bớt những cảm xúc chất chứa nặng chĩu trong tim của những kẻ yêu
nhau. Ðiều này chứng tỏ từ thời thượng cổ, các nhà thông thái, các văn nhân,
thi sĩ, các nhà nghệ thuật Hy Lạp đã biết đến định luật về sức hút, hay còn gọi
là hấp lực của trái đất, do nhà bác học Newton khám phá ra. Hơn thế, Erôs còn
được coi như vị thần có khả năng huyền bí thúc đẩy vạn vật từ thể tĩnh sang thể
động, và làm cho lòng người xúc động...
Tóm
lại, Erôs chẳng những là một vị thần trong huyền thoại cổ Hy Lạp, mà còn là một
đấng sáng tạo sinh động đóng vai trò trung gian giữa trời và người. Cho đến bây
giờ người ta vẫn còn tìm thấy những bài thánh ca tuyệt tác của những nhà thơ thần
thoại Hy Lạp (des hymnes orphiques) đã thánh hoá và ca tụng Erôs bằng những câu
truyền tử lưu tôn trong dân gian Hy Lạp như sau: "Détenteur des clés de
l'univers" (Người nắm giữ chìa khoá cuả vũ trụ), và câu: "Tient entre
ses mains le gouvernail du monde" (Ðôi tay cầm bánh lái con thuyền thế giới)...
Vậy
xin hỏi: Ông LNÐ căn cứ vào đâu mà đã gán cho thần Erôs cái đại tội tình dục tục
tĩu, đến nỗi đã bị dân tộc VN, và văn hoá VN coi như một thứ "ta-bu"
cấm kỵ?!
Apollon
và Diane là ai?
Tiếp
theo, ta hãy nói đến điển cố. Khi một nhà văn, hay nhà nghiên cứu, muốn đem một
điển cố trong kho tàng văn chương đông tây kim cổ vào bài viết của mình, tức thị
muốn cho bài có chiều sâu sắc, nói ít mà chứa đựng nhiều tình tiết. (Lắm khi phải
tốn nhiều trang giấy). Nhưng nó đòi hỏi nhà văn, hay người sử dụng điển cố
trong văn chương, phải am tường cặn kẽ điển cố và trích dẫn phải thật xứng hợp
với tình huống hiện hữu trong bài văn. Thí dụ như muốn tả vẻ đẹp của người con
gái mình mới làm quen ngoài phố mà kể rằng nàng đẹp như Chung Vô Diệm thì thực
chẳng còn có gì buồn cười và lố bịch cho bằng! Vậy mà khi nói đến dục ái trong
thi phẩm "Thiên đường tìm lại", ông Lưu Nguyễn Ðạt đã dẫn ra hai nhân
vật thần thoại cổ Hy Lạp là Apollon và Diane. Hai vị thần này thực sự chẳng
liên quan gì tới vấn đề dục ái hết thảy!
Nên
biết: Trong kho tàng huyền thoại và văn chương Hy Lạp cũng như trong tinh thần,
tập quán của người Hy Lạp từ xưa đến nay, hai vị thần Apollon (nam) và Diane (nữ)
không phải là biểu tượng đặc trưng cho dâm tính hay khoái lạc nhục dục. Apollon
là một trong 12 vị thần Olympe, ra đời tại Délos, mẹ là Léto, đã bị thượng đẳng
thần Zeus dụ dỗ, thuyết phục, và sinh ra đời 2 người con là thần Apollon với một
người em gái song sinh là nữ thần Artémis... Trong con mắt của người Hy Lạp,
Apollon là một vị thần khả ái, gợi hứng sáng tác cho các nhà nhạc sĩ, thi sĩ,
và là một vị thần bảo trợ cho mọi ngành nghệ thuật, tượng trưng cho mặt trời và
ánh sáng văn minh, phản ánh thiên khiếu nghệ thuật của nước Hy Lạp, và cũng là
thần tượng của tuổi trẻ, của sắc đẹp và của tiến bộ.
Như
vậy, rõ rệt Apollon không ăn nhập gì đến dâm thi, nhưng vẫn bị ông LNÐ lôi bừa
vào bài của ông. Hơn thế nữa, khi trích dẫn nữ thần Diane, ông đã không ngờ rằng
trong văn chương và huyền thoại Hy Lạp, vị nữ thần lừng danh kim cổ, tượng
trưng độc nhất vô nhị cho ái dục chính là nữ thần Aphrodite. Còn nữ thần Diane,
nguyên gốc nằm trong thần thoại của người La Mã cổ (Ý Ðại Lợi). Về sau, nàng
Diane đã được Hy Lạp đồng hoá với nữ thần Artémis, em song sinh cuả Apollon.
Trong
kho tàng huyền thoại La-Hy, ta càng ngạc nhiên hơn là không bao giờ có thể tìm
ra được đoạn văn nào nói đến nữ thần Diane "ngâm mình bên giòng sông vĩnh
cửu" (trích nguyên văn của ông LNÐ) mà chỉ biết được ở Némi có một ngôi đền
thờ nữ thần Diane, nằm bên một cái hồ và một bìa rừng thiêng! Ðến đây, thiết tưởng
tôi cần nói thêm đôi điều về nữ thần Aphrodite, để chứng minh lối trích dẫn điển
cố của ông. Aphrodite vừa là nữ thần bảo hộ cho các cuộc hôn nhân, tình yêu vợ
chồng, và sự sinh sản... Nhưng đồng thời nàng cũng là một nữ thần thường được
dùng làm biểu tượng cho dục vọng cuồng nhiệt mà không sức gì cản nổi. Ðôi khi
nàng còn phá hoại cả những cuộc phối ngẫu hợp pháp, đưa đẩy vợ chồng đến tình
trạng ngoại tình, và tạo ra nguyên nhân những cái chết bởi dục vọng và tội ác.
Trong kho tàng huyền thoại cuả La Mã, nếu muốn tìm một vị nữ thần tương đối giống
như Aphrodite, tôi thiết nghĩ không ai khác hơn là nữ thần Vénus.
Về
hình tượng, nữ thần Aphrodite, thường được người Hy Lạp mô tả khoả thân hay đôi
khi bán khoả thân, khoác trên thân thể bốc lửa dục tình ngùn ngụt một tấm the mỏng
dính, trong những thế đứng, ngồi cực kỳ khêu gợi dâm dục... Về nguồn gốc cuả
Aphrodite, ta thấy có hai giả thuyết khác nhau khá dài dòng và phức tạp, nên
không tiện kể thêm vào đây. Riêng tôi, nếu có ai cắc cớ hỏi: "Trong số tất
cả các nữ thần Hy Lạp, anh thích ai nhất?", chẳng cần suy nghĩ, tôi xin
thưa: "Thích nhất Aphrodite. Vì nàng là hiện thân cuả đủ mọi đức tính cao
quí hiếm có, lẫn những thói hư tật xấu rất "người" của nhân loại!"
Ðiều này bạn có đồng ý với tôi hay không tùy bạn!
II.
VÀI ÐIỀU VỀ KIẾN THỨC Ở BÀI "KHỞI" TRONG CUỐN "THIÊN ÐƯỜNG TÌM LẠI"
Chuyện
Mozart v à Don Juan
Như
đã chứng minh, người đọc có thể hiểu rằng ông Lưu Nguyễn Ðạt viết bài "Khởi"
cho dâm thi "Thiên Ðường Tìm Lại" như là để phô trương vốn kiến thức
của một nhà khoa bảng có bằng tiến sĩ ở Mỹ. Ðọc bài ông viết, ta thấy ngay cái
vốn ấy bao gồm nhiều lãnh vực, thuộc nhiều nền văn hóa đông-tây, kim-cổ: thần
thoại La-Hy, nhạc Mozart, và các bộ kinh điển của các đại tôn giáo như Cựu Ước,
Tantra, Mật Tông, và Kâma Sutra, v.v... Về khoản Anh văn, như ông đã chú thích
21 lần trong bài, chắc không ai dám chê. Nhưng còn các khoản khác, hiển nhiên
nhiều người đã cảm thấy "tức anh ách" mà không buồn nói. Riêng tôi,
chẳng ngại tài sơ trí thiển, cứ đánh liều lạm bàn với ông, may ra được học hỏi
thêm nơi ông điều nào mới mẻ hay không?
Trong
phần trước, tôi đã nói đến việc trích dẫn điển cố La-Hy, với một số thần thoại
về Apollon, Diane, Érôs... Bây giờ tôi mạn phép lạm bàn đến nhạc Mozart, qua
câu sau đây của ông LNÐ: "Chữ nghĩa dục ái trở thành âm điệu, thành hòa âm
tiếp nối dòng nhạc Mozart luân biến Don Juan thành tuyệt tác". (nguyên
văn). Có thể nhiều người chẳng thể nào hiểu rõ được cái ý gì chứa đựng trong
câu viết tù mù này, nhưng vẫn thừa sức biết được một vài sự kiện cụ thể về cuộc
đời sáng tác của Mozart và giá trị đích thực của nhạc phẩm Don Juan (trình diễn
năm 1787, tại Prague). Ông LNÐ nói "Chữ nghĩa dục ái" đã làm cho nhạc
phẩm Don Juan thành tuyệt tác. Ðiều này chứng tỏ rõ rệt ông đã chẳng biết tí gì
về sức khỏe yếu kém bẩm sinh, về nỗi bất hạnh trên phương diện tình trường và
cuộc sống lứa đôi không hạnh phúc đã khiến thiên tài Mozart mệnh yểu
(1756-1791) trong cảnh thảm não. Vào một ngày mùa đông, năm 1791, một chiếc xe
tang cũ kỹ đã lặng lẽ đưa thi hài ông ra nghĩa điạ, trong bầu không khí lạnh lẽo,
cô đơn, độc nhất chỉ có một con chó nhỏ trung thành lẽo đẽo theo sau... Ông LNÐ
cũng chẳng biết gì hơn về khuynh hướng sáng tác của Mozart. Ông chỉ viết càn. Bởi
xét trong số 600 nhạc phẩm của Mozart đã để lại cho nhân loại, nhạc phẩm Don
Juan chỉ được coi như đã thành công hơn nhạc phẩm "Les noces de
Figaro" (Lễ cưới của chàng Figaro) mà thôi. Còn những nhạc phẩm lừng danh,
bất hủ của Mozart, mà cả thế giới âm nhạc đều đã phải nghiêng mình ái mộ, chính
là những nhạc phẩm cuối cùng trong cuộc đời ngắn ngủi của Mozart, là: La flute
enchantée (ống sáo thần) và Requiem (1797). Hai nhạc phẩm này đã được Mozart viết
bằng cả máu lệ của một con tim đau đớn, buồn tủi cho số kiếp hẩm hiu đầy nghịch
cảnh của mình. Như vậy, xin hỏi "chữ nghĩa dục ái" nào đã khiến cho 2
tuyệt phẩm bất hủ, được cả thế giới âm nhạc từ mấy thế kỷ nay thừa nhận và tán
tụng, nhưng lại bị ông LNÐ gạt ra rìa?!
Chuyện
trái táo!
Bây
giờ bước sang lãnh vực tôn giáo và kinh kệ mà ông LNÐ đã lôi vào bài "Khởi"
ngắn ngủn, rỗng tuếch của ông, qua câu trích dẫn nguyên văn sau đây:
"Trong thánh kinh Thiên Chúa Giáo và Cựu Ước, nhân loại đồng tình, thể hiện
qua nam giới A Dông. Nữ tính Ê Va xuất chiết từ cơ thể A Dông, nên nhân bản
nguyên thủy bất tách. Trái táo biểu tượng cho thánh lịnh cấm đoán phạm giới, đồng
thời tạo kiến thức phân tách nam nữ tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục ái và
vòng sinh tử... Kinh điển Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông Tây Tạng, và Kama Sutra, đều
phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính ngay trong giới hạn và
chiều sâu của nhân thế..." (tr. 14,15).
Chỉ
vỏn vẹn một câu ngắn như thế mà ông LNÐ đã lôi gần hết các đại tôn giáo tối cổ
của nhân loại vào, khiến nhiều người không khỏi giật mình. Kẻ nào dốt chắc sẽ
không khỏi khiếp sợ cái vốn kiến thức bao la của ông lắm. Nhưng trong con mắt của
những kẻ tinh đời, người ta thấy hành động phô trương này của ông chẳng khác
nào con nhà trọc phú, mắc bịnh khoe! Nhưng dù sao ta vẫn không thể gạt ngang sự
viện dẫn của ông, mà chẳng xét đến khía cạnh "đúng lúc, đúng choã",
hay còn gọi là "thích hợp" hay không của những kinh điển mà ông đã
nêu tên. Nếu sự viện dẫn này thực sự ích dụng phần nào cho việc giới thiệu tác
phẩm "Thiên đường tìm lại" của nhà văn Hồ Trường An, và giúp cho người
đọc mở mang thêm phần nào trí tuệ về tôn giáo, thì cũng là điều đáng ca ngợi.
Nhưng đáng tiếc thay, qua ngay mấy chữ đầu "Kinh Thiên Chúa Giáo và Cựu Ước"(?!),
ông LNÐ đã tỏ ra chẳng biết cả đến Thiên Chuá Giáo có những bộ kinh nào, và tên
gọi đàng hoàng là gì. (Nơi đây tôi không tiện đi sâu vào chi tiết. Bạn đọc nào
tò mò, muốn tìm hiểu thêm, xin đón đọc tác phẩm khảo luận "ÔNG TRỜI LÀ AI?
TÔN GIÁO LÀ GÌ?" của tôi sắp xuất bản).
Khi
nói về dục ái của con người, ông LNÐ đã lôi cả ông Adam, bà Eva, thủy tổ loài
người, với tội ăn vụng trái cấm, để vu khoát khẳng định: "Trái táo biểu tượng
cho thánh lệnh cấm đoán phạm giới, đồng thời tạo kiến thức phân tách nam nữ
tính, và từ đó dẫn tới đam mê dục ái và vòng sinh tử..." Viết như thế, trước
hết, chứng tỏ ông đã không biết gì về cặp Adam và Eva đã do dân Hebreux cổ (tổ
tiên của người Do Thái) tạo ra, và đã có tới 2 truyền thuyết hoang đường cùng một
lúc: -
Một
nằm trong "Document Sacerdotal", gồm 11 điều, ghi rõ Elôhim (tên gọi
ông trời của người Hebreux) chế ra thủy tổ loài người (điều 8,9), nhưng không
thấy nói đến trái cấm. -
Một
nằm trong "Yahwiste", gồm 13 điều. Trong đó, Yaweh-Elôhim chế thêm ra
chuyện con rắn dụ bà Eva ăn trái cấm trên "cây tri giác" (arbre de la
connaissance, hay còn gọi là: Arbre-du- Discernement-du-Bien-et-du-Mal) (điều
3, 5, 6,7,8,9,10).
Hơn
thế, ông vẫn không biết, ngoài 2 truyền thuyết kể trên trong kinh của đạo Du
Già (Judaisme), nguồn gốc cội rễ của Cựu Ước Kinh TCG... còn có nhiều truyền
thuyết khác về nguồn gốc loài người, như của dân Thổ, Mễ Tây Cơ, Mông Cổ v.v...
Triết
lý " Ăn trái cấm"
Mặt
khác, về chuyện ăn trái cấm (arbre de la connaissance) mà ông LNÐ đã gọi cách
trẻ con là "trái táo", thôi ta cũng chẳng nên bận tâm làm gì. Nhưng
còn chuyện ông bảo rằng "trái táo biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm
giới... sinh tử "? Ðiều này chứng tỏ ông Ðạt chỉ thấy sao hiểu vậy, chẳng
khác nào đứa trẻ con gọi "trái cấm trên cây tri giác" là... trái táo!
Triết lý "ăn trái cấm" trong thánh kinh các đạo Judéa-Christianisme hằng
mấy trăm năm nay đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực và tim óc của nhiều nhà
thần học và nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo, nhưng vẫn chưa đạt đến một thỏa hiệp
tư tưởng nào, mà nay, chỉ bằng một câu ngắn ngủi, ông LNÐ đã khẳng định là
"biểu tượng cho thánh lệnh cấm đoán phạm giới...", thì quả thực ông
thuộc loại "điếc không sợ súng" siêu hơn mọi người!
Theo
tôi, muốn tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của triết lý "ăn trái cấm" trong
các loại thánh kinh Judéa-Christianisme, ta phải tìm ngay nơi chữ đầu tiên của
chương sáng thế (Genèse). Thánh kinh của đạo Du Già, gồm 3 bộ: Torah /Loi (gồm
5 quyển), Les Prophètes (8 quyển), Les Écrits (gồm nhiều quyển, trong đó có quyển
dâm ca Le Cantique des Cantiques...) Ngoài ra, ta còn phải biết thêm, Cựu Ước
Kinh TCG đã bắt nguồn từ các bộ kinh Du Già, sau được bổ túc thêm bằng Tân Ước
Kinh, gồm 4 bộ: Les Évangiles, Les Actes des Apôtres, Les Épitres và
L'Apocalypse. Trong phạm vi bài này, tôi không thể đi sâu vào các bộ kinh ấy
hơn nữa. Vả chăng không cần thiết.
Khi
vừa mở chương Sáng Thế (Genèse) ra, ai cũng phải nhận thấy ngay, nó đã khởi bằng
một chữ Hebreucổ: "BÉRÉCHIT". [Chữ này được dịch là: Au
commencement... (tiếng Pháp); hay: In / from the beginning... (tiếng Anh)]. Vậy,
theo từ nguyên học (étymologie), chữ Béréchit là gì? Chữ này bắt đầu bằng âm tiết
"BER", ngụ ý trỏ "đứa trẻ thơ", biểu tượng của thiên lương
thuần khiết của con người lúc mới mở mắt chào đời. Tương xứng với khái niệm
"nhân chi sơ tánh bản thiện" và triết lý "xích tử chi tâm"
của văn hóa và tôn giáo Á Ðông (Phật, Lão, Khổng). Nhưng, ta vẫn còn phải tìm
hiểu sâu xa thêm hơn nữa. AÂm tiết "BER" đã khởi đầu bằng mẫu tự
"B", mà người Hebreux phát âm là: BETH. Nên biết, tiếng
"BETH" vốn được người Hebreux minh họa bằng một cái chấm nhỏ, nằm giữa
một hình vuông không khép kín. Hình vuông này chỉ một cái khung, một căn nhà có
người, hay đích xác nhất là chỉ cái dạ con của người phụ nữ đang cưu mang một
bào thai (foetus).
Tới
đây, một câu hỏi cần phải đặt ra: "Tại sao các thánh kinh của Du Già Giáo,
nguồn gốc của Cựu Ước Kinh TCG, lại đều khởi đầu bằng mẫu tự thứ nhì (chữ"B"),
mà không bằng mẫu tự thứ nhất (chữ"A")? Bởi mẫu tự "B" vốn
tượng trưng cho tính lưỡng diện, lưỡng cực của thế giới nhị nguyên, cho sự đối
đãi (dualiteù). Còn chữ "A", tức "ALEPH" (tiếng Hebreu), chỉ
chất khí (Hydrogène) theo thủy nguyên học (hydrogenèse). Chất khí vốn mang thể
đơn thuần, đồng nhất (uniteù), nguồn gốc phát sinh ra vạn vật. Mặt khác, chữ
"B" (beth) còn chỉ xạ khí, sự bốc hơi (émanation), có nghĩa hẹp là: Một
thành hai. Và nghĩa rộng là: Do sự phóng xuất từ chất khí, từ thể đơn thuần ra
thành đa số bao la và vô biên...
Tóm
lại, do cơ sở từ nguyên học, chúng ta hiểu được ý nghĩa thâm sâu, rốt ráo của
chữ "BERECHIT" mở đầu các kinh thánh Judea-Christianisme, là con người
đã phát sinh từ một thể đồng nhất hóa thành đa dạng, tức cùng một thủy tổ mà
hoá ra đông đảo vô số, nhưng trong thâm tâm con người vẫn luôn luôn khắc khoải
hướng về thể đồng nhất của cội nguồn, tức tìm về cái chấm"ALEPH", điểm
khởi nguyên của giống người. Nhưng đáng buồn và đáng tiếc thay, khi đã ra đời rồi,
con người sống lạc lõng trong thế giới nhị nguyên, với món tội tổ tông nặng chịch
trong tâm khảm, cộng thêm cuộc tranh sống bạo tàn diễn ra hằng ngày, trong một
hoàn cảnh kinh tế ngày càng khó khăn, khiến lớp hậu duệ của Adams và Eva đã lần
hồi đánh mất thiên lương, trở nên đối đầu, chống chọi nhau kịch liệt, đến mức
xâu xé, giết chóc nhau thảm khốc qua các cuộc thánh chiến, hay còn gọi là chiến
tranh tôn giáo. Có hiểu được như thế, tất nhiên ta mới nhận ra câu "nên
nhân bản nguyên thủy bất tách" của ông LNÐ chỉ là một lối phóng bút viết
càn.
Nhân
tiện, thiết tưởng tôi cũng cần phải nói thêm, thật vắn tắt rằng: Muốn hiểu được
tư tưởng của người Hebreux (Do Thái cổ), ta còn phải biết phân tách chữ
Hebreux, để khám phá ra những điểm chung giữa các chữ viết cùng một loại phụ âm
(consonnes). Bởi chữ Hebreu không dùng mẫu âm (voyellles). Nhưng lại có rất nhiều
chữ viết cùng một phụ âm. Mặt khác, ta còn phải biết, mỗi mẫu tự (lettres) của
tiếng Hebreux, khác hẳn mọi ngôn ngữ trên thế giới, đều mang một trị số. Như vậy,
mỗi chữ Hebreux đều hàm chứa một giá trị tương ứng với những con số, tính trên
căn bản các mẫu tự nằm trong chữ đó.
Tantra
Ấn Độ là gì?
Bây
giờ ta hãy xét đến câu ông LNÐ viết: "Kinh điển Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông Tây
Tạng, và Kâma Sutra, đều phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh
tính ngay trong giới hạn và chiều sâu của nhân thế". Theo tôi, có lẽ khi kể
tên mấy bộ kinh này vào bài viết, chắc ông cũng chỉ ngon trớn phô chơi một chút
cho oai vậy thôi. Chứ nếu một người cẩn trọng, có chút lương thiện trí thức,
không ai dám hạ bút như thế bao giờ. Bởi ai cũng biết mỗi bộ kinh là một phần cốt
tủy của một tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều có một số điểm dị biệt nào đó về một vài
vấn đề thuộc địa hạt tâm linh, tình cảm hay nhục dục. Như vậy thánh kinh của
các tôn giáo không thể nào pha trộn, nhập cục vào nhau như một món tả pín lù,
hay một đĩa "salade ruisse" được. Thí dụ như bộ Tân Ước Kinh đã dùng
để bổ túc, làm phụ bản cho bộ Cựu Ước Kinh, và kinh Talmud chỉ dùng để giải
thích thêm cho bộ kinh Torah, chứ không thể trộn lộn vào nhau được. Nhưng ông
LNÐ đã quơ bừa một lúc cả 3 quyển kinh của 2 tôn giáo Tantra Ấn Ðộ và Mật Tông
Tây Tạng- vốn khác nhau như nước với lửa! - vào một mối "liên quan mật thiết
giữa tình dục và thánh tính" (nguyên văn). Sở dĩ tôi đã không kể bộ dâm
kinh Kâma Sutra vào đây, vì cho đến nay hầu hết tín đồ các tôn giáo ở Ấn Ðộ
như: Bà La Môn (Brahmanisme), Ấn Giáo (Hindouisme), Tantrisme, và Jainisme... vẫn
không ai công nhận Kâma Sutra như một bộ kinh chính thức. Thậm chí ngay cả giới
giáo đồ Tantrisme cũng không ai dám công khai nhìn nhận gía trị tinh thần của
Kâma Sutra!
Trước
hết nên biết: Kinh Tantra, không liên hệ xa gần gì với PG Mật Tông Tây Tạng, và
hoàn toàn không phải là một dâm kinh như Kâma Sutra. Tantra chỉ là một tôn giáo
chủ trương đề cao khí lực của nữ giới (gọi là: shakti), cho rằng đó là một sức
mạnh thần thánh mà nữ giới đã thụ nhận từ các đấng thần linh tối thượng, có hiệu
năng gây kích động nam giới. Trong thần thuyết này, ta thấy nữ giới đóng vai chủ
động, còn nam giới hoá thành thụ động. Vì "phái yếu" (sexe faible)
chính là sức mạnh của Thượng Ðế. Do đó, người Ấn Ðộ còn gọi đạo Tantrisme bằng
một cái tên khác là: Shaktisme. Trong phạm vi tín ngưỡng, kinh Vệ Ðà của đạo Bà
La Môn (Brahmanisme) tôn thờ 3 vị nam thần: Agni (thần lửa trên mặt đất), thần
Surya (mặt trời trên không trung), và thần Vâyu (gió trong không khí). Còn Ấn
giáo (Hindouisme) lại thay thế bằng 3 vị thần khác có cặp và rất xung khắc là:
Brahma (thần không gian và thời gian), Shiva (thần sáng tạo và hủy hoại), thần
Vishnou (bảo thủ và canh tân). Cả 2 đạo này đều chủ trương đặc biệt tán dương
và thần thánh hoá nam giới, xuyên qua hình tượng các nam thần. Ðến đây, phải nhận
ra rằng 2 đạo Bà La Môn và Ấn Giáo vốn là nền tảng tinh thần của sự phân chia đẳng
cấp rấr rõ rệt trong xã hội Ấn, đồng thời cũng đã đẻ ra tệ đoan "kỳ thị nữ
giới "đến mức cực kỳ dã man, tàn bạo, rất thảm thương. Vì thế, đạo
Tantrisme đã thay thế 3 ngôi thánh thể nam giới (Trimurti) đó, bằng một cặp thần
linh lưỡng cực. Mỗi vị thần có một nữ thần phụ tá, tượng trưng bằng Shakti,
nhân cách hoá làm vợ của thần Shiva... Như thế, ta phải hiểu chủ trương của
Tantra chẳng liên quan gì đến "tình dục và thánh tính" của ông LNÐ hết
thảy, mà chỉ nhắm phục hồi vai trò quan trọng của nữ thần trong tín ngưỡng, để
tạo sự cân bằng nam / nữ, chẳng khác nào như đức mẹ đồng trinh Maria của TCG và
Phật Bà Quán AÂm cuả PG!
Về
mặt tình dục nam nữ, ta có thể tìm thấy điểm tương đồng giữa lưỡng cực Âm-Dương
của Lão giáo với "Yoni" và "Linga" của Tantra. Nếu từ xưa đến
nay, xuyên qua hàng mấy ngàn năm, trong lãnh vực tôn giáo và văn hoá Ðông-Tây,
đã không một ai dám qui kết triết thuyết AÂm-Dương cuả đạo Lão là "một
liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tínhx", thì bây giờ ông Ðạt
cũng không thể nào liệt Tantra vào hàng dâm đạo được. Chí đến Ấn giáo, ngót cả
tỷ tín đồ, với các đền thờ đã khắc cẩn và trưng bày vô số hình tượng dâm dục
(sculptures érotiques), biểu diễn đủ các màn hành dâm đặc biệt của từng cặp, có
khi cả một tập thể giữa người với người, hay giữa người với súc vật... mà nổi
tiếng nhất thế giới là ngôi đền Khajurâho, vẫn chưa một ai cho đó là một liên
quan mật thiết giữa tình dục với thánh tính hết thảy. Bởi ai cũng đã biết rõ
ràng mục tiêu và chủ trương của Tantra Ấn Ðộ chẳng phải là một dâm đạo và kinh
Tantra chẳng có mùi vị dâm kinh chút nào. Ngược lại, Tantra đích thực là một
tín ngưỡng đặt trên nền tảng phối hợp quân bình giữa nam-nữ, tán dương tính chất
hoà đồng và đồng đẳng của hai thể xác nam nữ, đồng thời xoá bỏ mọi giai cấp xã
hội. Trong triết lý Tantra, người ta còn nhận thấy nổi bật lên một chủ thuyết
quan yếu: Khi đã lột bỏ mọi thứ vật dụng trang phục, con người chỉ còn là những
tấm thân tứ đại trần truồng, thì đó chính là sự bình đẳng tuyệt đối giữa mọi
con người. Vì người nào cũng có một bộ phận sinh dục như nhau với công năng
tình dục như nhau. Theo tôi, đọc kinh sách, nếu có quán triệt được tối thiểu đến
như thế thì hãy nói đến tôn giáo. Ngược lại, chớ nên dại dột viết càn mà mang tội!
Mật
Tông Tây Tạng liên hệ gì?
Phật
Giáo gồm có tam thừa: Tiểu Thừa (Hinayâna), hay còn gọi là PG Nguyên Thủy
(Theravada), Ðại Thừa (Mahâyâna) và Kim Cang Thừa (Vairayâna). Mỗi thừa đều có
nhiều tông phái khác nhau. Người học Phật nào cũng biết, thuở sanh tiền đức Như
Lai không hề viết một chữ. Có thể bởi các đấng thánh tăng, thiền tổ chủ trương
"bất lập văn tự", song cũng có thể lúc bấy giờ, vào khoảng thế kỷ thứ
VI hay thứ V trước công nguyên, người Ấn Ðộ chưa có chữ viết (?). Dù sao những
nghi vấn này vẫn không quan trọng. Nhưng về sau, PG đã trở nên một tôn giáo có
số lượng kinh sách vô địch. PG Nguyên Thủy có khoảng 15.000 trang kinh sách. PG
Ðại Thừa có khoảng ngót 100.000 trang. Nhưng so với PG Tây Tạng vẫn còn ít hơn
đến 2 lần! Như vậy, theo tôi nhận định, muốn tìm hiểu thấu đáo kinh điển và chủ
trương của PG Tây Tạng, dù một người dùng hết thời giờ trong cuộc đời của mình,
hằng ngày chỉ chuyên chú đọc kinh và tìm hiểu ý nghĩa chứa đựng trong đó, chắc
cũng phải mất đến mấy kiếp mới xong! Vậy mà, đáng khiếp sợ thay, ông LNÐ đã dám
lôi cả Mật Tông Tây Tạng, một tông phái thuộc Kim Cang Thừa, vào trong vài chữ
"Kinh điển Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông Tây Tạng, và Kâma Sutra, đều phổ quát
liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính ngay trong giới hạn và chiều
sâu của nhân thế"(sic!) Trước sự thể này, tôi biết dùng lời nào để nói với
ông cho vừa, và làm sao giãi bày trọn vẹn "Mật Tông Tây Tạng " cho bạn
đọc thông suốt. Thiển nghĩ, nếu không khéo, có thể tôi dám bị rơi ngay vào vết
chân của ông. Nhưng thôi, dù sao bài này chỉ khép tròn trong phạm vi "dâm
kinh, dục ái và thánh tính", tôi cũng nên thẳng thắn lạm bàn với ông Ðạt
đôi điều.
Trước
hết, tôi nghĩ có thể ông LNÐ đã nghe đâu đó về chuyện một số tăng sĩ Mật Tông
Tây Tạng có vợ như giới Tân Tăng ở Nhật Bản. Theo sự tìm hiểu của tôi, quả thực
ở Tây Tạng có một số tăng sĩ có vợ, con công khai, đàng hoàng. Nhưng, nếu vậy
ông cần phải biết thêm: Mật Tông Tây Tạng vốn có đến 4 hệ phái khác nhau. Khác,
chẳng phải vì chủ thuyết, chẳng phải vì giáo điều, vì nghi thức hay tục lệ cúng
bái, mà chỉ khác khu vực. Như vậy, sự khác biệt chỉ có tính cách địa phương.
Trên bình diện tổng thể, tăng sĩ PG nào, dù là Mật Tông Tây Tạng, cũng phải giữ
nằm lòng câu "Ái dục mạc thậm ư sắc",ø không được léng phéng với đàn
bà con gái. Tại sao? Dĩ nhiên, có thể trả lời rằng: Do chủ trương "diệt dục".
Vâng, không sai. Song trên thực tế, còn một nguyên nhân nữa, hết sức quan trọng,
vì liên quan đến các khía cạnh kinh tế, tài chánh, gia đình, xã hội, tín ngưỡng,
và văn hoá... Chính điều này ta cần phải quan tâm thâm cứu kỹ càng hơn.
Từ
hàng ngàn năm rồi, sở dĩ đạo Phật (cũng như đạo Thiên Chúa) đã cấm giới tu sĩ lấy
vợ, bởi các nhà khai sáng và lãnh đạo PG và TCG đã rút được một bài học quí gía
từ những tệ nạn của đạo Bà La Môn (nguồn gốc của đạo Phật), và Du Già (cội rễ của
đạo TCG). Khi các thầy tu lấy vợ, tất sẽ sinh con, đẻ cháu. Như thế sẽ tạo ra tệ
nạn "cha truyền con nối ". Tài sản, đất đai, chùa chiền, đền thờ...
do tiền bạc của tín đồ, bá tánh thập phương cúng dường, sẽ bị vợ chồng thầy tu
soán đoạt rồi trao truyền lại cho các thế hệ con cháu, biến thành tư sản của một
dòng dõi gia tộc. Nhưng, ở Tây Tạng, giới tăng sĩ lấy vợ, đẻ con, lập nên cả một
hệ thống "tăng sĩ cha truyền con nối, gia đình trị" chỉ riêng có hai
phái Gelugtpa (tăng sĩ mũ vàng) và phái Sakyapa. Nhưng 2 phái này cũng đã thành
hình từ lâu lắm rồi, tính ra không dưới... 930 năm trước đây, và tiếp tục truyền
thừa mãi đến tận bây giờ. Vậy, xét ra chuyện các tăng sĩ phái Gelugtpa và
Sakyapa Tây Tạng lấy vợ cũng chẳng khác nào giới mục sư Tin Lành ở Mỹ, và khắp
nơi trên thế giới, hay như phái Tân Tăng Nhật Bản mà thôi. Trong trường hợp
này, nếu ông LNÐ đã không thể lôi việc các mục sư Tin Lành và giới Tân Tăng Nhật
Bản vào vụ " liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính" của
ông, thì cũng không thể nào dùng tục lấy vợ của một số tăng sĩ Tây Tạng, để qui
kết cho cả Mật Tông Tây Tạng vào câu nói vu khoát đó. Tóm lại, nên nhớ và phân
biệt cho kỹ rằng, việc một số tăng sĩ, và mục sư lấy vợ hoàn toàn không ảnh hưởng
gì đến các bộ Cựu Ước Kinh, Tân Ước Kinh của đạo Ki Tô, hay các bộ Tạng, Luật của
Phật Giáo hết thảy!
III-
VỀ DÂM KINH "KÂMA- SUTRA" NHÂN ÐỌC BÀI "KHỞI"
Tư
tưởng và hành động
Trước
khi mạn phép trình bày vài ý kiến về quyển dâm kinh "Kâma-Sutra" của Ấn
Ðộ với Lưu Nguyễn Ðạt, thiển nghĩ, giữa tôi với ông Ðạt hoàn toàn "dĩ ngãi
vô thuø". Nhưng sở dĩ tôi dám mạo muội góp ý với ông, vì như nhiều người
đã nói với tôi, sau khi đọc bài "Khởi" của ông họ cảm thấy tức anh
ách, không chịu được. Dĩ nhiên tôi cũng cảm thấy như họ. Nhưng tôi tự hỏi: Tại
sao ta lại phải mang cái "anh ách" ấy trong bụng làm gì cho mệt. Thà
cứ thẳng thắn trình bày với ông để nhờ ông giảng giải cho những điều hay lẽ phải.
Như thế có tốt đẹp hơn không? Ðó chính là nguyên nhân, khiến nơi đây, tôi tiếp
tục đặt vấn đề với ông LNÐ, liên quan tới câu ông viết nguyên văn: "Kinh
điển Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông Tây Tạng và Kama-Sutra, đều phổ quát liên quan mật
thiết giữa tình dục và thánh tính ngay trong giới hạn và chiều sâu của nhân thế."
(tr. 14,15 TÐTL). Trong câu này "cái tức anh ách" nằm ở chỗ ông viết
"phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính ngay trong giới
hạn và chiều sâu của nhân thế". Ông chỉ nói mà không giải thích, không chứng
minh gì cả, khiến tôi làm sao mà chẳng thấy "anh ách " trong bụng cho
được?
Theo
tôi, khi cần phải lý giải một vấn đề nào trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, ta
cần phải tìm hiểu chi ly, cặn kẽ, diễn tả sắc bén, lý luận đanh thép, để cho vấn
đề được sáng tỏ. Như thế, chắc sẽ không sao tránh khỏi sự va chạm tự ái, sinh
ra thù nghịch, đối với những người cầm bút tâm địa hẹp hòi, trình độ hiểu biết
còn thô sơ, ấu trĩ. Nhưng, ta nên biết, trên trường văn trận bút, cũng như trên
võ đài, không có chỗ nào dành cho "khoan nhượng" hay "chơi bẩn".
Ðộc giả cũng như khán giả võ đài sẽ là phán quan công minh nhất để thẩm định
giá trị và tài năng đích thực của hai bên tranh luận, hay tranh tài. Từ căn bản
tranh luận đó, nơi đây ta lại đề cập thêm về quan điểm của ông LNÐ trong phạm
trù "dâm thư", mà ông đã dịch sang Anh ngữ là:
"pornography" (số 6, tr. 10). Ðến đây, có bạn sẽ tự hỏi: Tại sao ta
phải quan tâm đến hai chữ này như vậy? Vâng, thắc mắc của bạn kể ra cũng hợp lý
lắm. Nhưng, theo tôi, quan niệm về "cái dâm" của người viết chính là
ngọn đuốc soi đường, là kim chỉ nam cho tác giả đi sâu vào các ngóc ngách, hang
hốc của vấn đề. Nếu quan niệm sai, tất tác giả sẽ không tránh khỏi bị lạc hướng,
diễn tả méo mó vấn đề. Trong trường hợp này, nếu người đọc thiếu thận trọng, sẽ
không tránh khỏi sa chân lạc bước theo tác giả luôn!
Nếu
trong bài, ông LNÐ chỉ dùng chữ "dâm thư" không thôi, ta sẽ không nhận
ra được quan niệm sai lầm của ông. Vì ngôn ngữ VN vốn không dồi dào súc tích lắm
trong lãnh vực này. Nhưng xét trong ngôn ngữ Âu-Mỹ, ta thấy các dân tộc Tây
phương nhìn vấn đề này phóng khoáng hơn, nên có nhiều ngôn từ thông dụng, diễn
tả chính xác hơn, tùy theo từng trường hợp. Trong lãnh vực văn hoá và tư tưởng,
như thi ca, kinh điển, khi đề cập đến cái dâm, các nhà nghiên cứu và sáng tác
Tây phương thường dùng chữ Érotique (erotic), chứ không ai dùng chữ:
Pornographie (pornography) bao giờ. Thí dụ: poème érotique, hay poésie
érotique, và poète érotique (dâm thi, thi sĩ viết dâm thi), chứ không ai dùng
chữ poète pornographique. Trong lãnh vực tín ngưỡng và tôn giáo cũng thế. Người
ta dùng những chữ Livre érotique, hay Bible du sexe (dâm kinh); chứ không bao
giờ dùng chữ Bible pornographique, poésie pornographique, hay Livre
pornographique! (Xin nói rõ: hai chữ Bible và Livre nơi đây có nghĩa Kinh và
Thư, hay nói chung là Thánh Thư). Sự tinh tế đó trong văn chương và tín ngưỡng
cần phải có, chẳng khác nào như sự tinh tế trong tư tưởng của một người đàn ông
trí thức, thanh lịch. Khi ngủ với vợ hay ngủ với nhà thổ, đành rằng mục đích
thoả mãn dục lạc chỉ là một, và các hành động dâm dục vẫn diễn ra y hệt; nhưng
cảm xúc và tư tưởng liên hệ tới hai kẻ đối tác khác nhau ấy không thể hoàn toàn
như nhau được. Người đàn ông trí thức, thanh lịch, phải cảm nhận thấy từ trong
chốn thâm sâu nhất của tư tưởng và tình cảm, trong lúc giao hoan với vợ có sự
trân trọng, nâng niu, mơn trớn, vuốt ve, thương yêu, trìu mến, và tình tứ, lãng
mạn. Ngược lại, khi ngủ với nhà thổ, tuyệt nhiên những thứ cảm xúc và tư tưởng
cao thượng ấy không thể nào chen vào được, dù chỉ trong một sát na giữa cuộc
truy hoan thuần túy thỏa mãn xác thịt. [Muốn rõ hơn, xin xem tiếp đoạn sau, nói
về Kâma-Sutra]. Tóm lại, trước hai đối tác vợ và nhà thổ, bất cứ một người đàn
ông bình thường nào cũng không thể coi vợ như nhà thổ, hay ngược lại, nhà thổ
như vợ, và khi ngủ với vợ coi như ngủ với nhà thổ! Vậy, cũng một cách như thế,
không thể lẫn lộn giữa 2 chữ "Érotique" và "Pornography" được!
(Tôi
nói như thế chỉ là một lối dùng hình ảnh cụ thể để diễn tả một vấn đề chẳng những
đã trừu tượng lại thường chuyển hoá, tùy từng trình độ kiến thức và cảm quan của
mỗi cá nhân. Tuyệt nhiên không có ý ám chỉ ông thuộc hạng "bất tri kỳ vị"
trong tư tưởng. Xin ông hiểu rộng mà thứ lỗi cho!)
Kâma-Sutra
là gì?
Câu
ông LNÐ viết kể trên, đã đề cập đến các tôn giáo Tantra Ấn Ðộ, Mật Tông Tây Tạng,
và Kâma-Sutra, cho rằng "đều phổ quát liên quan mật thiết giữa tình dục và
thánh tính". Hai tôn giáo Tantra Ấn Ðộ và Mật Tông Tây Tạng, tôi đã đề cập
đến rồi. Nay chỉ góp ý về Kâma-Sutra mà thôi. Theo nhận xét của tôi, không mấy
người VN quan tâm tới hai tôn giáo Tantra và Mật Tông. Nhưng riêng Kâma-Sutra,
có lẽ đa số đàn ông, thanh niên VN, có trình độ kiến thức chút đỉnh đều nghe
nói đến. Trong số, một ít người, nếu đọc được ngoại ngữ, có thể đã vào thư viện
mượn coi, hay mua về, cất kỹ trong một xó xỉnh nào đó, để thỉnh thoảng lén vợ
con, lôi ra đọc. Như thế, tôi có thể nói mà không sợ sai lầm bao nhiêu là đại
đa số những người đã đọc Kâma-Sutra, chỉ cốt xem hình vẽ đủ các kiểu hành dâm,
để thoả mãn dâm tính, và thói tò mò. Trong số những hạng người mà tôi vừa nêu
trên, một hạng chỉ nghe nói đến Kâma -Sutra, một hạng đã đọc và chỉ coi hình để
biết các kiểu cọ, các động tác hành dâm, cho mãn nhãn mà thôi. Trong câu trên,
khi đề cập tới Kâma-Sutra, người ta không hề thấy ông nói lên, dù chỉ vài chữ
đơn sơ, bộc lộ sự thắc mắc hết sức tự nhiên của người đọc sách là: Tại sao
Kâma-Sutra lại được gọi là dâm kinh? Tại sao "Le cantique des
cantiques", và "Talmud" trong kinh Torah của đạo Du Già
(Judaisme) lại không ai coi là dâm kinh?
Vâng,
từ xưa đến nay, nhiều người trên thế giới đã coi Kâma-Sutra là một dâm kinh.
Khái niệm này, thực ra chỉ là một ý nghĩ có phần hoang tưởng, song hợp lý. -
Hoang
tưởng đối với những ai không tưởng tượng nổi, hay không thể chấp nhận được, vấn
đề tình dục kể trong một quyển thánh thư. -
Nhưng
ngược lại, nó được coi như rất hợp lý đối với những người có tư tưởng phóng
khoáng, coi chuyện dâm dục và những chuyện thần thoại, huyền bí trong thánh thư
chỉ là một sự tự nhiên. Trong đạo Du Già, đã có những quyển dâm kinh như "
Le cantique des cantiques" và "Talmuds" thì sao?
Hơn
thế, nhờ công phu sưu tầm và giải mã các bản khắc chữ tượng hình (hiéroglyphe)
trên đất nung thời cổ đại trong vùng Trung Ðông của nhà khảo cổ Siegfred
Schott, ta được biết, trong kho tàng thần thoại và kinh điển viết bằng ngôn ngữ
Ai Cập, Xê Mít cổ (Sémites) và Accadienne v.v... trong vùng Lưỡng Hà
(mésopotamie, thuộc Irak ngày nay) cũng kể nhiều chuyện dâm tình rất táo bạo
như: Thần Enlil của dân Xu Me (Sumériens, vùng Nam Lưỡng Hà) đã rình chờ nữ thần
Ninlil, để thừa cơ đè ngửa nàng xuống, hiếp dâm, khiến cho nàng có chửa... Chuyện
nữ thần Inanna (người Accadiens gọi là Ishtar), con gái thần An, đã cố tình lả
lơi, bẹo dạng để cho gã làm vườn của cha nàng đè xuống hiếp dâm ngay trong vườn.
Nên biết nàng Inanna có tượng thờ trong giáo đền của dân Xu Me, với danh hiệu
là "thánh đĩ" (prostituée surnaturelle). Một chuyện khác viết bằng tiếng
Accadienne, trong sử thi" Épopée de Gilgamesh", một loại thánh thư của
dân Xu Me cổ còn kể chuyện Enkidu, về sau trở nên bạn chí thân của Gilgamesh,
sinh trưởng trong vùng thảo nguyên, từ nhỏ tới lớn, sống quanh năm suốt tháng với
các loài vật, nên chỉ toàn giao cấu với những con vật cái (bestialiteù). Một
hôm, có một người đàn bà lạc bước đến vùng hoang dã này, đã khêu gợi và quyến
rũ anh ta giao hợp. Thế rồi sau "sáu ngày và bảy đêm khoái lạc" ghì
siết, quằn quại, gã mục đồng thô bạo này đã nếm mùi đàn bà rồi, liền bỏ luôn đồng
cỏ với các loài súc vật, đi theo người đàn bà đó, để lần hồi trở nên một gã
"đàn ông" đúng nghĩa. (Tabl. I,Colonne IV, 16 s). Nếu chuyện kể chỉ có
thế cũng chẳng đáng nói làm gì. Trong bộ sử thi ấy đã diễn tả không úp mở, với
những từ ngữ trắng trợn nhất, hành động mời mọc của cô nàng như: Elle laissa
tomber son écharpe / Et découvit sa vulve pour qu'il put jouir d'elle, / Et
rejeta ses vêtements, /Alors il s'allongea sur elle, /... (Nàng bỏ tấm khăn
choàng rơi xuống, / để lộ âm hộ của nàng ra, cho chàng có thể chơi nàng, /...
Và cởi bỏ quần áo, chàng phủ dài lên người nàng, /...) Khi nói về trạng thái sướng
khoái, cực dâm, của hai người, tác giả sử thi còn dùng luôn chữ "nish
libbi" (tiếng Accadienne) là một loại ngôn ngữ rất thô tục trong quần
chúng. Mặt khác, trong thánh thư của các sắc dân vùng Lưỡng Hà thời cổ đại còn
ghi những điều cấm kỵ liên quan đến việc hành dâm như mỗi năm có những ngày nào
đó, tính theo niên lịch Ả Rập, Hồi giáo, (thí dụ như ngày mồng 6 của tháng
Tashrit- khoảng giữa tháng 9 và tháng 10 d.l.- ) bị cấm không được giao hoan.
Chuyện cấm đoán này, cho đến nay vẫn chưa ai lý giải được! Tóm lại, những chuyện
này, xét về đại thể không khác gì "Le cantique des cantiques" và
"Talmud" của dân Do Thái bao nhiêu. Vậy tới đây, ta hãy coi như tạm đủ,
để biện minh cho khái niệm hợp lý đã nêu trên.
Nhưng
dù sao, nếu ai đã đọc Kâma-Sutra và Le cantique des cantiques, hay Talmud rồi,
chắc sẽ dễ dàng đồng ý với tôi rằng lối diễn tả trong bộ kinh Du Già của dân Do
Thái, xuyên qua các bản dịch, có phần dịu nhẹ và ít kích thích hơn kinh
Kâma-Sutra, rất nhiều. Ngoài lối tả bằng một ngôn từ rất chân thực các động tác
hành dâm, Kâma-Sutra còn tràn ngập những hình ảnh minh hoạ các cuộc giao hoan,
đủ kiểu, đủ loại, qua nhiều khía cạnh khác nhau.Tuy nét vẽ và lối diễn tả bằng
hình ảnh và màu mè thuở đó còn rất thô sơ, nhưng cũng đã đạt đến mức kích dâm
cao độ đối với những ai chỉ xem kinh Kâma-Sutra với mục đích để gợi hứng và tìm
khoái cảm. Bởi thế, ta không lạ gì "Le cantique des cantiques" và
"Talmuds" đã được liệt vào hàng kinh điển của đạo Du Già, mặc dù chẳng
dễ dàng gì. Nhưng, ngược lại kinh Kâma-Sutra đã không đạt được điạ vị chính thức
đó trong các giới quần chúng Ấn Ðộ. Thậm chí ngay tín đồ của đạo Tantrisme cũng
không chịu thừa nhận giá trị tinh thần của nó.
Là
người VN, lại không am tường về tâm lý, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của dân
Ấn Ðộ, nhất là chưa từng nghiên cứu kỹ Kâma-Sutra, vậy ông LNÐ đã căn cứ vào
đâu để cho rằng Kâma-Sutra có liên quan mật thiết giữa tình dục và thánh tính?
Tôi thiển nghĩ, muốn có một khái niệm đứng đắn về Kâma-Sutra, cũng như tất cả
các tôn giáo khác - hay bất luận một vấn đề nào - ta cần phải tìm hiểu cặn kẽ
nguyên ủy, bối cảnh và nội dung của nó. Như thế mới hy vọng tránh bớt được phần
nào sai lầm đáng tiếc.
Kâma-Sutra
có thánh tính không?
Trước
câu hỏi này, dĩ nhiên ông Lưu Nguyễn Ðạt sẽ cho rằng: Có! Như thế, tất ông cần
phải biết thêm rằng: Nếu một quyển sách "có thánh tính", tức là một
"THÁNH THƯ" (Livre), một quyển "KINH" (Bible). Chữ
"Kinh" vốn gốc Hán Việt, bộ Mịch, 13 nét, nghĩa: thường (phép thường,
đạo thường), sách của thánh hiền. Nếu nói" kinh tạng" thì nghĩa là
sách các tôn giáo, bộ sách tôn giáo. Nếu ông LNÐ chỉ thông tiếng AÂu, Mỹ, thì
chữ "Bible" vốn gốc Hy Lạp số nhiều (ta biblia), đồng nghĩa với
"les Livres", và ý nghĩa cũng không khác gì chữ "Kinh" của
VN. Vậy, phải chăng ông cho rằng giá trị thiêng liêng về tinh thần và tư tưởng
của Kâma-Sutra chẳng khác nào các bộ kinh PG, kinh Vệ Ðà, kinh Coran của Hồi
giáo, kinh Torah của đạo Du Già, kinh Cựu Ước và Tân Ước của TCG? Tới đây, tôi
xin nhường sự trả lời cho ông Ðạt và nhường sự phê phán cho độc giả. Nhưng
riêng tôi, chẳng cần phải biện luận dông dài làm gì, ai cũng thấy: Không!
Vì
như trên đã nói, nếu quả thực Kâma-Sutra có thánh tính, tất đã chính thức được
liệt vào kinh điển của Ấn Ðộ giáo (Hindouisme), đạo Tantrisme, hay đạo Bà La
Môn (Brahmanisme), [như Le cantique des cantiques, hay Talmud trong kinh Torah
của đạo Du Già], mà tác giảû của nó, tên Vâtsyâyana, vốn là một tín đồ Bà La
Môn trung kiên. Hơn nữa, có thể, nguồn cảm hứng để biên soạn bộ sách này của
Vâtsyâyana còn phát xuất từ truyền thống rất cổ xưa của đạo Bà La Môn và trong
đời sống hằng ngày của dân tộc Ấn. Ðiều này, ai cũng dễ dàng nhận ra, nếu chịu
đọc kỹ Kâma-Sutra.
Theo
tôi, rõ ràng Vâtsyâyana đã căn cứ trên luật Manou (qui tắc luân lý của Ấn Ðộ)
và tựa vào truyền thuyết thần Shiva, một vị thần sáng tạo đồng thời cũng là chủ
nhân ông của tượng Linga, một hình tượng dương vật đang cương cứng (phallus),
được dựng đứng trong các đền thờ thần Shiva, theo hướng thăng thiên, biểu trưng
cho sức mạnh sinh sản của tạo hóa. Ðọc Kâma-Sutra, ta còn nhận thấy chủ đích tác
giả chỉ nhắm phản ánh những phong tục rườm rà và tập quán tế nhị của giới quần
chúng đô thị giàu có mà thôi. Trong đó gồm những khái niệm về sự hòa hợp giữa
trách nhiệm (dharma), tình yêu (kâma) và sự giàu coù (artha). Ðặc biệt đáng chú
ý hơn hết: Tác giả đã loại bỏ hẳn ra ngoài khái niệm thứ tư, cuối cùng, song rất
quan trọng đối với dân Ấn có tín ngưỡng là: Sự giải thoát (moksha), tức vòng cuối
của một chu kỳ luân hồi. Ðiểm này càng chứng tỏ rõ rệt hơn lối viết vu khoát,
vô sở cứ của ông Ðạt cho rằng Kâma-Sutra có thánh tính!
Thực
chất của Kâma-Sutra chỉ là một quyển sách khoái lạc phục vụ hạnh phúc nhãn tiền
cho những ai không tin thuyết luân hồi, tái sinh, không tin con người sẽ đầu
thai kiếp khác, song cũng không muốn chết sớm trước một trăm năm. Nên biết, người
Ấn cũng như phần đông dân Á châu, trong số có cả VN, đều tin rằng, nếu không có
gì trục trặc, kiếp người thường là một trăm năm. Vì thế mở đầu truyện Kiều, thi
hào Nguyễn Du đã viết: "Trăm năm trong cõi người ta..."! Nhận xét về
Kâma-Sutra, đa số người Á châu đều chỉ coi là một thứ dâm thư, xem cho thỏa
tính tò mò, hoặc dùng làm đề tài đấu láo trong những lúc trà dư tửu hậu. Chẳng
mấy ai nghĩ rằng nó có "thánh tính" và cũng chẳng ai dám gọi nó là
"dâm kinh", để đặt nó ngang hàng với kinh Tantra và kinh PG Mật Tông
Tây Tạng, ngoại trừ một mình ông Lưu Nguyễn Ðạt! Về phía người Tây phương cũng
không khác. Ða số dân Tây phương đều cho Kâma-Sutra là một tác phẩm dâm dục
phóng đãng, vô loại, mà tác giả đã cố tình nêm thêm gia vị cho tăng phần hấp dẫn
ngon lành, hầu thỏa mãn dâm tính của con người.
Nguyên
tác Kâma-Sutra viết bằng Phạn ngữ (Sanskrit)õ, phổ biến vào khoảng thế kỷ thứ
IV sau Thiên Chúa. Về sau, đến năm 1883, một nhà khai khẩn người Anh ở Ấn Ðộ,
tên Richard Burton, đọc thấy mùi vị dục tình nóng bỏng của giống người sinh trưởng
trong các vùng nhiệt đới bốc tỏa mù mịt trong Kâma-Sutra, nên ông ta đã dịch nó
sang Anh ngữ, để nhiều người Tây phương có dịp thưởng thức. Hơn một thế kỷ nay,
tuÿ bản dịch Anh ngữ của Kâma-Sutra đã in rất nhiều và phổ biến rất rộng rãi khắp
nơi trên thế giới, nhưng vẫn không dễ gì leo vào được kệ sách của các thư viện.
Dù
sao đó vẫn chỉ là một số nhận xét bề ngoài. Nếu bây giờ ta chỉ căn cứ vào đó để
vội vàng rút ra ngay một kết luận như ông LNÐ, e rằng ta không tránh khỏi phiến
diện, và thiên kiến chủ quan. Ta cần phải chịu khó đào sâu vào nội dung của
Kâma-Sutra hơn nữa, mới khám phá ra được chỗ dụng tâm sâu sắc về mối tương quan
nam-nữ, về chính trị, xã hội và tín ngưỡng... của tác giả, đã được gói ghém khéo
léo trong những màn hành dâm với cường độ kích thích nhục cảm rất cao.
Kâma-Sutra
và mối tương quan giai cấp...
Nếu
thực sự đã đọc Kâma-Sutra và kinh Tantra rồi, tất nhiên ông Lưu Nguyễn Ðạt phải
nhận ra ngay trong cốt tủy của 2 tác phẩm ấy đã có sự xung khắc kịch liệt.
Nhưng rất tiếc ông đã không nhận ra tính chất tương phản của nó, nên đã lầm lẫn
gom chung Tantra và Kâma-Sutra vào làm một nhóm kinh điển có thánh tính. Xin
thưa, đây là những điểm khắc biệt chủ yếu giữa Tantra và Kâma-Sutra. Trong một
đoạn trên tôi đã nói: Chủ yếu của Tantra là đề cao khí lực, một sức mạnh thần
thánh của nữ giới (shakti), phục hồi địa vị quan yếu của phụ nữ trong xã hội,
phong tục, tập quán và tôn giáo của dân tộc Ấn, xuyên qua biểu tượng Yoni và
Linga, chẳng khác nào Âm/Dương của Lão giáo. Tóm lại, Tantra chủ trương con người,
từ bản thể, dù nam hay nữ, đều bình đẳng. Trong khi đó, ngược lại, đạo Bà La
Môn và Ấn Giáo lại chủ trương kỳ thị nữ giới đến thảm hại. Hơn thế, các tôn
giáo này còn là điểm tựa tinh thần của sự phân chia các đẳng cấp cách hết sức
sâu xa, và cực kỳ nghiệt ngã trong xã hội Ấn. Phân chia về mức độ vệ sinh,
thanh tịnh (degré de pureteù) của tâm hồn. Phân chia về dòng dõi huyết thống, về
giai cấp xã hội (caste - chữ này của Bồ Ðào Nha, gốc La
Tinh"castus"). Phân chia về màu da, đen sậm (giới lao động nghèo khổ),
đen vừa, và da trắng (giới quí phái, giàu sang, hiếm quí, tức loại "mưa
không đến mặt, nắng không đến đầu" v.v... Nên biết, đối với dân Ấn, giai cấp
xã hội (Người Ấn gọi là "varna", tức màu. Thí dụ như: Màu trắng chỉ
giới đạo sĩ Bà La Môn "Brahman", màu đỏ chỉ giới chiến sĩ
"Kshatriya" v.v...) thuộc về huyết thống và dòng dõi, có tính cách
truyền tử lưu tôn, chứ không thể "gia nhập" được!
Tìm
hiểu kinh Vệ Ðà (ra đời khoảng 1.000 năm trước TC), người ta thấy xã hội Ấn
chia ra làm 3 "varna" gồm: Brahman, Kshatriya, và Vaishya (giới sản
xuất), tượng trưng cho 3 diện quan yếu trong xã hội Ấn thời bay giờ, là: bảo vệ
truyền thống tín ngưỡng, phòng thủ quốc gia và sản xuất thực phẩm, vật dụng
công ích. Ðến thời kỳ cuối cùng của Vệ Ðà (khoảng thế kỷ chót trước TC), người
ta thấy lại nảy ra thêm một giai cấp mới nữa là Shudra (nô bộc). Tất cả giềng mối
bất bình đẳng xã hội nêu trên đều bắt nguồn từ luật Manou, mà tác giả
Kâma-Sutra đã dùng làm nòng cốt tư tưởng. Tất cả những kẻ nào trong 4 giai cấp
đó mà không tuân hành nghiêm chỉnh, thí dụ như một đàn ông thuộc giai cấp Bà La
Môn mà lấy một người đàn bà con gái thuộc giới nô bộc làm vợ, đẻ con, tức khắc
bị loại ra khỏi giai cấp biệt đãi của mình, và bị giáng xuống cấp thứ 5 gọi là
Chiên Ðà La (Parias). Con cái của những cặp nam nữ pha giống đó cũng bị liệt
vào hạng Chiên Ðà La luôn! Chưa hết: Dưới các giai cấp đó, còn có thêm một hạng
mạt rệp nữa, bị đối xử thua xa loài vật, gọi là "Jâti", không ai dám
cả chạm vào quần áo của họ! May thay, đến năm 1950, nhờ phong trào cách mạng nổi
lên khắp nơi trên thế giới, nhân dân Ấn mới có được bản hiến pháp xóa bỏ sự
phân chia các giai cấp xã hội kể trên.
Như
thế, tóm lại, nếu đã đọc Kâma-Sutra, tất nhiên ông LNÐ phải nhận ra ngay điểm
chủ yếu là: Tác giả đã khoét sâu thêm hố chia rẽ giữa con người với con người
vào đến tận chỗ thâm sâu, kín đáo nhất, thiêng liêng, quí báu nhất và riêng tư
nhất trong cuộc đời của mỗi con người, bất kỳ nam hay nữ, là Hạnh phúc ái ân.
Tác
giả đã núp dưới chiêu bài "một tín đồ Ba La Môn" để tàn nhẫn qui định
những điều kiện yêu đương như sau: "Phải lấy vợ cùng một giai cấp, còn đồng
trinh, gia thế tốt, giàu có, trẻ, đẹp, và phải kém ít nhất 3 tuổi". Nếu
người đàn ông có ngủ với một người đàn bà, con gái nào thuộc giai cấp thấp hơn,
phải coi đó như một sự giải trí thôi. Không được lấy. Do đó, vấn đề nhà thổ, thậm
chí đến loại gái làng chơi hạng sang, đĩ quí phái trong xã hội Ấn Ðộ cũng được
nhìn qua lăng kính giai cấp, coi như một hình thức để bảo tồn đức tính e thẹn,
nết na cho giới vợ hiền, thuộc hàng mệnh phụ phu nhân, con nhà khuê các... Cũng
nên biết, ngay trong giới đàn bà, con gái chơi bời trong xã hội Ấn Ðộ cũng chia
ra làm 8 hạng, từ hạng con sen, con đòi đến hạng đĩ sang, không thể lẫn lộn được.
Vì hạng đĩ sang, nhiều tiền, có thể dùng huê lợi kiếm được bằng thân xác của
mình để xây đền, cất miễu, và có người còn đủ sức dâng cả ngàn con bò sữa cho
các đạo sĩ Bà La Môn. Ngay như đức Phật thuở sanh tiền cũng đã được một ả chơi
bời hạng sang, một đêm ngủ với khách được trả tới 50 đồng tiền cổ (écu), đã
cúng dường Phật cả một vườn xoài để ngài dùng làm tu viện (histoire
d'Âmrapâli). [ Xem thế, ta đủ biết bọn tu hành, trí thức thời nào vẫn có máu lợi
dụng. Họ không tha cả giới đàn bà khổ sở nhất, đến mức phải bán trôn nuôi miệng!
Ngoại trừ đức Phật]. Ở VN, đến thời Bảo Ðại, hạng đĩ "có tàn có tán, có
bàn hương án thờ vua, có chùa thờ Phật" trong xã hội ta cũng không hiếm
gì! Chưa hết, Kâma-Sutra còn là cả một hệ tư tưởng về loại đĩ hạng sang
(courtisanes), và đã dành cho hạng người này một địa vị đặc biệt, liệt vào hàng
tôi tớ của Thượng Ðế, tiếng Phạn gọi là Devadâsi (servantes du Dieu), và là đối
tác của giới đạo sĩ. Những cô ả này là biểu tượng trên thế gian của các đấng thần
linh (apsarâs) trên cung trời cao vòi vọi, vừa để cám dỗ những nhà tu khổ hạnh
vừa để thưởng công bọn tín đồ sùng đạo. Như vậy, giới đĩ hạng sang trong xã hội
Ấn, trong tinh thần của Kâma-Sutra, vừa có tính cách tà dâm vừa có tính cách ân
sủng.
Theo
Kâma-Sutra, trong lúc ái ân với vợ, thuộc cùng một đẳng cấp xã hội, người đàn
ông Bà La Môn không thể bắt vợ làm những việc có tính cách ô nhục như cô nàng
Monica Lewinsky đã hút "xì gà gộc" của TT Bill Clinton. Ngược lại,
ngoài xã hội, người đàn ông Bà La Môn có quyền bắt người đàn bà thuộc giai cấp
dưới làm việc đó thay cho vợ. Và người đàn bà, con gái thuộc giai cấp thấp hơn
có bổn phận phải hoan hỉ phục vụ. Trong gia đình, người đàn ông Bà La Môn cũng
không thể đòi hỏi vợ tham gia các cuộc làm tình tập thể kiểu Dương Quốc Trung,
anh trai của Dương Quí Phi, đời Ðường bên Tàu, đã bày ra "nhục trận"
(trận thịt, với cả bầy đàn bà con gái lõa lồ bu quanh), hay bắt chước Stalin,
trùm đỏ trong Ðiện Cẩm Linh đã bắt vợ phải tham gia trong những cuộc làm tình tập
thể cùng với nhiều đàn bà khác (muốn biết rõ hơn, xin xem thêm "STALIN,
chính trị và tình ái" của Ðặng Văn Nhâm). Nhưng, ở ngoài xã hội, đối với
giới phụ nữ thuộc giai cấp hèn kém hơn, anh ta có quyền làm như thế, và gọi đó
là "Cuộc giao hợp với một bầy bò cái!" (L'union avec un troupeau de
vaches)! Mặt khác, một người Bà La Môn, hạng sang quí nhất trong xã hội Ấn, khi
giao hoan, không được lùa cái lưỡi của mình vào trong chỗ thâm sâu, kín đáo nhất
của người vợ. Nhưng, ngược lại hạng nô lệ, hay làm nghề chăn voi có thể làm việc
đó với vợ của nó mà không sợ bị xấu hổ. Dù vậy, bọn tôi tớ có thể dùng cái miệng
của họ để phục vụ cho bộ phận sinh dục của người chủ, khiến ông, bà chủ được hưởng
sướng khoái nhục dục nhiều hơn. Nên nhớ, hành động này chỉ diễn ra trong vòng
chủ nhân ông với tôi tớ cả nam lẫn nữ. Còn nữ chủ nhân thì chỉ được phép dùng
gia nhân phái nữ vào việc đó. Cấm tiệt các bà chủ không được xài tớ trai vào việc
này! Trong lãnh vực dâm dục, dân Ấn coi việc lắp đít (sodomie) là xấu xa, dơ
dáy nhất, chỉ riêng dân chúng trong vùng Nam Ấn (dravidiennes) thường hay áp dụng
mà thôi. Và những người đồng tính luyến ái (homosexuels), trong xã hội Ấn bị
coi như thành phần đã bị thiến, hay như những... hoạn quan VN triều Nguyễn!
Ði
sâu hơn vào Kâma-Sutra chút nữa, về mặt khoái lạc ái ân thuần túy, ta thấy tác
giả đã chia bộ phận sinh dục của nam giới và nữ giới ra làm 3 hạng khác nhau,
tùy theo khuôn khổ và tầm vóc. Mỗi hạng đều có đối tác tương xứng. Thí dụ:
-
Nam giới (dương vật):
1.-
Cỡ bự, gọi là: ngựa giống (étalons)
2.-
Cỡ trung, gọi là: Bò mộng (taureaux)
3.-
Cỡ tiểu, gọi là: Thỏ (lièvres)
-
Nữ giới (âm hộ):
1.-
Cỡ bự, vừa to lại rộng và sâu, gọi là: Voi cái (éléphantes)
2.-
Cỡ trung, gọi là: Ngựa cái (juments)
3.-
Cỡ tiểu, vừa nhỏ lại cạn, gọi là: linh dương nhỏ (gazelles).
Tóm
lại, theo thiển kiến của tôi, về thực chất, Kâma-Sutra chỉ là một tác phẩm hấp
dẫn, có khả năng lôi cuốn người đọc vào những hành động cực dâm, với thú hưởng
cực lạc khoái cảm trong lúc giao hoan, theo kiểu của Vâtsyâyana. Như vậy, đối với
những độc giả bình thường như tôi và các bạn, nếu không phải là đệ tử của
Vâtsyâyana, không ai chấp nhận Kâma-Sutra là một tác phẩm có thánh tính, hay một
thánh thư, hoặc một kinh tạng.
Comments
Post a Comment