HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ. HOÀNG DUY HÙNG * TỐ CÁO
HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html
SUNDAY, 17 JUNE 2012
111 * HOÀNG DUY HÙNG * TỐ CÁO
* HOÀNG DUY HÙNG * TỐ CÁO
Bản chất Hồ Chí Minh: gian xảo và
phi dân tộc
Hoàng Duy Hùng
Ấn bản Nhật Báo Nhân Dân trên internet ra ngày 10 tháng 1 năm
1999 có đăng chỉ thị của Tổng Bí Thư ĐCSVN là Lê Khả Phiêu ra lệnh cho các cơ
quan của đảng tuyên truyền và tổ chức trọng thể kỷ niệm 30 năm di chúc của Hồ
Chí Minh. Nhân câu chuyện này tôi tưởng nhớ đến câu chuyện UNESCO tính vinh
danh Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn của dân tộc nhân ngày kỷ niệm 100 năm
sinh nhật của y vào năm 1990. Cũng nhân câu chuyện này tôi muốn ghi lại những
nét chính cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh và muốn vạch rõ bộ mặt gian xảo và
phi dân tộc của y.
Cách đây khoảng 5 năm, tôi xem phim tài liệu của Hoa Kỳ về cuộc
chiến Việt Nam dưới tựa đề "Vietnam: A Television History," tôi cảm
thấy lòng mình bồi hồi thổn thức thương cho một dân tộc đã phải chịu quá nhiều
cảnh lầm than. Tập đầu tiên của phim tài liệu, tôi nhìn thấy cảnh Nguyễn Ái Quốc
trẻ trung, trong Khóa 5 (từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924) của Đại
Hội Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, đọc bài tham luận về vấn đề thuộc địa. Trong bài
tham luận này, Nguyễn Ái Quốc chỉ trích kịch liệt Đảng Cộng Sản Pháp đã không tích
cực chỉ trích chính quyền Pháp về những chính sách cai trị hà khắc tại các quốc
gia thuộc địa, nhất là tại Việt Nam. Lúc ấy Nguyễn Ái Quốc không có râu, đôi mắt
sâu, mặt dài như mặt chuột, lông mày xếch đuôi, và cái miệng nhỏ làm cho người
ta dễ có ấn tượng đây là một kẻ tiểu nhân nham hiểm. Coi tới đoạn này, tôi tự
nói tại vì mình có thiên kiến, có ác cảm với Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc nên
mới có cảm giác như vậy. Tôi tự nói với chính bản thân phải bình tâm lại tiếp tục
coi phim tài liệu với ánh nhìn khách quan và trung thực hơn.
Phim tài liệu tiếp tục chiếu đến cảnh Hồ Chí Minh tiếp chuyện
với Thiếu Tá Archimedes Patti trong một mật khu quân sự vào năm 1945. Lúc đó,
Hoa Kỳ, qua Phòng Dịch Vụ Chiến Lược (Office of Strategic Services, viết tắt là
OSS, tức là tiền thân của CIA), huấn luyện bộ đội của Hồ Chí Minh. Lúc này, Hồ
Chí Minh gầy còm, bộ mặt hốc hác, để bộ râu dê đen nhánh, và bộ ria thì lún
phún vài sợi. Tôi vẫn có cảm giác không mấy thân thiện được với một nhân vật mà
theo tướng số gọi là "Tướng Ngụy Diên," tức là tướng phản phúc. Đọc
trong truyện Tam Quốc Chí, ai cũng biết Ngụy Giêng là một tướng vì danh lợi đã
bán đứng lương tâm, lừa thày phản bạn mưu cầu lợi ích riêng. Tôi liền liên tưởng
đến bài viết của ký giả người Mỹ, ông Oliver Todd viết vào năm 1990, sau khi
ông đã có cơ hội tìm hiểu cặn kẻ về cuộc chiến Việt Nam: "Trước tiên hãy
nhìn hình dáng con người của Hồ: bé nhỏ, gầy còm, gân guốc, trán cao, mắt sâu lộ
vẻ sốt rét rừng, da mồi, chòm râu của một ông quan sắt máu."
Nhưng rồi đến đoạn năm 1968, Hồ Chí Minh đọc trên đài phát
thanh chúc tết cho dân chúng, mà qua bài chúc tết này, đây là mật lệnh cho các
tướng sĩ tổng tấn công các tỉnh miền Nam gây nên biến cố kinh hoàng Tết Mậu
Thân sát hại hàng vạn người vô tội, nhất là cuộc chôn sống tập thể cách vô nhân
tại Huế, tôi thấy một Hồ Chí Minh khác hẳn trước kia. Lúc này Hồ Chí Minh là một
ông già râu tóc bạc phơ. Trán trước của Hồ Chí Minh hơ cao vì hói, lông mày
không còn xếch như trước đây nữa, mà, vì một lý do nào đó, trông rất phúc hậu.
Râu mép cũng dày và đều hơn. Chùm râu dê nay đã dài mà còn dày đẹp hơn nhiều.
Tôi phân vân không biết có phải đây là Hồ Chí Minh hay Nguyễn Ái Quốc năm xưa.
Sau này đọc tài liệu, tôi mới biết họ Hồ đã được Liên Xô giải phẩu tướng diện
trong một chuyến đi bí mật thăm Moscow năm 1955 để Hồ Chí Minh có bộ mặt tiên
phong đạo cốt cho xứng với vị thế lãnh tụ của y.
Xem phim tài liệu xong, tôi quyết tâm tìm đọc tài liệu về
nhân vật đầy sự tranh luận này. Tôi không muốn mình chủ quan có ác cảm với người
khác, và, tôi cũng không muốn mình bị người khác lừa gạt.
Tài liệu viết về Hồ Chí Minh nhiều vô kể. Tuy nhiên, các tài
liệu có rất nhiều điều mâu thuẫn nhau. Một phần do tính bảo mật của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, một phần vì phong tục của người Á Đông thích thần thánh hóa, kỳ bí
hóa, và đánh bóng lãnh tụ, một phần do chính Hồ Chí Minh tung hỏa mù gạt ngay
chính cả những "đồng chí" của y, một phần do chính Đệ Tam Quốc Tế Cộng
Sản mà đầu não tại Moscow cho hồ sơ giả để đánh lạc hướng tin tình báo hầu bảo
toàn những kế sách của họ. Vì thế, tiểu sử của họ Hồ là một sự mờ mờ ảo ảo. Nói
chung hiện nay đa số các tài liệu bằng Anh và Pháp Ngữ đều có những ánh nhìn
tâng bốc Hồ Chí Minh như một người Việt yêu nước, dầu có những sai lầm, đã có
công giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách cai trị của thực dân Pháp.
Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam, sau khi các chế độ Cộng Sản tại Đông Âu và Liên
Xô sụp đổ vào những năm 1989-1991, đã đánh bóng "Tư Tưởng Hồ Chí
Minh" ngang bằng với tư tưởng của Marx và Lenin với ước vọng chính màn ảo
thuật tư tưởng họ Hồ sẽ giúp họ vớt vát kéo dài những tháng ngày cai trị của
chúng. Một phần nào đó họ đã thành công. Đó chính là điều tai hại vô cùng cho
dân tộc Việt Nam, nhất là cho giới trẻ lớn lên sau cuộc chiến 1975, dễ bị lường
gạt. Chúng ta cần phải trả lại sự thật cho lịch sử.
Trong những tác phẩm bằng tiếng Việt, tôi thích nhất hai tác
phẩm sau đây: Thứ nhất là tác phẩm "Hồ Chí Minh Không Phải là Tác Giả 'Ngục
Trung Nhật Ký'" của Giáo Sư Lê Hữu Mục do Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại xuất
bản năm 1990. Thứ hai là tác phẩm "Hồ Chí Minh, Sự Thật Về Thân Thế và Sự
Nghiệp" của những tác giả như Bùi Xuân Quang, Nguyễn Thế Anh v.v., và do
Nhà Sách Nam Á ở Paris xuất bản năm 1990. Tôi cho rằng hai tác phẩm này có công
phá tan huyền thoại về Hồ Chí Minh một cách khoa học và hữu hiệu nhất. Những
tác phẩm bằng tiếng Anh mà tôi đọc tôi cảm thấy họ đã bị tràn ngập thông tin do
Đảng Cộng Sản Việt Nam và do chính Hồ Chí Minh cung cấp nhưng họ không có lạn gọc
để biết đâu là thực, đâu là hư.
Vào tháng 11 năm 1987, Tổ Chức Giáo Dục Khoa Học và Văn Hóa
Liên Hiệp Quốc, viết tắt là UNESCO, biểu quyết sẽ đứng ra tổ chức tại trụ sở
trung ương của UNESCO ở Paris vào ngày 12 tháng 5 năm 1990 một buổi vinh danh Hồ
Chí Minh như một nhà văn hóa lớn của dân tộc nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh nhật
của y. UNESCO đã trưng dẫn cuốn "Ngục Trung Nhật Ký" bằng Hán văn mà
họ Hồ tự nhận là tác giả để làm bằng chứng sự nghiệp văn chương của Hồ Chí
Minh. Người Việt khắp năm châu liền viết thư phản đối quyết định này của UNESCš
Rất nhiều học giả cặm cụi ngày đêm viết tiểu sử Hồ Chí Minh để phanh phui sự thật
và bản chất đạo văn của họ Hồ. Nhiều tác giả nêu lên hai tác phẩm "Những Mẩu
Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch" do Trần Dân Tiên viết khoảng năm
1948, in tại Hà Nội năm 1958, và tác phẩm "Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện"
của tác giả T. Lan viết khoảng năm 1950, được nhà xuất bản Sự Thật in năm 1963,
để ca tụng và tâng bốc Hồ Chí Minh đều do chính tay Hồ Chí Minh viết. Trần Dân
Tiên và T. Lan chính là hai bút hiệu của Hồ Chí Minh, và như thế nói lên Hồ Chí
Minh, lúc đó tuổi đã già và quyền uy đã nắm trong tay, ấy thế mà y vẫn say mê
những lời tâng bốc đến độ phải tự chính mình tâng bốc lấy mình thì mới thỏa mãn
được! Nguyên việc này thôi cũng chưa thấy một ai trên thế giới làm vì nó quá lộ
liễu và quá kỳ cục, vậy mà Hồ Chí Minh đã làm được. Những tác giả trong tập
"Hồ Chí Minh, Sự Thật Về Thân Thế và Sự Nghiệp" đã lột trần được bản
chất phi dân tộc của họ Hồ lúc nào cũng cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của Đệ Tam
Quốc Tế Cộng Sản chỉ vì y muốn được sung sướng, muốn có địa vị cao để ăn trên
ngồi trốc. Nhưng, phải nói tuyệt vời nhất là Giáo Sư Lê Hữu Mục đã tỉ mỉ một
cách rất khoa học phân tách Hồ Chí Minh đã đạo văn một người bạn tù quá cố họ
Lý bị giam chung ở khám Victoria tại Hồng Kông năm 1932-1933, và Hồ Chí Minh đã
lấy những bài thơ của người bạn tù này và cho đó là của mình. Khi những tác phẩm
này hoàn thành và trình lên UNESCO, và lúc này Cộng Sản vừa mới bị sụp tại Đông
Âu, UNESCO ngưng không tổ chức vinh danh Hồ Chí Minh nữa. Tổ chức vinh danh một
người làm văn hóa lớn sao được khi tác phẩm chính lại là tác phẩm ăn cắp của
người khác? Thay vào mục vinh danh Hồ Chí Minh, UNESCO cho trình diễn màn vũ
dân tộc, và họ cấm không được nhắc đến tên Hồ Chí Minh trong màn vũ này.
Lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam bị bẽ mặt. Họ lật đật tổ
chức trọng thể tại Hà Nội buổi tuyên dương Hồ Chí Minh và lờ đi việc UNESCO đã
hủy bỏ chương trình này. Họ còn đánh lận con đen bằng cách cho Lê Đức Thọ, lúc
đó đang chữa bệnh ở quận 5 thành phố Paris, đến trụ sở UNESCO với một phái đoàn
rầm rộ để dự buổi trình diễn màn vũ dân tộc, cho trình chiếu cảnh này trong nước
để người dân tưởng rằng UNESCO đã vinh danh Hồ Chí Minh. Do đó, sau này có nhiều
người cứ tưởng rằng buổi tuyên dương này đã được tiến hành theo đúng dự định.
Tức giận trước tác phẩm của Giáo Sư Lê Hữu Mục phân phui sự
thật về việc Hồ Chí Minh đạo văn của người khác, ĐCSVN cho những tay bồi bút viết
nhiều bài tham luận dày cả ngàn trang bút chiến với Giáo Sư Lê Hữu Mục. Nhưng,
càng bút chiến, ĐCSVN càng chứng tỏ cho cả thế giới thấy rõ "Tư Tưởng Hồ
Chí Minh" không gì khác là một sự gian xảo và lừa bịp, lúc nào cũng trâng
tráo, từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, và không biết sĩ diện là gì.
Vậy, sự thật về tiểu sử Hồ Chí Minh như thế nào?
Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung. Nguyễn Sinh Cung là
con thứ ba của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan. Nguyễn Sinh Sắc sinh
năm 1863, và khi ông mới lên năm (5) tuổi, cha mẹ ông qua đời. Ông được cụ đồ
Hoàng Xuân Đường nhận làm con nuôi. Cụ đồ Hoàng Xuân Đường, năm 1881, đã gả đứa
con gái yêu của mình mới 13 tuổi là Hoàng Thị Loan cho người con nuôi của mình
là Nguyễn Sinh Sắc. Người con gái đầu lòng trong gia đình hai ông bà Nguyễn
Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan là bà Nguyễn Thị Thanh. Người con kế là ông Nguyễn
Sinh Khiêm, về sau năm 1898 khi ông Nguyễn Sinh Sắc thi Hội trượt ở Kinh Đô Huế,
ông đổi tên ngay chính bản thân ông và tên các con trai lại. Nguyễn Sinh Sắc đã
được đổi lại thành Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Sinh Khiêm đã được đổi lại thành Nguyễn
Tất Đạt, và Nguyễn Sinh Cung đã được đổi lại Nguyễn Tất Thành. Sau này bà Hoàng
Thị Loan sinh thêm một trai nữa, nhưng được vài ngày sau, ngày 10 tháng 2 năm
1902, bà yếu bệnh và qua đời. Cậu con trai út cũng không được may mắn và chẳng
bao lâu sau cũng qua đời luôn.
Nguyễn Sinh Cung sinh tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung cũng không rõ ràng. Trong hồ sơ lưu trú
Văn Khố Pháp ở Aix-en-Provence có ghi Hồ Chí Minh sinh ngày 15 tháng 1 năm
1894. Trong tờ chiếu khán thông hành đi Nga thì ngày khai sinh của Hồ Chí Minh
là ngày 15 tháng 1 năm 1895. Tài liệu của Sở Liêm Phóng Đông Dương ghi Hồ Chí
Minh sinh ngày 24 tháng 1 năm 1892. Trong đơn xin gia nhập của Nguyễn Tất
Thành, tức Hồ Chí Minh, viết vào ngày 15 tháng 9 năm 1911 gởi cho Trường Thuộc
Địa Pháp, Nguyễn Tất Thành khai năm sinh là 1892, điều này trùng hợp với tài liệu
của Sở Liêm Phóng Đông Dương. Theo bà Sophia Quinn Judge, một nhà sử gia Mỹ,
sau khi nghiên cứu hồ sơ về Hồ Chí Minh trong văn khố Nga công bố sau năm 1991,
bà cho biết năm 1934, họ Hồ đã khai năm sinh của mình là năm 1894. Nhưng, theo
bà Sophia Quinn Judge, lạ lùng là vào năm 1938, họ Hồ lại khai năm sinh của
mình là 1903. Năm 1946, Việt Minh tung ra tin sinh nhật của Hồ Chí Minh là ngày
19 tháng 5 năm 1890. Đây là một âm mưu chính trị hơn là một sự thật. Ngày 19
tháng 5 tức là ngày kỷ niệm thành lập Việt Minh vào năm 1941. Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã khôn khéo chọn ngày 19 tháng 5 năm 1890 là sinh nhật lãnh tụ của họ vì theo
tử vi Đông Phương, đây là năm Canh Dần, là lá số tử vi Thượng Thượng, nghĩa là
lá số của một lãnh tụ cực tốt. Trong khi đó, sổ đinh bạ của xã Kim Liên ghi rõ
Nguyễn Sinh Cung sinh vào tháng 3 năm Thành Thái thứ 6 (theo Âm Lịch), tức là
năm 1894. Phối kiểm lại những tin tức, kiểm chứng lại lịch sử, và phân tích động
lực thúc đẩy chọn ngày sinh trong những trường hợp trên, với tôi, năm 1894 là
năm sinh của Nguyễn Sinh Cung tại vì các vị hương chức viết vào sổ đinh bạ của
xã Kim Liên trong giai đoạn đó chưa biết gì cậu bé mới chào đời Nguyễn Sinh
Cung sẽ làm nên trò trống gì thì không có lý do gì phải ghi ngày tháng năm sinh
của một đứa trẻ một cách giả mạo.
Thời niên thiếu của Hồ Chí Minh cũng rất khó kiểm tra. Người
ta chỉ biết mơ hồ rằng sau khi ông Nguyễn Sinh Sắc lập gia đình với bà Hoàng Thị
Lan vào năm 1881, cụ đồ Hoàng Xuân Đường tức bố vợ của Nguyễn Sinh Sắc, đã cho
hai vợ chồng son trẻ một số tiền để làm vốn. Hai ông bà Nguyễn Sinh Sắc dọn về
làng Sen sinh sống. Làng Sen là quê nội của ông Sắc. Tại đây, hai ông bà đã
sinh hai đứa con đầu lòng đó là bà Thanh và ông Khiêm (Đạt). Năm 1893, cụ đồ
Hoàng Xuân Đường qua đời. Ông bà Nguyễn Sinh Sắc cùng với các con dọn về ở
chung với bà cụ đồ Hoàng Xuân Đường. Năm sau, năm 1894, sau ngày lễ giỗ đầu
tiên của cụ đồ Hoàng Xuân Đường, Nguyễn Sinh Sắc vác lều chõng lên kinh thành
Huế dự thi. Trong lúc ông Sắc lên Kinh dự thi Hương, ở nhà bà Sắc (Loan) hạ
sinh Nguyễn Sinh Cung. Năm đó ông Sắc đỗ cử nhân. Sau khi đỗ cử nhân, làng
Chùa, theo phép nhà nước, đã cấp thêm ruộng "học điền" cho ông Sắc.
"Học điền" là ruộng cấp cho những người có học trong làng.
Năm 1895, ông Sắc thi Hội và ông bị trượt khóa này. Năm 1897,
ông Sắc cùng với gia đình dọn vô kinh thành Huế. Ông vừa làm giám sinh vừa học
tại trường Quốc Tử Giám. Người ta đồn rằng ông Sắc vô kinh làm giám sinh được
là nhờ thế lực của ông Hồ Sĩ Tạo. Theo ông Lê Tùng Minh viết trên Diễn Đàn Phụ
Nữ số 176 năm 1998, người ta nghi vấn Nguyễn Sinh Sắc là con không chính thức của
ông Hồ Sĩ Tạo, và vì lý do này nên ông Hồ Sĩ Tạo mới vận động ngầm cho Nguyễn
Sinh Sắc được làm giám sinh ở Huế. Năm 1898, ông Sắc thi Hội lần nữa và cũng bị
trượt. Chắc để lấy hên, ông đổi tên của mình và đổi tên các con trai của ông.
Năm 1901, ông Nguyễn Sinh Huy (Sắc) gởi hai con về quê mẹ, tức bà cụ Hoàng Xuân
Đường ở làng Chùa, và ông trở về Kinh đô dự thi. Lần này ông đỗ bằng Phó Tiến
Sĩ. Bằng Phó Tiến Sĩ chỉ mới có vào thời vua Minh Mạng. Ông vinh quy bái tổ về
làng, và theo phép nhà nước, làng Sen đã phải cất căn nhà tranh năm gian cho vị
quan tân khoa. Năm sau, 1902, bà Huy (Loan) hạ sinh thêm một đứa con trai,
nhưng vài ngày sau cả hai mẹ con đều qua đời. Khoảng năm 1904, cụ bà Hoàng Xuân
Đường cũng qua đời luôn. Năm đó, ông Huy được Triều Đình Huế triệu về Kinh để
ông nhận một chức quan nhỏ trong Bộ Lễ. Ông Huy dẫn hai con Đạt và Thành vào Huế.
Năm 1907, ông Huy được cử chức Tri Huyện Bình Khê (Bình Định).
Các tài liệu do ĐCSVN cung cấp cho rằng ông Nguyễn Sinh Huy
sau này đã mất chức Tri Huyện Bình Khê vì đã tham gia phong trào chống sưu cao
thuế nặng của người Pháp. Trong khi đó, tài liệu của người Pháp nói rằng Nguyễn
Sinh Huy bị cách chức tri huyện năm 1910 vì hay say rượu đánh đập người bừa
bãi. Tài liệu ở Văn Khố Pháp ở Aix-en Provence cho biết nguyên văn như sau:
"Ông Tri Huyện Nguyễn Sinh Huy đã bị án kỷ luật nặng vào năm 1910, nên đã
mất chức Tri Huyện Bình Khê (Bình Định) và bị hạ bốn cấp trong ngạch quan lại,
đồng thời bị sa thải khỏi ngạch quan vì tội say rượu, đánh đập đến chết một
nông dân tên Tạ Đức Quang." (G. Boudare, La Bureaucratic au Viet Nam,
Paris). Hư thực như thế nào về vấn đề này chúng ta có thể thẩm định qua lá thư
sau đây mà Nguyễn Tất Thành viết vào ngày 15 tháng 12 năm 1912 từ New York gởi
cho Khâm Sứ Trung Kỳ xin việc cho thân phụ. Lá thư này do ông Lê Văn Tiến mới
đây (1998) sưu tầm ở Văn Khố Pháp Aix-en-Provence, và được Nhật Báo Người Việt ở
Nam California phổ biến:
"Thưa Ngài Khâm Sứ:
Tôi lấy làm vinh dự rất kính cẩn xin ngài ban ơn như sau: Ra
khỏi nước vào tháng Bảy năm ngoái (1911), tôi bỏ lại người cha già của tôi
không nơi nương tựa. Mặc dầu tôi thường viết thư cho cha tôi nhưng tôi chỉ nhận
được hai thư trả lời kể từ lúc đó. Tôi đã gởi cho cha tôi ba ngân phiếu, nhưng
cha tôi chỉ trả lời có một lần; bởi vì lần đó tấm ngân phiếu được gởi tới ngài và
ngài đã trao tận tay cho cha tôi. Bây giờ tôi không biết cha tôi như thế nào và
ở đâu.
Ôi! Hoàn cảnh tôi nôn nóng xiết bao, sống rất xa cha mẹ, họa
hoằn mới nhận được tin của cha mẹ, muốn giúp đỡ mà không được!
Vì chữ hiếu, tôi dám cầu xin ngài ban cho cha tôi một việc
như Thừa Biện ở các Bộ hoặc Huấn Đạo, Giáo Thụ, để cha tôi có kế sinh nhai dưới
sự ưu ái của ngài.
Thưa ngài Khâm Sứ, tôi xin ngài nhủ lòng thương cho tôi được
biết tình trạng hiện nay của cha tôi và cho phép tôi được gởi về nơi dinh thự của
ngài những gì tôi muốn gởi cho cha tôi.
Trong khi mong đợi lòng nhân từ của ngài không nỡ từ chối lời
xin của một đứa con muốn làm tròn bổn phận mà chỉ còn biết trông cậy nơi ngài
và trong khi chờ đợi hồi âm của ngài.
Thưa Ngài Khâm Sứ, xin ngài vui lòng nhận những lời chào của
con dân ngài và người tôi tớ biết ơn ngài."
Lời văn qụy lụy của Nguyễn Tất Thành ở trên đủ để chứng minh
Nguyễn Sinh Huy không hề từ quan chống đối thực dân Pháp vì lý tưởng Tự Do và Độc
Lập của dân tộc theo y như những gì mà ĐCSVN đã tô son vẽ phấn lên rêu rao để
xí gạt quần chúng. Cũng chính lời văn này nói lên từ thưở thiếu thời, Nguyễn Tất
Thành tức Hồ Chí Minh sau này, và cả gia đình nhà y, đã chỉ biết lo cho sự sung
sướng của bản thân và gia đình, sẵn sàng làm tay sai và làm chó săn cho ngoại
bang Pháp.
Học xong tiểu học, tháng 5 năm 1908, Hồ Chí Minh, dưới tên
Nguyễn Tất Thành, nộp đơn xin vào trường Quốc Học Huế. Các tài liệu của ĐCSVN
cho rằng vào năm 1908-1909, Nguyễn Tất Thành tham gia vô phong trào chống sưu
cao thuế nặng của người Pháp nên bị đuổi khỏi trường. Nguyễn Tất Thành bị đuổi
khỏi trường trước khi ông Huy bị mất việc. Chúng ta không biết rõ nguyên do
Nguyễn Tất Thành bị đuổi khỏi trường. Tuy nhiên, nếu nói Nguyễn Tất Thành bị đuổi
khỏi trường vì tham gia chống sưu cao thuế nặng do người Pháp áp đặt lên trên
dân tộc Việt Nam thì tôi rất nghi ngờ vì sau này, năm 1911, Nguyễn Tất Thành viết
thư cho Trường Thuộc Địa với lời văn quỮ lụy xin học trường này để mai mốt về
giúp Nhà Nước Bảo Hộ cai trị Việt Nam. Nếu Nguyễn Tất Thành, trong thời gian
1908-1909 đã tham gia cách mạng chống Pháp và bị đuổi khỏi trường vì tội này
thì bảo đảm Nguyễn Tất Thành sau này không bao giờ dám viết thư xin học Trường
Thuộc Địa với những lời văn khúm núm như vậy. Tôi nghĩ rằng Nguyễn Tất Thành bị
đuổi vì lý do khác, và lý do đó là lý do cá nhân hơn là lý do mưu cầu phúc lợi
cho dân tộc Việt Nam.
Không được học và thất nghiệp , Nguyễn Tất Thành lang thang
vào Nam. Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết, có một thời gian khoảng 3 tháng Thành
làm thày giáo trường Dục Thanh. Tài liệu của ĐCSVN tô vẽ cho rằng giai đoạn này
Thành làm thày giáo vì có nhu cầu liên lạc bí mật cách mạng. Thật ra tôi nghĩ
Thành phải dạy học vì nhu cầu kế sinh nhai. Sau đó, đầu năm 1911, Thành vào Sài
Gòn. Thành xin vào trường Bách Nghệ, một trường đào tạo công nhân hàng hải và
công nhân cơ khí. Sau ba (3) tháng học tại đây, Thành bỏ học. Các nhà viết sử của
ĐCSVN thêu dệt cho rằng Thành bỏ học vì lý do muốn tìm đường cứu quốc. Thật ra,
thể chất của Thành yếu không chịu nổi công việc cực nhọc nên Thành xin nghỉ học.
Sau khi nghỉ học ở trường Bách Nghệ, Nguyễn Tất Thành đổi tên
là Nguyễn Văn Ba với tên tiếng Pháp là Paul. Nguyễn Văn Ba (Thành) xin được một
chân phụ bếp cho tàu Amiral Latouche Tréville, một chiếc tàu vận tải lớn của
Pháp. Tàu này, theo lời văn của Nguyễn Tất Thành ở trên, rời Việt Nam vào tháng
7 năm 1911 và đến Pháp. Khi tới hải cảng ở Pháp, Nguyễn Tất Thành, vì lo lắng
cho tương lai và sự nghiệp của mình, vào ngày 15 tháng 9 năm 1911, viết cho Trường
Thuộc Địa của Pháp xin nhập học trường này để mai mốt trở về làm tay sai cho
Pháp tại Việt Nam. Lá thư này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm được tại Văn Khố Quốc
Gia Pháp, Aix-en-Provence, sao chụp lại vào ngày 2 tháng 2 năm 1983, chuyển ngữ
và đăng trên các báo Việt ngữ khắp nơi làm xôn xao dư luận. ĐCSVN đã im thin
thít không dám lên tiếng trước sự thật phủ phàng này.
Khi đến Pháp, Nguyễn Tất Thành (Ba) chuyển sang làm phu khuân
vác tại bến cảng Le Havre. Công việc phu khuân vác vừa nặng nhọc mà đồng lương
lại rẻ mạt nên Thành xoay sở xin được một việc làm trong tàu Cinq étoiles với
tư cách là một thủy thủ. Làm một thủy thủ lương vừa cao, công việc nhẹ hơn, mà
còn được thỏa chí tang bồng đi đây đi đó cho biết sự đời. Cuối năm 1912, tàu
Cinq Etoiles rời nước Pháp đi đến Hoa Kỳ. Tại thành phố New York nước Hoa Kỳ,
vào ngày 15 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành (Ba) một lần nữa viết một lá
thư rất khúm núm, và lần này gởi cho Khâm Sứ Pháp tại miền Trung Việt Nam.
Nguyên văn đã được trích đăng ở trên.
Tàu Cinq Etoiles ghé Phi Châu và cuối năm 1913 về tới nước
Pháp. Lúc này hợp đồng làm thủy thủ với tàu Cinq Etoiles cũng hết hạn, và đầu
năm 1914, Nguyễn Tất Thành xoay sở và sang London nước Anh để lập nghiệp. Tại
London, Thành làm bồi bàn cho một nhà hàng. Vì phải làm lụng, nên Nguyễn Tất
Thành không được học đến nơi đến chốn, nhưng nhờ trí thông minh, nhờ tiếp xúc
nhiều, nên Nguyễn Tất Thành biết rất nhiều ngoại ngữ, và văn chương của những
ngoại ngữ này là văn chương bình dân đi sát với thực tế của cuộc sống.
Ngày 3 tháng 12 năm 1917, Nguyễn Tất Thành được nhập cảnh để
sinh sống tại Pháp. Khi ấy tại Pháp đã có rất nhiều người Việt cư ngụ. Đáng kể
nhất là cụ Phan Chu Trinh đã đến Paris từ năm 1911. Cụ Phan Chu Trinh đã cùng với
luật sư Phan Văn Trường (1875-1933, đến Pháp từ năm 1908) lập ra "Hội Đồng
Bào Thân Ái," và hội này năm 1914 đã đổi thành "Hội Người Việt Nam
Yêu Nước." Các hội viên thường hay lui tới nhà luật sư Phan Văn Trường ở số
6, Villa des Gobelins. Trong Hội Người Việt Nam Yêu Nước này có cụ Nguyễn Thế Truyền
hay viết bài và vẽ tranh với bút hiệu là Nguyễn Le Patriot, tức Nguyễn Ái Quốc.
Hội cũng có ông Nguyễn An Ninh, một sinh viên trường Luật và là một người viết
văn rất giỏi, và đôi khi ông Ninh cũng ký bút hiệu là Nguyễn Ái Quốc. Vừa đến
Pháp chân ướt chân ráo, Nguyễn Tất Thành đã đến Hội Người Việt Nam Yêu Nước để
nhờ sự giúp đỡ. Nhờ tính tình hoạt bát, và vì lúc đó người Việt xa nhà dễ có cảm
tình với tất cả những người Việt Nam nên chẳng bao lâu sau, Nguyễn Tất Thành được
các bậc tiền bối giao cho nhiều nhiệm vụ. Vì Nguyễn Tất Thành có nhiều thời giờ
rảnh rỗi nhất, nên Nguyễn Tất Thành được trao cho các việc thường vụ như đi bỏ
thư và làm thư ký cho hội. Thành học nghề rửa hình từ cụ Phan Chu Trinh, và luật
sư Phan Văn Trường đã bỏ thời giờ và công sức ra dạy kèm Pháp ngữ thêm cho Thành.
Vài tháng sau, Thành được vào nhóm Ngũ Long gồm có cụ Phan Chu Trinh, luật sư
Phan Văn Trường, Cụ Nguyễn Thế Truyền, ông Nguyễn An Ninh, và Nguyễn Tất Thành.
Đương nhiên thành là người học lực thấp nhất trong nhóm.
Luật sư Phan Văn Trường có bằng tiến sĩ luật khoa ở Pháp. Có
lẽ ông là người Việt Nam đầu tiên đọc và nghiền ngẫm các tác phẩm của Marx và
Engels. Nhìn thấy một người trẻ xa quê hương và hăng hái trong các hoạt động
như Nguyễn Tất Thành, luật sư Phan Văn Trường giới thiệu Thành với một nhà trí
thức Pháp có khuynh hướng xã hội là ông Guiné Marcel Cachin. Ông Cachin là giáo
sư Đại Học Sorbonne. Ông Cachin còn là chủ nhiệm của tờ L'Humanité, và sau này,
ông Cachin tham gia vô Đảng Cộng Sản Pháp, là một thành viên lãnh đạo của đảng
này, và ông còn được cử giữ chức œy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đệ Tam Quốc Tế
Cộng Sản. Luật sư Phan Văn Trường còn giới thiệu cho Thành quen với nhiều nhà
trí thức có khuynh hướng xã hội khác như ông Paul Vaillant Couturier, ông Henry
Barbusse (người bảo trợ cho tờ Le Paria).
Cuối năm 1918, Nguyễn Tất Thành được Đảng Xã Hội Pháp chấp
thuận cho gia nhập đảng. Trong khi đó những người khác trong nhóm Ngũ Long
không gia nhập Đảng Xã Hội Pháp hay về sau Đảng Cộng Sản Pháp tại vì mặc dầu có
nghiên cứu chủ nghĩa Marx, họ cho rằng, theo lời luật sư Phan Văn Trường,
"con đường cách mạng của Nga chưa thích hợp cho con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi ách thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp."
Nguyễn Tất Thành tham gia vô một mình trước để dọ dẫm đường cũng là một điều
hay, và dồn hết nỗ lực để tạo uy tín cho Thành để Thành dễ dàng làm việc trong
Đảng Xã Hội thì tốt hơn. Trước khi gia nhập đảng, cụ Phan Chu Trinh gợi ý cho
Thành nên chọn bí danh Nguyễn Ái Quốc vì nó có nhiều điều thuận lợi mà cũng vừa
nói lên lòng yêu nước của mình. Trong thời gian mấy tháng này, tên "Nguyễn
Ái Quốc" chưa được công khai hóa, chưa được chính quyền Pháp lưu ý. Tuy
nhiên, vào ngày 18 tháng Giêng năm 1919, khi các đại diện cho các nước Đồng
Minh thắng trận trong Đệ Nhất Thế Chiến về Versailles dự hội, người ta thấy một
kiến nghị gởi đến Đại Hội ký tên Nguyễn Ái Quốc với tựa đề "Bản Yêu Sách Của
Nhân Dân Việt Nam." Trong bản kiến nghị này có 8 điểm. Mục đích của bản kiến
nghị là yêu cầu chính phủ Pháp và các nước Đồng Minh phải thừa nhận các quyền tự
do, dân chủ, và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam. 3 trong 8 điểm của bản
kiến nghị đã không được chấp thuận, nhưng Đại Hội đã chấp thuận 5 điểm cũng đủ
tạo một tiếng vang lớn. Sau đó, tờ L'Humanité số ra ngày 18-6-1919 của Đảng Xã
Hội Pháp đã đăng nguyên văn lại bài kiến nghị này với tựa đề là "Quyền Của
Các Dân Tộc." Tên Nguyễn Ái Quốc được mọi người chú ý từ đó.
Ai đã viết bản kiến nghị đó với bút hiệu Nguyễn Ái Quốc? Thật
ra, bản kiến nghị được viết là do nhóm Ngũ Long, và người có công và đủ bản
lĩnh nhất để viết kiến nghị này là luật sư Phan Văn Trường. Nhóm Ngũ Long, đặc
biệt là luật sư Phan Văn Trường, đã viết kiến nghị này do lòng yêu nước của
mình, và chính những người trong nhóm Ngũ Long không hề muốn tranh giành uy tín
và tiếng tăm cho mình miễn sao là có lợi cho đại cuộc chung. Họ thấy Nguyễn Tất
Thành còn quá non kém nên đã dồn cả công trạng của họ cho Nguyễn Tất Thành hưởng
với ý nguyện khi Nguyễn Tất Thành gây được uy tín cá nhân, Thành sẽ lo đấu
tranh cho quyền lợi của dân tộc. Tiếc thay, Nguyễn Tất Thành đã phụ lòng ưu ái
đó của họ.
Tờ L'Humanité số ra ngày 16 và ngày 17 tháng 7 năm 1920 đăng
bản thảo "Luận Cương Về Vấn Đề Dân Tộc và Vấn Đề Thuộc Địa" của
Lenin. Luận đề này cũng được gọi là "Luận Cương Tháng 4" vì nó được
viết vào tháng 4 năm 1920. Nguyễn Ái Quốc đọc được bản thảo này, và về sau, Hồ
Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc đã tự nhớ lại là y lấy làm phấn khởi, sáng tỏ, và
tin tưởng đến độ đang ở trong phòng một mình y đã thốt lên: "Hỡi đồng bào
ta bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!" Và theo lời của Hồ Chí Minh sau này, từ đó Nguyễn Ái Quốc
tức Hồ Chí Minh quyết tâm đi theo con đường cách mạng của Lenin. Nhưng sự thực
có phải vậy hay không? Chúng ta hãy thử lật trang sử Đại Hội Đảng Xã Hội Pháp tổ
chức tại Tours vào tháng 12 năm 1920, nghĩa là chỉ vài tháng sau khi Nguyễn Ái
Quốc đọc luận cương của Lenin ở trên. Đại Hội này được triệu tập với mục đích Đảng
Xã Hội Pháp phải theo khuynh hướng xã hội nào, Đệ Nhị hay Đệ Tam Cộng Sản? Nguyễn
Ái Quốc tham gia đại hội này với tư cách là một trong 4,220 đại biểu. Khi chuẩn
bị bỏ phiếu, nữ thư ký của Đại Hội hỏi Nguyễn Ái Quốc: "Đồng chí bỏ phiếu
theo Đệ Nhị Quốc Tế hay Đệ Tam Quốc Tế?" Nguyễn Ái Quốc trả lời: "Tôi
không phân biệt rõ sự khác nhau giữa Đệ Nhị, Đệ Nhị Rưỡi hay Đệ Tam Quốc Tế,
nhưng Quốc Tế nào giúp đỡ dân tộc tôi thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp
thì tôi bỏ phiếu tán thành!" Người nữ thư ký trả lời đó là Đệ Tam Quốc Tế,
và thế là Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu cho Đệ Tam. Trong cuốn " Những Mẩu Chuyện
Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch," Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh cũng đã
xác nhận sự kiện này. Rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên của Đệ Tam Quốc
Tế Cộng Sản do cảm tính hơn là do lý luận, và chính Nguyễn Ái Quốc cũng chẳng
hiểu gì cả về Chủ Nghĩa Cộng sản của Marx hay của Lenin!!!
Từ ngày Nguyễn Ái Quốc tham gia vô Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản,
Nguyễn Ái Quốc được các bậc thày trong Đảng Cộng Sản Pháp nâng niu che chở vì
là một trong những người trẻ nhất từ một quốc gia xa xôi nhất. Nhóm Ngũ Long và
luật sư Phan Văn Trường vẫn tiếp tục viết các bài báo có tác động mạnh trên người
dân Pháp ủng hộ cho cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam dưới bút
hiệu là Nguyễn Ái Quốc. Trong thời gian này có thể chính Nguyễn Tất Thành cũng
đã có đủ khả năng viết một vài bài dưới bút hiệu Nguyễn Ái Quốc, và luật sư
Phan Văn Trường sửa văn cho.
Theo tài liệu trong Văn Khố Pháp ở Aix-en Provence, ngày 14
tháng 7 năm 1921, Nguyễn Ái Quốc dọn đến số 9, ngõ cụt Compoint, tại quận 17 ở
Paris. Có lẽ Nguyễn Ái Quốc phải dọn ra ở đây là vì theo quyết định của nhóm
Ngũ Long đánh lạc hướng sự theo dõi của tình báo Pháp về Hội Người Việt Nam Yêu
Nước.
Văn Khố Pháp ở Aix-en Provence cũng còn ghi lại ngày 14 tháng
3 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc dọn ra sống ngay trụ sở Hội Liên Hiệp Thuộc Địa và tờ
Paria ở số 3 đường Marché des Patriarches
Ngày 10 tháng 5 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc viết thư tỏ tình với
cô Bourdon, một người Pháp, và cô này, vào ngày 11 tháng 6 năm 1923, đã viết một
lá thư khẳng khái cự tuyệt mối tình của Nguyễn Ái Quốc.
Trước khi tìm hiểu chuyến đi của Nguyễn Ái Quốc đến Moscow,
chúng ta cần sơ lược tiểu sử của Manabendra Nath Roy (1887-1954), một người „n
Độ đấu tranh cho sự độc lập của nước „n. Từ còn niên thiếu, M.N Roy tham gia vô
các sinh hoạt vũ trang tìm cách lật đổ nhà cầm quyền Anh tại „n. Năm 1915, ông
tìm cách đưa súng ống vào „n qua ngã quốc gia Bengal. Ông thất bại. Ông bỏ trốn,
đi đây đi đó sang nhiều quốc gia. Ông từng đến Hoa Kỳ. Sau đó ông sang Mễ Tây
Cơ và giúp thành lập Đảng Cộng Sản Mễ Tây Cơ. Ông rất am hiểu tình hình các dân
tộc. Ông đi dự đại hội của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Vì đi nhiều, ông am hiểu
tình hình các dân tộc Phương Đông hơn cả Lenin. Cho nên, "Luận Cương Về Vấn
Đề Dân Tộc và Vấn Đề Thuộc Địa" của Lenin bị ông chất vấn làm cho Lenin bí
lối nhiều điểm. Lenin cắt cử M.N Roy vào chức œy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương
của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1929, M.N Roy bất đồng chính kiến với Stalin.
M.N Roy bỏ trốn bí mật về „n. M.N Roy bị nhà cầm quyền Anh bắt giam một thời
gian. Sau này M.N Roy bỏ Đảng Cộng Sản và tham gia vô Đảng Quốc Đại „n.
Manabendra Nath Roy làm cho Lenin cứng họng nhiều điểm nên
không nói ra, ai cũng nhìn thấy Lenin cần có một chuyên gia về các vấn đề liên
hệ đến các dân tộc ở Phương Đông. Dimitri Manouilski, một đàn em thân cận của
Lenin đã nhìn ra được nhược điểm của Lenin, và để lấy điểm với Lenin, Manouilski
quyết tâm tìm một người Phương Đông để giúp cho Lenin về vấn đề này. Người ta đồn
xa đồn gần có một người đảng viên Cộng Sản Pháp gốc Việt với tên là Nguyễn Ái
Quốc đã viết 8 điểm kiến nghị về vấn đề Việt Nam, tức là về vấn đề một quốc gia
ở phương Đông, như thế đây có thể là một người đáp ứng đúng cho nhu cầu này.
Chính vì muốn chọn Nguyễn Ái Quốc cho nhiệm vụ cố vấn cho Ban Chấp Hành Trung
Ương Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản về những vấn đề các dân tộc ở Phương Đông nên
Dimitri Manouilski đã giàn dựng cho Nguyễn Ái Quốc có những chuyến đi bí mật đến
Moscow. Tất cả những giàn dựng này, Manouilski chỉ thị cho Đảng Cộng Sản Pháp sắp
xếp một cách tinh vi đánh lừa mật thám chính phủ Pháp để cho Nguyễn Ái Quốc có
thể an toàn đến Nga.
Đa số các tài liệu nói rằng Nguyễn Ái Quốc đến Moscow vào cuối
năm 1923. Nhưng, Nguyễn Khắc Huyên, một đảng viên cao cấp của ĐCSVN, người từng
viết sử về Hồ Chí Minh, năm 1971, viết rằng Nguyễn Ái Quốc đã đến Moscow vào
tháng 11 năm 1922, dự Đại Hội Kỳ IV của Đệ Tam Quốc Tế, gặp Lenin và Stalin, rồi
trở về lại Pháp. Sau đó, vào tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc trở lại Nga,
nhưng chỉ đến Moscow vào đầu năm 1924 sau cái chết của Lenin vài ngày. Theo ông
Nguyễn Thế Anh, trong quyển "Hồ Chí Minh, Sự Thật Về Thân Thế Và Sự Nghiệp,"
Nguyễn Ái Quốc đã có mặt tại Moscow vào tháng 7 năm 1923, tham dự Đại Hội Quốc
Tế Nông Dân họp từ ngày 10 tới ngày 15 tháng 7 năm 1923 dưới sự chủ tọa của
Zinoviev. Trong đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã lên tiếng phản đối nhà cầm quyền,
các thương gia và các cố đạo Pháp, đã khai thác và bóc lột công sức lao động của
giới nông dân tại Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc lên tiếng bênh vực cho giới nông
dân, chớ không phải giới công nhân vì tại Việt Nam lúc đó giới nông dân là lực
lượng chính. Đại hội này bầu Chủ Tịch Đoàn Quốc Tế Nông Dân, và Nguyễn Ái Quốc
là thành viên. Ngày 16 tháng 10 năm 1923, Chủ Tịch Đoàn Quốc Tế Nông Dân họp lần
đầu, chọn 11 thành viên lãnh đạo, và Nguyễn Ái Quốclà một trong 11 thành viên
đó.
Không hiểu vì lý do gì mà trước đây Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản
cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tung ra tin thất thiệt Nguyễn Ái Quốc đến
Moscow chỉ sau vài ngày Lenin qua đời, làm Nguyễn Ái Quốc tiếc không được gặp mặt
Lenin, khóc thương hùi hụi Lenin, viết một bài điếu văn thương khóc Lenin và
bài điếu văn này được đăng trên tờ báo Pravda (Sự Thật) tháng Giêng năm đó. Rõ
ràng đây là một tin hỏa mù đánh lừa dư luận quốc tế vì trong thời gian
1922-1923, Nguyễn Ái Quốc cần có thời gian huấn luyện và thử thách để Đệ Tam Quốc
Tế Cộng Sản mới có thể giao phó những trọng trách ở các nước Phương Đông. Nếu
Nguyễn Ái Quốc đã không tỏ ra thuần thục thì chắc chắn họ đã không đánh bóng
Nguyễn Ái Quốc và cho đăng bài điếu văn trên tờ Pravda. Hơn nữa, trong thời gian
1922-1924, Stalin đang từng bước một nắm quyền, loại bỏ Lenin, Trotsky và
Zinoviev ra khỏi quyền lực, và đây là giai đoạn Stalin đang tìm những người
trung tín. Dimitri Manouilski, người đỡ đầu cho Nguyễn Ái Quốc, là một người rất
tinh tế, đã ngã hẳn về phe Stalin, và chính Dimitri Manouilski đã nói cho Nguyễn
Ái Quốc biết phải làm gì. Sau này, cũng chính nhờ Dimitri Manouilski hướng dẫn
nên Nguyễn Ái Quốc đã thoát khỏi bàn tay sắt máu của Stalin trong cuộc thanh trừng
đẫm máu vào thập niên 1930's.
Đại Hội V Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản cử hành từ ngày 17 tháng
Sáu đến ngày 8 tháng Bảy năm 1924 tại Moscow. Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện trong
đại hội này, đã đọc bài tham luận về vấn đề các dân tộc, và hình ảnh này đã được
quay phim cất giữ trong văn khố nước Nga. Trong bài diễn văn này, người ta thấy
Nguyễn Ái Quốc công kích Đảng Cộng Sản Pháp đã không tích cực chống đối chế độ
thực dân Pháp. Không hiểu các đồng chí người Pháp của y, những người đã nâng đỡ
y trước đây để y lên ngồi trên ghế cao trong Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản nghĩ gì lời
phê bình gay gắt này, một lời phê bình có tính cách bán đứng những người thày,
những người bạn trước đây?
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc, dưới bí danh Lý Thụy, tháp
tùng với phái đoàn của Borodine về Quảng Châu. Borodine được biệt phái sang
giúp cho Tôn Dật Tiên củng cố lại Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Borodine đã ra lệnh
cho tất cả các đảng viên Cộng Sản tham gia vô Trung Hoa Quốc Dân Đảng, làm giây
leo, và từ từ sau khi đã trưởng thành, tách ra khỏi Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Sau chuyến đi Liên Xô và tìm hiểu thực trạng cuộc cách mạng Bolshevik ở Nga, Tưởng
Giới Thạch trở về Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch tường trình cho mọi người biết
không thể bắt chước cuộc cách mạng nước Nga được vì nó quá vô nhân đạo. Tôn Dật
Tiên qua đời và quyền hành trong Trung Hoa Quốc Dân Đảng rơi vào tay Tưởng Giới
Thạch. Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch săn lùng phái đoàn Borodine để kết
án. Borodine và phái đoàn, trong đó có Lý Thụy, bỏ trốn về Liên Xô.
Năm 1924, vừa đến Quảng Châu, Lý Thụy tìm cách liên lạc với
các nhà cách mạng Việt Nam như cụ Phan Bội Châu. Lý Thụy liên lạc được với nhóm
Tâm Tâm Xã. Nhóm Tâm Tâm Xã là nhóm đã được nhà chí sĩ Phạm Hồng Thái, người,
trong năm 1924, đã ném bom trong khách sạn Victoria ở Sa Diện tỉnh Quảng Châu
tính ám sát quan Toàn Quyền Đông Dương Martial Merlin nhưng thất bại và đã trầm
mình xuống sông tự kết liễu. Nhóm Tâm Tâm Xã lúc này có rất nhiều nhân vật sau
này nổi danh như Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Vũ Hải Thu, Lê Hồng Sơn, Lâm Đức
Thụ, Vương Thúc Oánh. Lý Thụy móc nối một số nhân vật trong Tâm Tâm Xã, những
người đang sùng sục yêu nước mà không có nơi nương tựa, nên nghe lời Lý Thụy
tham gia vô Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Lý Thụy cũng liên lạc với
cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Bội Châu giới thiệu Lý Thụy với những người Việt Nam
yêu nước khác, trong đó có cụ Hồ Học Lãm. Cụ Hồ Học Lãm là một du học sinh sang
Nhật học về quân sự năm 1906, và năm 1909, khi Nhật nghe theo thực dân Pháp đuổi
các học sinh Việt Nam đi, cụ Lãm về Quảng Châu. Cụ tham gia vô Trung Hoa Quốc
Dân Đảng và dần hồi leo lên tới cấp Tá trong quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Sau này, cụ hay viết bài dưới bút hiệu Hồ Chí Minh. Năm 1937, cụ Hồ Học Lãm và
cụ Nguyễn Hải Thần cùng nhau thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Nhờ sự
giới thiệu của cụ Phan Bội Châu, Lý Thụy quen với cụ Hồ Học Lãm, và khi cụ Hồ Học
Lãm viết xong bài nào, thường cho Lý Thụy xem góp ý. Lý Thụy từ đó biết cụ Lãm
và bút hiệu "Hồ Chí Minh" rất có uy tín. Sau này, năm 1942, theo bài
viết của cụ Lý Thái Như đăng trong đặc san Xuân Mậu Dần (1998) của tờ Người Việt
ở Nam California, khi tướng Trương Phát Khuê bắt giam Lý Thụy ở Quảng Châu vì
nghi Lý Thụy làm việc cho Đệ Tam Quốc Tế, Lý Thụy xưng mình là Hồ Chí Minh và
xin các nhà cách mạng Việt Nam ở đó cứu giúp. Cụ Nguyễn Hải Thần đã thương hại
giúp can thiệp cho y. Có thể cụ Nguyễn Hải Thần biết Lý Thụy đã dùng bí danh của
cụ Hồ Học Lãm nhưng không cho đó làm quan trọng lắm vì cụ nghĩ rằng miễn sao tất
cả chỉ để đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thực dân Pháp. Lý Thụy,
tức Hồ Chí Minh được trả tự do, sau đó, cụ Nguyễn Hải Thần tuyên thệ y vào Việt
Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, và cụ Nguyễn Hải Thần cắt cử y chức vụ œy Viên Hậu
Bổ. Từ năm 1942 trở đi, bí danh "Hồ Chí Minh" mới xuất hiện.
Trong cuốn "Tự Phán" của cụ Phan Bội Châu, cụ cho
biết cụ lên Tô Giới Thượng Hải vào ngày 11 tháng 5 năm 1925 thì bị tình báo
Pháp chận bắt ngay ga xe lửa. Đầu năm 1925, cụ Phan đã đổi Việt Nam Quang Phục
Hội của cụ thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Việt Nam Quốc Dân Đảng đang bắt đầu
phát triển mạnh. Sợ uy tín của cụ Phan, sợ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau này lấn
áp nên Lý Thụy tìm cách ra tay sát hại cụ Phan trước. Khoảng tháng 6 năm 1925,
Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, trưởng ban tổ chức ký tên là Lý Thụy
mời cụ Phan lên Hàng Châu để dự lễ giỗ đầu tiên của liệt sĩ Phạm Hồng Thái.
Liên lạc gặp cụ Phan Bội Châu và sắp xếp chương trình cho cụ Phan là Hồ Tùng Mậu,
Vương Thúc Oánh, và Lâm Đức Thụ, tức là những thành viên trong VNTNCMĐCH. Trên
đường từ Hàng Châu về Quảng Châu, cụ Phan phải ghé qua Thượng Hải. Và, vừa tới
Thượng Hải, cụ bị mật thám Pháp bắt giữ. Sự thật cụ Phan Bội Châu bị bắt như thế
nào? Trong cuốn sách tự thuật của ông Vương Thúc Oánh in vào năm 1962, Vương
Thúc Oánh cho biết trong phiên họp khoảng đầu năm 1925 của Việt Nam Thanh Niên
Cách Mạng Đồng Chí Hội, một hội vừa mới được Lý Thụy móc nối và thành lập, và
Vương Thúc Oánh có hiện diện trong buổi họp đó, Lý Thụy nói: "Cụ Phan ái
quốc thật, nhưng cụ đã quá già, đầu óc rất khó hấp thụ những trào lưu tư tưởng
mới. Cụ lại quá thành thực, dễ tin người..." Lý Thụy đã lý luận hãy để cho
cụ Phan trở thành biểu tượng đấu tranh bằng cách để người Pháp bắt giam cụ, xong
rồi Hội tổ chức các cuộc đấu tranh cho cụ. Song song, khi bán tin cho người
Pháp bắt cụ, người Pháp phải gởi lại cho Hội một số tiền, và Hội dùng số tiền
này để phát triển lực lượng. Lý luận "nhất cử lưỡng tiện" này đã được
các thành viên trong VNTNCMĐCH biểu quyết chấp thuận. Thế là họ bán đứng cụ
Phan cho người Pháp, và nhận từ người Pháp 10 vạn Quan tiền, một số tiền rất lớn
vào thời gian đó. Đây là một trong những thành tích lừa thày phản bạn đầu tiên
của "người" (?) được mệnh danh là Hồ Chí Minh sau này. Khi cụ Phan bị
Pháp bắt giam giữ, Việt Nam Quốc Dân Đảng của cụ coi như bị tê liệt không hoạt
động được. Mãi cho đến Ngày 25 tháng 12 năm 1927, Nguyễn Thái Học thành lập Việt
Nam Quốc Dân Đảng và mời cụ Phan làm chủ tịch danh dự. Cụ Phan bị thực dân Pháp
giam lỏng bên bờ sông Hương ở Huế cho đến lúc qua đời ngày 29 tháng 10 năm
1940.
Trong thời gian ở Quảng Châu, Lý Thụy được Lâm Đức Thụ giới
thiệu làm quen với gia đình bên vợ. Vợ của Lâm Đức Thụ là bà Lý Huệ Quần, là một
gia đình danh gia giàu có. Bà Lý Huệ Quần có một người em gái là Lý Huệ Khanh.
Lý Thụy đã lấy Lý Huệ Khanh. Sau này Lý Huệ Khanh tham gia Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng giết chết trong biến cố Quảng Châu Công Xã
ngày 12 tháng 12 năm 1927. Tháng 4 năm 1991, báo Tuổi Trẻ ở thành Hồ đăng
nguyên bức thư bằng Hán văn Lý Thụy gởi cho bố mẹ vợ hỏi han gia cảnh và tình
hình của bà Lý Huệ Khanh. Việc này làm xôn xao dư luận, và sau đó, Phó Tiến Sĩ
Mai Hạnh bị cách chức khỏi chức vụ chủ nhiệm của tờ báo.
Tưởng Giới Thạch quyết lùng bắt phái đoàn của Borodine, tháng
4 năm 1927, phái đoàn Borodine trong đó có Lý Thụy đã phải băng qua sa mạc mênh
mông ở Ngoại Mông trốn về Moscow và suýt đã phải bỏ mạng ở sa mạc mênh mông
này.
Về tới Moscow, năm 1928, Lý Thụy được cử đi Brussels nước Thụy
Sĩ, sau đó đi Pháp. Khi đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc đang gặp khó khăn đối với
Trung Hoa Quốc Dân Đảng và cũng đang gặp khó khăn vì những mâu thuẫn trong nội
bộ. Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản phái Nguyễn Ái Quốc từ Pháp về Thái Lan hoạt động với
những Hoa Kiều, củng cố lại lực lượng Cộng Sản của Trung Hoa tại hải ngoại, và
đồng thời, phát triển các lực lượng Cộng Sản địa phương. Tháng 5 năm 1929, y được
triệu về Hồng Kông họp với Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, và trong phiên họp
ngày 17 tháng 6 năm 1929, một nhóm trong TNCMĐCH ly khai đổi thành Đảng Cộng Sản
Đông Dương. Một số người khác cũng không chịu kém, họ thành lập "An Nam Cộng
Sản Đảng," và "Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn." Tình hình phân
hóa trầm trọng, Nguyễn Ái Quốc phải xin chỉ thị của Moscow. Theo chỉ thị của
Moscow, các Đảng Cộng Sản phải đến dự hội ở Hương Cảng vào ngày 3 tháng 2 năm
1930 dưới sự chủ tọa của Nguyễn Ái Quốc để thống nhất lực lượng. Ngày đó chính
là ngày khai sinh ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, và Trần Phú được cử làm Tổng Bí
Thư đầu tiên. Nguyễn Ái Quốc còn có nhiều nhiệm vụ quan trọng khác phải làm nên
chưa đến lúc phải tranh chấp chức vụ "khá nhỏ nhoi" đó. Khi ấy Nguyễn
Ái Quốc là thành viên Ban Chấp Hành Trung Ương của Đệ Tam. Hơn nữa Trần Phú là
một đệ tử trước đây của Nguyễn Ái Quốc, đã từng đi Moscow, và Moscow chỉ định về
nắm giữ chức vụ này. Tháng 10 năm 1930, theo chỉ thị của Moscow, Đảng Cộng Sản
Việt Nam được đổi thành Đảng Cộng Sản Đông Dương. Sau đó, Trần Phú phát động
Phong Trào Sô Viết Nghệ Tĩnh gây bao sóng gió và tang thương cho dân tộc. Sau
cái chết của Trần Phú, Lê Hồng Phong lên làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Đông
Dương. Tại Đại Hội Kỳ VII của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản tháng 7 năm 1935, Lê Hồng
Phong và vợ là Nguyễn Thị Minh Khai đã đại diện cho Đảng Cộng Sản Đông Dương,
trong khi đó Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là đại biểu của Bộ Phương Đông.
Sau khi họp thống nhất các lực lượng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn
Ái Quốc được trao nhiệm vụ trở về Thái Lan. Dưới danh nghĩa đại diện cho Đệ Tam
Quốc Tế, ngày 20 tháng 4 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ tọa phiên họp thành lập Đảng
Cộng Sản Xiêm. Nói là Đảng Cộng Sản Xiêm nhưng thực ra những đảng viên là người
Trung Hoa và người Việt Nam với nhiệm vụ là xâm nhập và yểm trợ phát triển Đảng
Cộng Sản Trung Quốc ở lục địa.
Sau phiên họp thành lập Đảng Cộng Sản Xiêm, Nguyễn Ái Quốc,
dưới nhiều bí danh, và, một trong những bí danh là "Tống Văn Sơ" đã
đi đi lại các quốc gia Thái Lan, Singapore, Mã Lai, và Hồng Kông để điều hợp
các hoạt động của các Đảng Cộng Sản. Vào thời gian này, Staline phái Joseph
Ducroux, dưới bí danh Serge Lefranc, đến các quốc gia Á Châu để tìm những cơ hội
phát triển kinh tế cho Nga. Sau mấy tháng đi lại giữa Hồng Kông và Mã Lai và
không bị trắc trở, Joseph Ducroux khinh xuất để lộ cho chính quyền Singapore biết
mình đang hoạt động tình báo cho nước Nga. Lúc đó Singapore còn là thuộc địa của
Anh. Joseph Ducroux bị chính quyền Singapore bắt vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.
Giấy tờ của Joseph Ducroux bị tịch thâu, và từ đó, chính phủ Anh lần mò phá vỡ
nhiều đường giây tình báo của Cộng Sản, và họ lần mò ra Nguyễn Ái Quốc chính là
Tống Văn Sơ. Ngày 6 tháng 6 năm 1931, cảnh sát Hồng Kông bắt giam Tống Văn Sơ.
Khi đó, Tống Văn Sơ đang sống chung với một người đàn bà tên là Li Sam. Điều
này chứng minh cho thấy Nguyễn Ái Quốc đi đến đâu, Đệ Tam Quốc Tế cũng bố trí
cho y có vợ hoặc các cô nhân tình phục vụ sinh lý cho y, giống như sau này vào
thập niên 1960's, theo như lời của ông Vũ Thư Hiên trong tác phẩm "Đêm Giữa
Ban Ngày," Lê Đức Thọ và đàn em là Bộ Trưởng Nội Vụ Trần Quốc Hoàn bố trí
cho họ Hồ hai cố gái trẻ đẹp sắc tộc người Tày ăn ở phục dịch sinh lý cho y,
xong rồi y để cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu họ luôn.
Khoảng thời gian này là một bức màn bí mật bao trùm lên cuộc
đời Nguyễn Ái Quốc.
Chuyến bắt này, về sau Trần Dân Tiên tức Hô Chí Minh đã tạo
ra nhiều hư cấu cho rằng luật sư Frank Loseby do nhà nước chỉ định, đã viện dẫn
luật "Habeus Corpus" nêu lên nhà cầm quyền Anh không đủ yếu tố bắt
giam Tống Văn Sơ, và cũng không đủ bằng chứng 100% Tống Văn Sơ là Nguyễn Ái Quốc
nên chính quyền Anh, với sự ủng hộ của Sir Stafford Cripps cố vấn pháp luật cho
Hoàng Gia Anh, vận động trả tự do cho Tống Văn Sơ. Theo lời kể của Trần Dân
Tiên, sau khi được thả ra chuyến này, Tống Văn Sơ đáp tàu bí mật đi Anh, nhưng
vừa đến Singapore, cảnh sát Anh bắt lại, chuyển Tống Văn Sơ trở về Hồng Kông,
và cảnh sát Hồng Kông, lấy lý do Tống Văn Sơ nhập cảnh không có giấy phép, bắt
giam Tống Văn Sơ. Theo lời của Trần Dân Tiên, cuối tháng Giêng năm 1933, luật
sư Frank Loseby giúp cho Tống Văn Sơ vượt ngục, trốn sang Thượng Hải. Tại Thượng
Hải, vào mùa Xuân năm 1934, Nguyễn Ái Quốc, tức Tống Văn Sơ, nhờ một người
quen, mới liên lạc được Vaillaint Couturier, một đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp
mà Quốc quen trước kia, và Vaillant Couturier đã sắp xếp cho Nguyễn Ái Quốc với
bí danh Linov, ngày 1 tháng 10 năm 1934, đáp tàu từ Thượng Hải đi Vladisvostok
và từ Valdisvostok trở về Moscow. Tại Moscow, với bí danh "đồng chí
Lin," y được học trong trường Đại Học Lenin chuyên nghiên cứu về các nước
thuộc địa.
Tại sao Trần Dân Tiên, tức Hồ Chí Minh, lại tạo ra câu chuyện
ly kỳ như trên? Trên tờ L'Humanité đăng vào tháng 7 năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã
chết trong tù tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông vào ngày 26 tháng 6 năm 1932.
Cái chết của Nguyễn Ái Quốc cũng được đăng trên các báo chí tại Nga. Đệ Tam Quốc
Tế Cộng Sản còn tổ chức buổi lễ tưởng niệm Nguyễn Ái Quốc. Mật thám Pháp, qua bản
tin trên, đóng hồ sơ Nguyễn Ái Quốc lại. Như thế rõ ràng trong thời gian này
khi Nguyễn Ái Quốc ở tù, đã có một sự sắp xếp bí mật nào đó của Đệ Tam Quốc Tế,
và một cách nào đó, họ đã đưa Nguyễn Ái Quốc ra khỏi tù bằng an, trở về Moscow
nhận chỉ thị mới. Cũng chính trong thời gian ở tù này, Tống Văn Sơ, tức Nguyễn
Ái Quốc, đã làm quen với ông già họ Lý, tác giả đích thực của tập thơ "Ngục
Trung Nhật Ký" mà sau này Hồ Chí Minh đã mạo nhận là của mình, và Giáo Sư
Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ vạch trần vụ án đạo văn hy hữu này.
Giai đoạn cuộc đời của Hồ Chí Minh từ năm 1935 tới năm 1938
là cả một bức màn bí mật. Hai tập truyện do chính Hồ viết lại dưới bút hiệu Trần
Dân Tiên và T. Lan cũng không đề cập đến giai đoạn này. Người ta nghi rằng khi
sau Đại Hội VII của Đệ Tam Quốc Tế vào tháng 7 năm 1935 mà Nguyễn Ái Quốc đến dự
với tư cách là đại biểu của Bộ Phương Đông, Hồ bị Staline thanh trừng và bị thất
sủng. Một vài người cho rằng Nguyễn Ái Quốc đã bị thất sủng trước rồi, và đi họp
Đại Hội VII của Đệ Tam Quốc Tế với tư cách là đại biểu của Bộ Phương Đông đủ để
chứng minh Nguyễn Ái Quốc có tiếng mà không có miếng, vì thực lực đã giao cho
Lê Hồng Phong, một đàn em của Nguyễn Ái Quốc trước đây. Những tin hành lang còn
cho biết sau này nắm lại được thực lực, Hồ sát hại Lê Hồng Phong và cướp vợ là
Nguyễn Thị Minh Khai để rửa mối nhục cho những tháng ngày này. Nên nhớ vào năm
1929, Manabendra Nath Roy và một số nhân vật xuất sắc khác trong Bộ Đông Phương
đã bỏ trốn, và Staline kết án họ gắt gao là kẻ phản bội. Có thể Staline nghi ngờ
Nguyễn Ái Quốc nên cho Nguyễn Ái Quốc 4 năm trời bị cấm cố, bị thử thách. Giáo
Sư Tôn Thất Thiện, trong tác phẩm viết về Hồ Chí Minh của ông, lại có ánh nhìn
khác hẳn. Theo giáo sư Tôn Thất Thiện, trong thời gian 1935-1938, Nguyễn Ái Quốc
đã được cắt cử nhiệm vụ rất quan trọng trong Bộ Đông Phương, là một œy Viên
Trung Ương, là tay phải của Dimitri Manouilski, mà Dimitri Manouilski là người
tín cẩn của Staline, nên chắc chắn Nguyễn Ái Quốc đã được Dimitri Manouilski hướng
dẫn biết cách chìu lòng Staline để không bị thanh trừng, mà còn được lên chức.
Để đánh giá được những gì đã xảy ra trong giai đoạn này đối với Nguyễn Ái Quốc,
chúng ta hãy nghe Khrushchev kể chuyện về Hồ Chí Minh và Staline.
Trong Hồi Ký, Nikita Khrushchev viết: "Trong suốt cuộc
đàm luận, Hồ Chí Minh lúc nào cũng dính chặt mắt vào Staline với cái nhìn lạ
lùng chỉ có ở Hồ. Cái nhìn đó biểu thị một sự ngây ngô hầu như non dại. Tôi thấy
lại cái nhìn đó khi Hồ chăm chăm tìm kiếm một tờ báo Liên Xô trong tập đựng tài
liệu của Hồ, có lẽ là tạp chí 'Liên Xô Trong Xây Dựng' và xin Staline đề mấy
hàng lưu niệm. Hồ có vẻ vui thích với ý nghĩ sẽ trở về Việt Nam có trong tay thủ
bút của Staline để Hồ có thể khoe khoang với đám đàn em của Hồ. Staline đã viết
lời đề tặng, nhưng sau đó đã ra lệnh đánh cắp tờ báo này vì ngại Hồ có thể lạm
dụng tiếng tăm của mình." Ai cũng biết Staline là một con người rất đa
nghi, và qua mẩu chuyện này, chúng ta thấy Staline không hề đặt tin tưởng nơi Hồ.
Do đó, đối với tôi, có lẽ trong thời gian đó, Staline đã cho Nguyễn Ái Quốc nắm
giữ chức vụ quan trọng trong Bộ Đông Phương, nhưng không có thực quyền, và Nguyễn
Ái Quốc cần phải học tập tư tưởng của Staline, phải chứng tỏ ra là một đệ tử
trung tín của y, phải biết cúi đầu tuân nghe y như một con chó thì Staline mới
cho phép tung bay hoạt động trở lại.
Năm 1937, Mặt Trận Bình Dân thân tả của Thủ Tướng Léon Blum
lên nắm quyền tại Pháp. Chính phủ thân tả này đã giúp cơ hội cho các Đảng Cộng
Sản và Xã Hội phát triển ở Á Châu. Lúc này tiếng tăm của Nguyễn Ái Quốc không
có một chút nào ở Việt Nam. Năm 1938, chính phủ của Mặt Trận Bình Dân bị thoái
trào. Có lẽ lúc này Nguyễn Ái Quốc đã học thuộc bài nên Staline cho phép Nguyễn
Ái Quốc, với bí danh là "đồng chí Lâm" đến Diên An gặp Mao Trạch
Đông. Sau đó, "đồng chí Lâm" đến Quế Lâm, liên lạc với Bát Lộ Quân của
Cộng Sản Trung Hoa nhờ họ giúp đỡ về Việt Nam hoạt động. Đầu năm 1940, dưới bí danh
Hồ Quang, y đến Côn Minh gặp Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp mới từ Việt Nam trốn
sang để bàn thảo chương trình hoạt động với y. Cũng trong thời gian này, Lý Thụy
cũng hoạt động dưới bí danh "đồng chí Trần" và "đồng chí
Vương." Khi gặp được Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, cùng với thêm 5 người
khác, "đồng chí Hồ Quang" tức Lý Thụy đã chủ tọa những phiên họp. Qua
những phiên họp, họ quyết định dùng màn xảo thuật đánh lận con đen, vào ngày 19
tháng 5 năm 1941, thành lập "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội" và Hồ
Chí Minh là Chủ Tịch. Họ làm như vậy là vì họ biết "Việt Nam Cách Mạng Đồng
Minh Hội" (không có chữ Độc-Lập) do cụ Hồ Học Lãm, bút hiệu Hồ Chí Minh,
và cụ Nguyễn Hải Thần thành lập trước đây vào năm 1937 rất có uy tín đối với
người Việt cũng như đối với Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Lúc đó cụ Nguyễn Hải Thần
còn sống, nhưng cụ Hồ Học Lãm với bút danh là Hồ Chí Minh đã quá cố rồi. Họ muốn
mượn uy danh của ông để đốt ngắn giai đoạn tạo uy tín cho mình. Ngày 29 tháng 8
năm 1942, Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh Hồ Chí Minh của cụ Hồ Học Lãm, vượt biên
giới Việt-Trung và bị bắt ở phố Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây.
Theo lời kể của cụ Lý Thái Như, năm 1942, cụ tình cờ nghe được
một vài người bạn Trung Hoa cho biết ở trong núi Độc Đăng có câu lưu hai người
Việt Nam làm cách mạng. Tò mò, cụ và một số người đến núi Độc Đăng tìm hiểu.
Viên Đại Úy chúa ngục chỉ vào hai người đang nằm trên nệm rơm ở trong hang núi
và nói: "Đây là Lý Thụy bị chính phủ bắt vì tội làm gián điệp cho Nga hay
Nhật, còn anh kia tên là Đinh Chương Dương hoạt động cho Cộng Sản." Khi ấy,
đối với người Việt chưa phân biệt Quốc Gia hay Cộng Sản, nên cụ Lý Thái Như đã
về báo cáo lại cho cụ Nguyễn Hải Thần. Cụ Nguyễn Hải Thần đã đứng ra can thiệp
và nhờ đó họ trả tự do cho Lý Thụy. Như đã kể ở trên, cụ Nguyễn Hải Thần còn
tuyên thệ cho Lý Thụy vào Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, và cắt cử y với chức
œy Viên Hậu Bổ của Hội.
Cũng theo lời kể của cụ Lý Thái Như, vào khoảng giữa năm
1943, sau khi Ban Chấp Hành Trung Ương của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội
đánh giá tình hình chín mùi, cần cử người về nước liên lạc với các thành viên
trong nước. Lý Thụy, tức Hồ Chí Minh xung phong trước tiên. Thấy nhiệt tình của
Hồ Chí Minh, hai cụ Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần cùng cười khen, hỏi lại
hội trường: "Có ai ý kiến về sự xung phong của đồng chí Lý Thụy
không?" Sau đó vài phút, có người hoan hô tinh thần cách mạng của Lý Thụy.
Thế là Hồ Chí Minh được cắt cử về trong nước hoạt động.
Nhưng khi về Việt Nam được rồi, về ẩn ở trong hang Pắc Bó, Hồ
Chí Minh đã không hoạt động theo tôn chỉ của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội,
mà hoạt động theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Hồ Chí Minh, qua các đàn
em đảng viên Cộng Sản, đã phát động một chiến dịch mới đánh bóng Việt Minh, viết
tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội mà cũng có thể là chữ viết tắt của Việt
Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Ai muốn hiểu sao thì hiểu, và đó là sự gian trá và
khôn manh của họ. Và, lần đầu tiên dân chúng Việt Nam nghe đến tên Hồ Chí Minh.
Khoảng đầu năm 1945, Hoa Kỳ, vì nhu cầu chống Nhật tại Đông
Dương, tìm cách liên lạc với với các lực lượng Việt Nam yêu nước. Người chịu
trách nhiệm liên lạc là Thiếu Tá Archimedes Patti. Thiếu Tá Patti không phân biệt
được sự khác biệt "Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội" của cụ Nguyễn Hải
Thần và "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội" của Hồ Chí Minh. Cụ Nguyễn Hải
Thần thì ở Quảng Châu, còn trong khi đó, Hồ Chí Minh thì ở trong nước, và
"Việt Minh" thì đang lên cao, nên Thiếu Tá Archimedes Patti đã liên lạc
với Hồ Chí Minh. Theo lời tường thuật của Thiếu Tá Patti trên phim "Viet
Nam: A Television History," ông quyết định giúp đỡ cho Hồ Chí Minh, vì họ
Hồ nói được tiếng Anh và vì họ Hồ trình bày được những tư tưởng Tự Do và Dân Chủ
giống như bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson soạn thảo, nên
theo Thiếu Tá Patti, ông nghĩ nếu Hồ Chí Minh là Cộng Sản thì cũng chỉ là người
Cộng Sản yêu nước Việt Nam trên hết chớ không phải theo chỉ thị của Đệ Tam. Đó
chính là sai lầm của Thiếu Tá Patti. Thật ra, họ Hồ cũng chẳng yêu nước và cũng
chẳng trung thành với Quốc Tế Đệ Tam, con đường nào làm cho họ Hồ vinh thân phì
gia là con đường họ Hồ sẵn sàng, bằng mọi giá sẽ sử dụng. Phòng Dịch Vụ Chiến
Lược (OSS) của Hoa Kỳ, qua Thiếu Tá Archimedes Patti, đã viện trợ cho họ Hồ
súng đạn để thành lập quân đội trong những vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn. Nhờ sự
gian lận và biết đánh lận con đen, Hồ Chí Minh đã tạo được cơ hội để có sự giúp
đỡ của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ bỏ hai quả bom hạt nhân ở hai thành phố lớn Nagasaki
và Hiroshoma ở Nhật. Nhật đầu hàng phe Đồng Minh vô điều kiện. Một khoảng trống
chính trị diễn ra trên đất nước Việt Nam. Lúc đó Đảng Cộng Sản Việt Nam trên
toàn quốc chỉ có khoảng 200 người. Nhân cuộc biểu tình của dân chúng trước Nhà
Hát Lớn ở Hà Nội vào ngày 19 tháng 8 năm 1945, một vài cán bộ Đảng Cộng Sản trà
trộn, cầm cờ Việt Minh, cầm loa kêu gọi, yêu cầu chính phủ Bảo Hộ nhường quyền.
Thấy sức mạnh của quần chúng, Thị Trưởng Trần Văn Lai và bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ
đành bó tay, sẵn sàng trao quyền. Trong khi đó, Khâm Sai Phan Kế Toại, con trai
của nhà văn Phan Kế Bính, đã được Việt Minh móc nối tuyên truyền rỉ tai nên chấp
thuận đi theo họ. Cuộc Cách Mạng Mùa Thu năm 1945, nhờ sức mạnh quần chúng mà
Việt Minh nắm được chính quyền. Sau đó, họ gởi đại biểu lên Kinh Đô Huế yêu cầu
Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị.
Trong cuốn Hồi Ký của Hoàng Đế Bảo Đại, cựu Hoàng cho biết cựu
Hoàng trước đây chưa bao giờ nghe đến tên Hồ Chí Minh hay chính phủ Việt Minh.
Tuy nhiên, cựu Hoàng sẵn sàng từ bỏ ngai vàng và trở thành công dân Vĩnh Thụy
vì cựu Hoàng nghĩ rằng tổ chức nào mà giành được sự độc lập cho dân tộc và lo
cho hạnh phúc ấm no của dân tộc Việt Nam thì được rồi. Quan niệm này lúc bấy giờ
của cựu Hoàng cũng chính là quan niệm của quần chúng Việt Nam và của nhiều đảng
phái Quốc Gia. Chính vì vậy mà họ sẵn sàng để cho một người vô danh tiểu tốt là
Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và ngày 2 tháng 9
năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ở Quãng Trường Ba Đình thành phố
Hà Nội, ăn cắp hầu như nguyên văn và nguyên ý Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ
do Thomas Jefferson soạn thảo.
Thời gian này, Hồ Chí Minh bắt đàn em gọi mình bằng
"Bác." Theo ký giả người Mỹ Oliver Todd nhận định: "Hồ khôn
ngoan không tự phong là 'cha già dân tộc,' mà khiêm nhượng chỉ nhận mình là
'bác' của mọi người dân Việt. Trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, chức bác rất được
coi trọng. Với các cháu trai hay gái, thơ ngây hay trưởng thành, 'bác' Hồ ban lời
khuyên răn với tư tưởng sâu sắc rút từ Hồng Thư của Mao. Với trẻ em, Bác khuyên
'làm việc tốt, học tốt, kỷ luật tốt, giữ vệ sinh tốt, khiêm nhường, và luôn
luôn đề cao cảnh giác.' Đề cao cảnh giác ở đây phải hiểu là con cái tố giác cha
mẹ, anh em họ hàng, láng giềng, bạn bè." Oliver Todd đã lột trần được một
cách tài tình bản chất nham hiểm và luân lý giả dối của Hồ Chí Minh.
Phe Đồng Minh thắng phe Trục. Từ vĩ tuyến 16 trở về Bắc, quân
của Trung Hoa Quốc Dân Đảng do hai tướng Lư Hán và TiêuVăn vào Việt Nam giải
giáp quân Nhật. Vào Việt Nam với đội quân của hai tướng có các lực lượng cách mạng
Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam thì do quân đội Anh và một số nước Đồng
Minh vào giải giới quân đội Nhật. Người Anh đã giúp cho người Pháp, lúc đó do
tướng Jacques Leclerc lãnh đạo, nắm lại chính quyền ở miền Nam. Sợ hãi bản thân
mình và Đảng Cộng Sản bị mất quyền, Hồ Chí Minh ra chiến dịch Tuần Lễ Vàng, thu
gom vàng bạc để "mua súng đạn bảo vệ Tổ Quốc" nhưng thực chất là để hối
lộ cho hai tướng Lư Hán và Tiêu Văn để hai tướng này không giúp cho các lực lượng
cách mạng Việt Nam chống lại Việt Minh. Y còn ma mãnh cung phụng gái tơ và số bạch
phiến lớn cho hai tướng này. Thế là hai tướng này làm ngơ để cho y nắm quyền.
Song song, y gặp cụ Nguyễn Hải Thần, ôm cụ Nguyễn Hải Thần khóc nức nở nói:
"Thực Dân Pháp đã vào Sài Gòn. Cả Nam Bộ lại lọt vàoo tay thực dân Pháp. Vậy
tha thiết mong cụ và các anh em Việt Nam Quốc Dân Đảng hãy vì Tổ Quốc Việt Nam
gánh vác trách nhiệm chung với chúng tôi..."Cụ Nguyễn Hải Thần bùi ngùi,
vì cụ đâu ngờ Hồ Chí Minh gian manh như vậy, thế là cụ triệu tập phiên họp các
lực lượng phe Quốc Gia. Người Quốc Gia, lúc đó vì mong muốn đất nước độc lập,
vì chưa hiểu rõ Cộng Sản, nên hợp tác với Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Riêng cụ Nguyễn Hải Thần, biết rằng Hồ Chí Minh chơi xỏ cụ nhiều cú, nhưng vì
lòng vị tha, cụ bỏ qua hết mong rằng đất nước được độc lập. Sau này, khi đã gạt
được phe người Quốc Gia ra, và cụ Nguyễn Hải Thần đã chạy sang Trung Hoa lánh nạn,
họ Hồ phát động chiến dịch làm hình nộm bôi nhọ cụ Nguyễn Hải Thần là ham mê
hút thuốc phiện, mê gái, mê tiền, ham công danh phú quý làm tay sai cho Trung
Quốc. Y đã không từ một lời nào để thóa mạ cụ Nguyễn Hải Thần. Vô ơn, bạc nghĩa
là bản chất của Hồ Chí Minh là thế.
Thời gian đầu, vì còn yếu, nên Hồ Chí Minh còn tương nhượng với
phe Quốc Gia. Bề ngoài thì Hồ ngon ngọt, bề trong thì Hồ cho đàn em đâm bị thóc
thọc bị gạo làm cho phe Quốc Gia nghi ngờ lẫn nhau. Hồ họp hội nghị với người
Pháp tại Đà Lạt, và Hồ đã khôn khéo gài độ để cho ông Nguyễn Tường Tam, lãnh tụ
của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, phải chịu trách nhiệm vì
những hiệp định nhường bước cho người Pháp. Hồ làm như vậy để làm cho quần
chúng phẫn uất với các lực lượng Quốc Gia. Tháng 3 năm 1946, quân đội Pháp đổ
quân lên Hải Phòng, và một vài đại đội của tướng Jacques Leclerc đã vào Hà Nội.
Hồ đã dùng lực lượng của người Pháp sát hại vô số những người Quốc Gia. Người
Quốc Gia bấy giờ mới biết rõ bộ mặt thật lật lọng của Hồ Chí Minh nhưng đã quá
muộn. Trong khi đó, Hồ ngụy tạo những vụ án đổ oan cho Việt Nam Quốc Dân Đảng
như vụ Ôn Như Hầu để bắt nhốt nhiều đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hồ còn cho
người bắt cóc và thủ tiêu những người lãnh đạo phe Quốc Gia có uy tín như nhà
văn Khái Hưng Trần Khánh Giư, nhà cách mạng Lý Đông A Nguyễn Hữu Thanh, nhà
cách mạng Trương Tử Anh, lãnh tụ Phật Giáo Hòa Hảo ở trong Nam là Đức Giáo Chủ
Huỳnh Phú Số v.v. Những người còn sống sót như cụ Nguyễn Hải Thần, ông Vũ Hồng
Khanh, ông Nghiêm Kế Tổ, v.v., rút về chiến khu Vĩnh Phúc Yên, Yên Báy và sau
đó, một số lưu vong sang Trung Hoa.
Hội Nghị Fontainbleau ở Pháp từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1946
dẫn đưa đến sự nhục nhã cho Hồ Chí Minh. Pháp và phe Việt Minh không đạt được
thỏa thuận. Từ ngày 20 tới ngày 23 tháng 11 năm 1946, hạm đội Pháp nả súng vào
Hải Phòng làm cho hơn 6000 người Việt Nam bị thiệt mạng. Việt Minh nhân cơ hội
này xách động lòng dân chống Pháp. Đó là một sự may mắn cho Việt Minh, và dân
chúng Việt Nam, vì lòng yêu nước, đã hy sinh góp công góp của giúp cho Việt
Minh.
Trong khi đó, năm 1948, ở trong Nam, người Pháp đưa Hoàng Để
Bảo Đại trở lại nắm quyền. Phe Quốc Gia được thành lập trong Nam.
Năm 1949, Mao Trạch Đông đánh bật được quân đội Trung Hoa Quốc
Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch sang Đài Loan. Trung Cộng âm thầm viện trợ nhân sự
và quân nhu cho Việt Minh. Người ta nói rằng cuộc chiến Điện Biên Phủ không phải
do tướng Võ Nguyên Giáp lãnh đạo, mà do các tướng tá của Trung Cộng. Võ Nguyên
Giáp chỉ là bù nhìn.
Năm 1951, Đại Hội II Đảng Lao Động tổ chức ở Hà Nội. Để lấy
lòng người quốc gia, và để dấu không cho quần chúng biết cái đuôi Cộng Sản của
họ, họ Hồ, trên hình thức, ra lệnh giải tán Đảng Cộng Sản.
Từ năm 1952, tại một vài nơi thôn quê hẻo lánh, Hồ Chí Minh
chuẩn y kế hoạch của Trường Chinh phát động chiến dịch Đấu Tố Ruộng Đất. Chiến
Dịch này chấm dứt năm 1956 và đã giết hại khoảng 2 triệu người vô tội, và hàng
chục triệu người mất nhà mất cửa, tang thương đau khổ.
Nhờ sự viện trợ lớn lao của Nga và của Trung Cộng, Việt Minh
từng bước một thắng thế. Từ tháng 5 tới tháng 7 năm 1954, Hội Nghị giữa Pháp và
Việt Minh, dưới sự giảng hòa và sắp xếp của phe Đồng Minh, diễn ra tại Genève nước
Thụy Sĩ. Theo Hiệp Định Genève, Việt Nam chia ra làm 2, từ vĩ tuyến 17 trở về Bắc
trao cho Việt Minh, từ vĩ tuyến 17 trở về Nam trao cho phe Quốc Gia, và dự trù
sẽ tổng tuyển cử hai miền vào năm 1956 để thống nhất. Năm 1954, ông Ngô Đình Diệm
trở về miền Nam Việt Nam làm Thủ Tướng, trở thành đối thủ ghê gớm nhất của Hồ
Chí Minh. Lấy lý do vì chưa đủ thời giờ chuẩn bị, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm không
chấp thuận việc tổng tuyển cử hai miền vào năm 1956.
Tháng 7 năm 1955, Hồ đi „n Độ, Bắc Kinh, và Moscow. Chuyến đi
này Hồ được các chuyên viên thẩm mỹ của Nga giải phẫu để cho họ Hồ có một bộ mặt
phúc hậu xứng đáng với vai trò lãnh tụ của y. Trở về lại Việt Nam, theo chỉ thị
của Moscow, họ Hồ đổi tên Đảng Cộng Sản thành Đảng Lao Động.
Năm 1956, Hồ chuẩn y chiến dịch bắt giam Nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm. Chiến dịch này gây kinh hoàng cả miền Bắc vì hàng trăm ngàn người bị bắt
giam cách oan ức trong nhiều năm trời.
Liên Xô và Trung Cộng bắt đầu có sự xích mích từ khi
Khrushchev lên nắm quyền năm 1953. Khrushchev, vì phải cạnh tranh với các đối
thủ nên đã ra chính sách Sống Chung Hòa Bình để lấy lòng và sự yểm trợ của Hoa
Kỳ và Tây Phương. Mao Trạch Đông đã lên án Khrushchev kịch liệt. Hồ Chí Minh bị
kẹt ở thế chính giữa, một là phải theo Trung Quốc, hai là phải theo Liên Xô. Nhưng,
Hồ đã đánh đu cách tài tình. Hồ không muốn bị lãnh búa tạ bởi bất cứ ai, bởi
Mao hay bởi Khrushchev, nên Hồ đã dùng những nhân vật như Hoàng Văn Hoan thân
Trung Cộng, và Lê Duẫn thân Nga để ra đỡ đòn. Hồ cần sự yểm trợ của cả hai quốc
gia khổng lồ này để có thể tiến chiếm được miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, sự
đánh đu tới một lúc nào đó phải thôi vì cả hai thế lực làm áp lực Hồ phải chọn
một trong hai.
Trước tình hình làm áp lực của hai cường quốc, năm 1960, Đảng
Lao Động tổ chức Đại Hội Kỳ II˜ Khi ấy, vì chính sách Cải Cách Ruộng Đất làm
dân chúng ta thán trăm bề, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động đã đổ tội lên
đầu Trường Chinh, cách chức Tổng Bí Thư của y. Để giúp cho họ Hồ dễ xử sự, Đảng
Lao Động đã chọn Lê Duẫn lên làm Tổng Bí Thư.
Lê Duẫn cấu kết với Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương của Đảng là
Lê Đức Thọ, Bộ Trưởng Nội Vụ Trần Quốc Hoàn, và từ từ Lê Duẫn thao túng quyền
hành trong Đảng. Trong cuốn "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên, ông
cho biết những ai bất mãn với bộ ba này thì đều bị bộ ba này tìm cách sát hại
không nương tay. Chính vì thế mà ngay cả Trường Chinh và Phạm Văn Đồng cũng xép
re không dám hó hé. Hồ Chí Minh, theo ký giả Oliver Todd, lại còn có những khuyết
điểm khác, đó là thích hút thuốc 555 của Anh chớ không thích thuốc Điện Biên của
nội địa. Và, theo Vũ Thư Hiên cho thấy, Hồ còn khuyết điểm thích gái tơ. Lê Đức
Thọ là người cung phụng cho họ Hồ đầy đủ những nhu cầu này, và để đổi lại, Hồ
phải chịu nhường một số quyền lực cho Thọ. Dần dà, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ khống
chế họ Hồ. Quyền lực của họ Hồ tới giữa năm 1966 coi như chỉ là hình thức.
Hoàng Văn Hoan, một cán bộ cao cấp của ĐCSVN, năm 1976, bị
khai trừ khỏi đảng và chạy sang lánh nạn ở bên Trung Quốc, cho biết từ giữa năm
1966 trở đi, không mấy ai được phép gặp họ Hồ nữa. Mọi quyết định đều do Lê Duẫn
và Lê Đức Thọ. Theo Hoàng Văn Hoan, Hồ không đồng ý quyết định tổng tấn công miền
Nam Việt Nam vào Tết Mậu Thân, nhưng Hồ đã yếu thế nên phải chịu khuất phục quyết
định của Lê Duẫn và Lê Đức Thọ.
Những năm cuối đời của Hồ Chí Minh còn rất nhiều bí mật. Ngày
3 tháng 9 năm 1969, đài phát thanh Hà Nội công bố Hồ Chí Minh qua đời vì yếu bệnh.
Nhưng tin hành lang của những đảng viên cao cấp Cộng Sản bàn tán nói rằng Hồ
Chí Minh qua đời vì ở đàng sau ót của y có lỗ hổng, dấu vết của viên đạn. Giây
phút cuối đời của họ Hồ chỉ có sự hiện diện của Lê Duẩn nên người ta cho rằng
chính Lê Duẫn đã hạ sát Hồ Chí Minh. Người ta còn bàn ra tán vào Lê Duẫn đã sửa
di chúc của Hồ Chí Minh, vì theo họ, Hồ Chí Minh muốn sau khi chết, xác y được
đốt thành tro chớ không đem ướp và xây lăng. Hư thực không biết như thế nào, chỉ
biết vào ngày 19 tháng 8 năm 1989, khi đó Lê Duẫn đã chết, thông cáo của Tổng
Bí Thư Nguyễn Văn Linh cho toàn dân biết Hồ Chí Minh chết vào ngày 2 tháng 9
năm 1969 chớ không phải chết vào ngày 3 tháng 9 năm 1969 như đã loan báo trước
kia. Lý do loan tin sai biệt ngày chết của Hồ, theo Nguyễn Văn Linh: "Để
ngày Bác mất không trùng với ngày vui lớn của cả dân tộc." Ngày vui lớn
đây mà Nguyễn Văn Linh muốn ám chỉ tức là Ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 của Nhà Nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Thế thì tại sao năm 1989 lại công bố để cho
niềm vui đó bị hoen ố? Rõ ràng có điều gì bí ẩn sau cái chết của Hồ Chí Minh!!!
Sơ lược tiểu sử Hồ Chí Minh chúng ta đã nhìn ra có quá nhiều
sự gian trá, phi luân và phi dân tộc. Chắc chắn trong những năm tháng tới, khi
thể chế Cộng Sản sụp đổ tại Việt Nam, lịch sử sẽ vén lên nhiều bức màn bí mật về
nhân vật này. Càng vén lên những bức màn bí mật, chúng ta càng cảm thấy hổ thẹn
vì có một con người Việt Nam kỳ cục như vậy. Hồ Chí Minh là một tội đồ của dân
tộc Việt Nam đáng bị khinh miệt và nguyền rủa qua muôn thế hệ. Chẳng lẽ Đảng Cộng
Sản Việt Nam lại muốn cho những thế hệ Việt Nam học lấy tư tưởng phi dân tộc, lừa
thày phản bạn, gây thù oán của Hồ Chí Minh và đem ra áp dụng trong cuộc sống?.
Hoàng Duy Hùng
Posted by giahoithutrang at 22:41
Labels: NGUYỄN THIÊN THỤ * TÀI LIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH
Comments
Post a Comment