TIỂU LUẬN VỀ NGỤY BIỆN VÀ VẤN ĐỀ NGỤY BIỆN
TRONG TRIẾT HỌC ...!!!
LỜI NÓI ĐẦU
Một
xã hội dân chủ là một xã hội có sự đối thoại. Một xã hội muốn dân chủ phải là một
xã hội có sự đối thoại. Một xã hội càng dân chủ thì sự đối thoại càng có vai
trò quan trọng trong xã hội đó. Sự đối thoại này tồn tại ở mọi nơi, mọi góc độ,
mọi phạm vi của xã hội. Sự bao phủ của tính đối thoại trải dài trên mọi chủ đề,
mọi mối quan hệ xã hội – đối thoại từ việc giữa những người dân với nhau đến giữa
những nhà lãnh đạo hay những học giả uyên bác với nhau thậm chí giữa những người
dân bình dân nhất với những người uyên bác nhất. Vì chỉ thông qua đối thoại,
con người mới có thể trình bày và tiếp thu những dòng tư tưởng khác nhau để
cùng nhau loại bỏ sự bảo thủ hay lạc hậu hay tính không phù hợp của tư tưởng
cũng như cùng nhau hoàn thiện tính thời đại, tính thời đại của tư tưởng nào đó.
Sự đối thoại này có thể là một cuộc tranh luận một mất một còn dẫn đến chỉ có một
và chỉ một dòng tư tưởng có thể tồn tại; cũng có thể là một cuộc đối thoại giữa
những dòng tư tưởng để tìm ra điểm chung nhất giữa chúng, thừa nhận sự hợp lí cần
thiết trong mỗi dòng tư tưởng và tư tưởng mới là sự hợp lưu giữa nhiều dòng tư
tưởng với nhau – tức là sự tồn tại mỗi những dòng tư tưởng vẫn còn hiện diện
trong tư tưởng mới. Nó vừa đảm bảo tính phát triển biện chứng của tự nhiên, nó
vừa đảm bảo quyền con người cơ bản của bất kì con người nào trong xã hội.
Việt
Nam ta đang trong quá trình dân chủ hóa thì việc phát triển sự đối thoại này
càng quan trọng rất nhiều trong giai đoạn – thời đại – này. Trong hiện thực, rõ
ràng, Việt Nam ta đang thực hiện tính chất dân chủ hóa rộng khắp. Chưa bao giờ
trong một giai đoạn lịch sử nào trước đây, báo chí nước nhà lại có thể can thiệp
ở nhiều lĩnh vực trong đời sống như giai đoạn hiện nay. Chưa bao giờ trong một
khoảng lịch sử nào, tiếng nói của người dân lại có thể phủ khắp trong các phương tiện thông tin đại chúng như hiện nay.
Một mặt nó thể hiện về sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, một mặt nó
cho thấy sự nỗ lực dân chủ hóa của Việt Nam ta trong việc tiếp nhận và thu nhận
tiếng nói của mọi tầng lớp trong xã hội.
Thế
nhưng, như một tất yếu. Trong sự phát triển của lịch sử đối thoại, không phải
cuộc đối thoại nào cũng có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử mang tính tự
nhiên này. Bên cạnh một cuộc đối thoại lí tưởng – nơi tranh luận hay đối thoại
đảm bảo tính khoa học và logic của các định đề, luận đề, luận điểm – thì vẫn tồn
tại những cuộc đối thoại hay tranh luận phi logic hay phi khoa học mà lịch sử
đã ghi nhận lại như những tư tưởng ngụy biện. Thời cổ đại tây phương, lịch sử từng
biết đến Protagoras hay Gorgias hay Prodicus; thời cổ đại đông phương thì lịch
sử đã chứng kiến sự ngụy biện của Huệ Thi hay Công Tôn Long thời Triệu. Thời hiện
đại ngày nay, khi phương tiện truyền thông đại chúng phát triển, một mặt đã khiến
các cuộc đối thoại mang tính rộng mở và đa chiều hơn, một mặt cũng đã lộ ra những
sự ngụy biện đến từ không chỉ là những người dân bình thường mà đến cả những
nhà nghiên cứu hay những nhà khoa học nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ phận
nghiên cứu của nhà nước.
Đề tài này của tác giả được làm nhằm mục đích
vạch ra được sự ngụy biện ẩn chứa trong các bài chính luận hay phát biểu khoác
áo khoa học, nhưng thực chất, là ngụy biện. Từ đó, để mọi người có thể nhận ra
những phép ngụy biện này để làm cho những cuộc tranh luận mang tính khoa học và
logic hơn, làm cho chất lượng mỗi cuộc đối thoại được nâng cao hơn, và gián tiếp
góp phần cho sự dân chủ hay sự phát triển của nhà nước ngày một vững mạnh hơn.
I. Ngụy biện và vấn đề ngụy biện ở triết
học Việt Nam:
1. Ngụy biện là gì?
Cho đến thời điểm hiện nay, thuật ngữ ngụy biện
vẫn đang được hiểu và sử dụng với nhiều nghĩa và mục đích khác nhau. Trong “ Nhập
môn logic học” của TS. Phạm Đình Nghiệm thì tác giả khái niệm thuật ngữ ngụy biện
là “sự cố ý vi phạm các quy tắc logic trong suy luận nhằm mục đích đánh lạc hướng
người nghe, người đọc, làm cho người khác nhầm tưởng cái sai là đúng, cái đúng
là sai”. Còn trong tiếng Hy Lạp, ngụy biện là “Πλάνη” được hiểu như là một cái
lỗi - ở đây là lỗi trong thao tác tư duy. Còn trong tiếng Việt, Ngụy tức là “giả
dối”, Biện hiểu theo nghĩa “tranh biện”, “ biện giải” tức là quá trình giải
thích, chứng minh – biện luận – cho một vấn đề. Ghép hai từ trên ta hiểu nôm na
ngụy biện tức là sự biện luận giả dối.
Thời Socrates, từ ngụy biện gán cho những nhà
ngụy biện với tính chất khinh bỉ những người dạy học lấy tiền chứ không nhằm
khai minh như Socrates hay Platon, và vì thế, thay vì tập trung con người vào
lí giải khoa học vào thế giới, các nhà ngụy biện Hy Lạp cổ ( Sophist) lại dạy
cho các môn đệ sự dối trá, quanh co, và những mẹo vặt trong hùng biện để giành
phần thắng về phía mình.
Tổng kết các khái niệm nhiều tác giả đã đề cập,
tác giả thống nhất sử dụng thuật ngữ ngụy biện là sự phi logic trong lí luận
hay suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn trong trường
hợp này, là những qui ước quản lí tính nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là
logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học đầu tiên có
công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông
phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy biện. Kể
từ Aristotle, cũng đã có khá nhiều nhà triết học và logic học như John Locke,
John Stuart Mill, Jeremy Bentham, hay S. Morris Engel cũng có nhiều cống hiến
quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.
Như vậy, ngụy biện luôn là một vấn đề của
logic học, đó là vấn đề loại bỏ những suy luận hay diễn giải phi logic nhằm hướng
sự minh triết, sự chân thực trong tư duy.
2. Những hình thức hay những phương pháp ngụy
biện:
Xét những yếu tố ảnh hưởng đến tính logic hay
độ chân thật của một bài luận chúng ta có yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong.
Yếu tố bên ngoài là sự ảnh hưởng từ người nghe, người theo dõi, gọi chung là
đám đông. Yếu tố bên trong trước hết là chủ thể và khách thể của một bài luận
hay suy luận triết học Chủ thể chính là người sở hữu sự suy luận, ở đây hiểu
theo nghĩa hẹp là người tham gia cuộc tranh luận. Khách thể của cuộc tranh luận
hay suy luận triết học là cấu trúc nó Cấu trúc của một bài luận bao gồm: luận cứ,
luận điểm, luận đề và luận chứng. Luận cứ là các chứng cứ mà người diễn giải
dùng để chứng minh luận điểm của mình đưa ra.
Luận
điểm là những ý chính là mà người diễn giải dùng để làm rõ những điểm mà luận đề
yêu cầu. Luận đề hiểu theo nghĩa chung nhất là đề bài hay đề tài tranh luận,
hay là những câu hỏi mang tính suy tư triết học cần sự giải thích hay chứng
minh. Luận chứng là quá trình làm rõ luận đề đã được đưa ra, tức là nói khái
quát nhất: Luận chứng là quá trình dùng luận cứ chân thực để chứng minh tính
chân thực những luận điểm nhằm giải thích, làm rõ luận đề. Như vậy, tính phi
logic có thể can thiệp vào những yếu tố bên ngoài của việc luận chứng, vào các
yếu tố luận cứ, luận điểm, luận đề và cả sự luận chứng để làm sai lệch tính
chân thực đang cần đạt tới.
2.1. Sự ngụy biện từ yếu tố bên ngoài:
2.1.1. Lợi dung sự đồng tình của đám
đông:
Kiểu
ngụy biện này sử dụng sự ủng hộ của đám đông làm chân lý cho cuộc tranh luận.
Ví dụ: A cho rằng uống cà phê sẽ giúp cho việc sáng tạo, B thì không. A chứng
minh bằng việc nhiều người đã đồng ý rằng ( kể cả nhà sản xuất cũng đồng ý rằng)
cà phê giúp cho việc sáng tạo nên điều này đúng. Đây là sự ngụy biện vì thay vì
chứng minh bằng cách chỉ ra các yếu tố khoa học rằng các chất trong cà phê giúp
cho não thăng hoa sáng tạo thì A đã dùng đám đông làm luận cứ để chứng minh cho
điều mình nói.
2.1.2. Lợi dụng cảm tính đám đông:
Tương tự sự lợi dụng về sự đồng tình của đám
đông, phương pháp ngụy biện này sử dùng lòng trắc ẩn hay cảm tính của con người
để đánh tráo tính logic của chân lý. Sở dĩ xếp nó vào nhóm đám đông vì lòng trắc
ẩn hay sự cảm tính mang tính cộng hưởng từ dân tộc tức từ số đông là nhiều. Ví
dụ: A phạm tội giết người. B là luật sư của A, thay vì chứng minh A không thể
giết người thì B lại dùng lí lẽ: “ A mắc bệnh tim bẩm sinh, nếu tòa tuyên phạt
A có tội, A sẽ dễ xúc động và rất nguy hiểm. Xin tòa đừng để một người nào chết
thêm nữa”
2.1.3. Lợi dụng quyền lực:
Loại ngụy biện này dựa trên một quyền lực nhất
định tác động lên buổi đối thoại. Nó có thể đến từ một nhóm người ( số đông) có
thể đến từ một người ( nhưng một người này là đại diện cho một nhóm người nắm
giữ quyền lực).
Ví
dụ: Khi lớp học đang tranh luận về vấn đề bài học, một sinh viên nói rằng: “ Những
gì các bạn đang bàn đi ngược lại chính sách của nhà nước, điều đó là sai trái,
các bạn có thể bị tù đấy.” Trong ví dụ này, người sinh viên đã lợi dụng quyền lực
nhà nước tác động đến mục đích đúng sai khoa học của buổi tranh luận.
Cũng trong nghĩa quyền lực này, ta có khái niệm
nhỏ về tính quyền lực của truyền thống ( hiểu rộng thì truyền thống là thói
quen). Ví dụ: Công ty rượu Hà Nội quảng cáo: Chúng ta khi uống rượu hãy uống rượu
Hà Nội vì rượu của chúng tôi sản xuất theo công nghệ truyền thống. Người Việt
thì phải lưu giữ truyền thống Việt, vì vậy hãy uống rượu của chúng tôi để gìn
giữ truyền thống Việt.
2.2. Sự ngụy biện từ yếu tố bên trong:
2.2.1. Yếu tố chủ thể của tranh luận:
2.2.1.1. Sự ngụy biện bằng việc công
kích cá nhân:
Lối
ngụy biện này sử dụng việc chỉ trích tư cách cá nhân người tranh biện thay vì
chỉ trích các luận điểm hay luận cứ hay phương pháp luận chứng của người tranh
biện. Ngụy biện này thường được sử dụng và cũng có nhiều nhầm lẫn trong tranh
luận hằng ngày.
Ví
dụ: A và B đang tranh luận triết học. A là sinh viên triết học còn B thì không.
A nói rằng: “ Vì anh không học triết học nên những gì anh nói không có giá trị.”
Trong trường hợp này, A đã ngụy biện vì chuyện học triết không ảnh hưởng đến
giá trị chân lý của tranh cãi triết học. Vì tính đặc thù của triết học chủ yếu
là sự quan sát và chiêm nghiệm chứ không phải được đào tạo bài bản hay không.
Nhưng sư dễ nhầm lẫn trong việc ngụy biện bằng
việc công kích cá nhân rất dễ diễn ra. Ví dụ: A và B đang bàn về vấn đề kinh tế
vĩ mô. A là sinh viên kinh tế, B là sinh viên nông nghiệp. A nói: “ B không học
về kinh tế thì không có kiến thức kinh tế để bàn luận đúng sai.”, thì trường hợp
này không là ngụy biện, vì tính đặc thù của kinh tế là phải học mới biết được cụ
thể kiến thức của mình đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp.
Trong
kho tàng văn học dân gian Việt, cũng đã có thành ngữ: “ Danh chính ngôn thuận”
cũng nhằm vào lí giải vấn đề trên. Nói tổng quát lại, chỉ trích cá nhân là ngụy
biện khi tư cách cá nhân lúc bị chỉ trích ấy không dính tới giá trị chân lý của
luận điểm của người bị chỉ trích.
2.2.1.2. Sự ngụy biện dựa trên uy tín cá
nhân:
Lối
ngụy biện này là biểu hiện tả khuynh của việc “ danh chính ngôn thuận”, phép ngụy
biện này có nghĩa là khi tham gia biện luận, người biện luận dùng vị thế cá
nhân của mình để đảm bảo tính chân lí của luận điểm chứ không phải tính logic của
luận điểm
Ví
dụ: A và B tham gia tranh cãi về một vấn đề. A là Tiến Sĩ, B là nghiên cứu
sinh. Thay vì trong lí luận để chứng minh mình đúng thì A lại dùng học vị của
mình để nói lí luận mình đúng so với B. Giữa vấn đề học vị và vấn đề chân
lí của luận điểm không có điểm gắn kết
logic nên A đang dùng uy tín cá nhân của bản thân để ngụy biện.
2.2.1.3. Sự ngụy biện dựa trên tác phong
chủ thể:
Loại
ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối
tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy
biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi
trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh
bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn
đề đang bàn thảo.
2.2.1.4. Sự ngụy biện “anh cũng vậy”.
Đây
là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động
có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một
người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
2.2.1.5. Sự ngụy biện khả năng chủ thể:
Sự
ngụy biện này khá phức tạp về hình thức, nó được sử dụng trong việc người bị
phê phán bảo vệ cho khả năng của mình. Chẳng hạn như, A chỉ trích B làm việc
kém hiệu quả, B phản ứng bằng việc: “ Anh có làm được như tôi mà chỉ trích
tôi.”
Về
phương diện thực tiễn, đúng là A không trong hoàn cảnh và vị trí của B cũng chẳng
có khả năng giống B thì không thể lường hết những khó khăn mà B gặp phải nên
phê phán là việc phiến diện, thiếu logic.
Thế
nhưng về khía cạnh logic, việc làm hay không làm và sự nhận thức vấn đề không
nhiều cơ sở để thiết lập mối quan hệ với nhau, nên có thể xem đây là 1 loại ngụy
biện để bảo vệ cá nhân.
Nếu
muốn bảo vệ cá nhân dưới góc độ logic thì B phải chứng minh cho A thấy kết quả
B đạt được là tối ưu hay chí ít cũng hết khả năng B chứ không phải chỉ trích
ngược lại A rằng A không thể làm hơn nên không có quyền chỉ trích.
2.2.2. Ngụy biện yếu tố khách thể trong tranh
luận:
Luận
cứ là một phần không thể thiếu trong quá trình luận chứng luận điểm, nó đảm bảo
tính chính xác của luận điểm, tính khoa học của luận điểm. Nói cách khác là đó
là những chứng cứ minh chứng cho luận điểm, luận đề cần luận chứng
Thế
nhưng trong văn phong thông thường rất khó tách rời giữa luận cứ, luận điểm và
luận chứng. Vì luận chứng quá trình chứng minh, luận điểm là nội dung chứng
minh còn luận cứ là những bằng chứng minh nhằm chứng minh luận điểm. Diễn giải
ra tức là, luận điểm là nội dung cần chứng minh, luận cứ là tiền đề xây dựng nội
dung ấy vì nó mang tính xác thực cho nội ấy, còn luận chứng xuất hiện với vai
trò là phương pháp xây dựng tiền đề ấy.
Chính
vì sự gắn kết khó tách rời ấy nên tác giả sẽ trình bày nội dung ngụy biện của
ba yêu tố trong một đề mục để không tách rời chúng và cho thấy mối liên hệ với
nhau giữa chúng.
2.2.2.1. Ngụy biện nặc danh luận cứ:
Trong
luận cứ cũng cần một sự vững vàng về độ chân lý, tức là bản thân luận cứ cũng cần
chứng minh là đúng. Điều này dẫn đến dẫn cứ một luận cứ là phải đi kèm với điều
xác thực cho luận cứ ấy. Một trong những điều xác thực ấy là người làm chứng.
Thế nhưng trong một số trường hợp, vì các lí do bảo mật hay các lí do khác, mà
danh tính người đảm bảo điều xác thực này cần giữ bì mật. Điều này một mặt giữ
bí mật cho người làm chứng, một mặt làm nảy sinh một vấn đề ngụy biện là lạm dụng
và sử dụng sai mục đích.
Ví
dụ: A luận tội B một lí do nào đó đã dẫn chứng: “ Một người đã nói anh có tội,
họ đã làm chứng vì nhưng vì lí do bảo mật chúng tôi không thể tiết lộ danh
tính”
2.2.2.2. Ngụy biện lạm dụng thống kê:
Kiểu
ngụy biện này dùng qui luận thiên nhiên làm luận cứ cho quan điểm của bản thân.
Ví dụ A giải thích về sự cần thiết của sự bất công trong xã hội như sau: “
Trong tự nhiên, sự vật luôn luôn tuân theo qui luật mạnh được yếu thua, cá lớn
nuốt cá bé. Kẻ bất tài thì phải bị trị bởi người có tài. Cho nên một xã hội cần
phải có những người giỏi cai trị những kẻ ngu dốt thì xã hội mới trật tự”
Ngụy
biện kiểu này là đồng nhất giới tự nhiên và xã hội, đồng nhất qui luật tự nhiên
và qui luật xã hội trong khi xã hội và tự nhiên là hai hệ thống khác nhau, khác
về cấu trúc lẫn cơ chế vận hành. Vì thế, không thể đánh đồng chúng như nhau. Dẫu
rằng xã hội vẫn là một phần của tự nhiên nhưng việc lạm dụng qui luật thiên
nhiên làm luận cứ, cũng tức là đánh mất sự vận động và sự độc lập tương đối giữa
xã hội và giới tự nhiên.
2.2.2.4. Lạm dụng điển tích làm luận cứ:
Dẫn
chứng điển tích là thói quen trong tranh luận của người phương Đông nói chung,
và người Việt nói riêng. Trong ngôn ngữ khoa học thì việc dẫn chứng điển tích
là phương pháp logic lịch sử, đây là công cụ đắc lực để lí luận vì lịch sử đóng
vai trò tiền đề cho hiện tại. Thế nhưng việc lạm dụng nó sẽ khiến luận cứ trở
thành ngụy biện. Vì tính lịch sử cụ thể bao trùm lại yếu tố lịch sử này. Nói
cách khác, không phải mọi yếu tố lịch sử nào có thể lặp lại tại hiện thực, cũng
như không phải giá trị lịch sử nào có thể áp dụng cho hiện thực.
Điều này yêu cầu trong việc luận chứng khi sử
dụng điển tích cần xem xét kĩ lưỡng để tránh rơi vào ngụy biện. Điều này vô
cùng không đơn giản.
2.2.2.5. Ngụy biện dùng luận cứ chưa được
chứng minh:
Cuối cùng trong nhóm ngụy biện luận cứ là hình
thức ngụy biện khá phức tạp và nhiều cách áp dụng nhất.
Cách đơn giản nhất trong sự ngụy biện này là
viện dẫn một luận cứ chưa chắc chắn về tính chân lý, tức là đánh tráo một giả
thuyết khoa học thành một kết luận khoa học để làm luận cứ. Ví dụ: “ Vũ trụ rất
mênh mông và chưa được khám phá, nên chắc chắn ngoài vũ trụ kia có sự sống
ngoài con người.” Ở đây, người lí luận đã ngụy biện vì vũ trụ đã mênh mông và
chưa được khám phá nên không có việc “chắc chắn” có sự sống, đáng lí ra để lập
luận khoa học, người lí luận phải thay từ chắc chắn thành một từ khác như “ có
thể”, “ giả thuyết cần xem xét”, tức là việc khẳng định một sự việc từ một tiền
đề chưa xác thực là một sai lầm trong logic.
Một hệ quả từ hình thức trên – từ tiền đề
không chắc chắn dẫn đến chắc chắn kết luận là sai lầm – là việc từ tiền đề
không chắc chắn đến phủ nhận kết luận cũng là một sai lầm không kém. Như vậy,
việc từ một tiền đề không chắc chắn, chúng ta không thể đưa ra một kết luận dù
sai hay đúng mà vẫn chỉ đưa ra một giả thiết và phải khẳng định nó là một giải
thiết chứ không phải là chân lí đã chứng minh.
Một
hình thức phức tạp hơn của phương pháp này là sự kết hợp của nó vào niềm tin.
Nó xuất phát từ việc không thể kiểm định luận cứ, niềm tin và nỗi sợ của con
người. Ví dụ: Truyền thuyết thời Trung cổ kể rằng, vào ngày thứ Sáu tốt (Good
Friday) của mỗi năm, khi giáo đoàn cúi đầu để cầu nguyện, người ta nói rằng bức
tượng trên bàn thờ của nhà thờ sẽ quì xuống và rơi lệ. Nhưng nếu thậm chí một
người nào đó từ những người cầu nguyện nhìn lên để nhìn những giọt nước mắt thì
điều kỳ diệu sẽ không xảy ra nữa. Bức tượng chỉ khóc khi tất cả các thành viên
giáo đoàn thể hiện một niềm tin tuyệt đối. Như vậy nếu mọi người đều cuối đầu cầu
nguyện, thì không ai sẽ thấy bức tượng khóc. Nếu có 1 người ngó lên xem bức tượng,
thì không phải mọi người đều cầu nguyện, và vì thế bức tượng sẽ không khóc. Như
thế không thể chứng minh được bức tượng có quì và khóc hay không mà chỉ dùng niềm
tin để khẳng định nó là thật.
2.2.2.6. Ngụy biện cá trích:
Loại ngụy biện này được dùng với hình ảnh
xương cá trích ( sự đâm tua tủa không trật tự của xương cá trích) nhằm nói lên
phương pháp ngụy biện bằng cách làm rối luận điểm bởi việc đưa nhiều luận điểm
không liên quan đến luận điểm đang cần làm rõ ở luận đề.
Phương pháp này được sử dụng khá nhiều trong
tranh luận của người Việt ( lí do sẽ giải trình sau) và kết quả là kéo dài cuộc
tranh luận và luận đề tranh luận bị biến dạng khỏi luận đề ban đầu. Kết quả cuối
cùng thu nhận được là không ra kết quả của luận đề ban đầu, nên đây là một phép
ngụy biện nguy hiểm.
Ví
dụ: Luận đề đưa ra là “ Việc sống thử trước hôn nhân có để lại hậu quả cho xã hội
không?” A bảo rằng nếu có biện pháp tránh thai hiệu quả thì chẳng để lại hậu quả
gì cho xã hội, mặt khác làm cho người tham sống thử nhận thức được đâu là nhu cầu
thực sự của mình cho một gia đình tương lai. B phản biện cho rằng: “ Đó là vi
phạm đạo đức truyền thống, và không phải ai cũng biết biện pháp tránh thai hiệu
quả”.
Ở ví dụ trên, B đã ngụy biện cá trích bằng việc
đưa “ đạo đức truyền thống” vào trong khi đang bàn về “ có để lại hậu quả hay
không”, còn việc “không phải ai cũng biết tránh thai hiệu quả” chẳng qua là lời
lập lại của A đã nói trong khi đang ở vai trò phản biện A. Nếu dùng luận điểm bổ
sung thì B cần phải nói “ Nhưng không phải ai cũng biết được tránh thai an toàn
và nhận thức đúng, cho nên cần phải đưa giáo dục can thiệp vào vấn đề này”, thì
đó mới hợp logic. Còn việc đưa ra “không phải ai cũng biết tránh thai hiệu quả”
không phải là luận điểm bác bỏ.
2.2.2.7. Ngụy biện chẻ đôi giá trị:
Lối ngụy biện này sử dụng việc chẻ đôi giá trị
như: “ đúng – sai”, “ có – không có”, “bạn hay thù” để làm kết luận cho tiền đề
và che đi những giá trị khác có trong luận điểm.
Ví dụ: A bảo B “ Anh nói anh không tin vào
chúa vậy anh là kẻ phản chúa”. Trong ví dụ này, A đã qui kết B vào hai giá trị
“ có Chúa” và “ phản Chúa” trong khi tồn tại nhiều giá trị khác xung quanh hai
giá trị này.
2.2.2.8. Ngụy biện do dùng phép tương tự
sai:
Loại sai lầm này bắt nguồn từ luận điểm: “ Có
A thì có B, nên có B thì phải có A”. Điều này hoàn toàn vi phạm logic, đặc biệt
là logic hình thức. Trong logic hình thức, mệnh đề “ A kéo theo B” tương đương
với “ không B kéo theo không A” chứ không có “ có B kéo theo A”.
Trong
thực tế, ngụy biện hướng này cũng rất thường được sử dụng.do sai lầm logic
trong suy luận. Ví dụ: “ Các nước có IQ cao đều xây có đường sắt cao tốc, nên
nước nào có đường sắt cao tốc thì nước đó IQ cao. Nước ta cũng phải xây đường sắt
cao tốc để có IQ cao”.
Cũng trong nhóm ngụy biện này, chúng ta có dạng
kết luận “ Có A có B, không có A thì không có B”. Điều này hoàn toàn sai vì B
có thể được sinh ra từ nhiều vấn đề, việc không có A mà không có B thì không có
cơ sở để kết luận trừ khi “ Có B khi và chỉ khi có A” thì phủ định như vậy là
chính xác. Ví dụ: “ Tôi quét nhà thì nhà sách, tôi không quét nhà thì nhà không
sạch.” Điều này chỉ đúng khi nhà chỉ có mình tôi quét, trong khi còn rất nhiều
điều kiện có thể diễn ra song song với điều kiện đó, loại ngụy biện này thường
đi kèm với loại ngụy biện lược bỏ mệnh đề.
2.2.2.9. Ngụy biện lợi dụng tính phong
phú từ ngữ Việt:
Từ ngữ Việt vốn phong phú về nghĩa cũng như từ
đồng âm. Loại ngụy biện này là lợi dụng những yếu tố đấy trong ngôn ngữ Việt.
Hình thức ngụy biện này rất dễ nhận ra, nhưng lại khó bác bỏ vì cách hiểu khái
niệm từ phần lớn chưa được thống nhất khi bắt đầu tranh luận hay trình bày luận
điểm.
Ví dụ: Một cô gái lần đầu tiên đi tắm hồ bơi.
Ông chủ hồ bơi hỏi cô ta: - Cô muốn mướn đồ tắm hả? - Dạ - Cô muốn mướn đồ hai
mảnh hay một mảnh? Cô ta mắc cở nói: - Ơ, mặt đồ hai mảnh kì chết, tôi mướn đồ
một mảnh thôi. Ông chủ ranh mãnh hỏi: - Cô muốn mảnh trên hay mảnh dưới? Cô gái
đỏ mặt chẳng biết trả lời sao.
2.2.2.10. Ngụy biện sử dụng mệnh đề rời
rạc:
Loại ngụy biện này sử dụng phương pháp sử dụng
các mệnh đề không liên quan đến nhau để làm luận điểm phát biểu. Vì tính không
rời rạc nên nó vừa phi logic vừa khiến người phản biện không có cơ sở phản biện
thành ra mặc nhiên sự phi logic này đúng theo lối giả tạo.
Lối ngụy biện mệnh đề rời rạc này có dạng biểu
hiện bằng những sự liên kết phi logic giữa các mệnh đề. Ví dụ: “Người Ai Cập đã
từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất
thạo về cổ sinh vật học”.
2.2.2.11. Ngụy biện nguyên nhân sai (
post hoc)
Lối ngụy biện này phát triển từ loại ngụy biện
mệnh đề rời rạc. Chính vì sự rời rạc của mệnh đề mà khi thiết lập mối liên hệ
giữa các mệnh đề ấy thành nguyên nhân – kết quả sẽ dẫn đến ngụy biện nguyên
nhân sai. Biến thể của “post hoc” này tồn tại nhiều dạng như: ảnh hưởng liên đới,
nguyên nhân phức tạp, Nguyên nhân sai (Non causa pro causa).
Ví dụ: “ Khi tôi tham gia 1 cuộc đua, mẹ tôi
đưa tôi sợi dây chuyền may mắn và tôi đã chiến thắng. Chính sợi dây chuyền đã
giúp tôi chiến thắng”
2.2.2.12. Ngụy biện dựa vào cái mới:
Thông thường, một cái mới được sinh ra nhằm khắc
phục các nhược điểm của cái cũ. Vì thế, cái mới được xem là tiến bộ hơn cái cũ.
Chính vì điều này, người ngụy biện tận dụng nó để làm tuyệt đối hóa vai trò cái
mới, làm mất đi vai trò của logic trong lập luận. Vì về tính tiến bộ không nằm ở
cái danh mới và cũ mà nằm ở việc bản thể cái mới có tiến bộ hơn cái cũ hay
không.
Ví dụ: “ Windown ME phải tốt hơn Windows 98 vì
Windows ME ra đời sau Windows 98”. Kết luận này là sai vì muốn chứng minh tốt
hơn người lí luận phải đưa ra các bằng chứng minh Windows ME khắc phục được những
nhược điểm Windows 98 chứ không phải vì ra đời sau mà nó tốt hơn.
2.2.2.13. Ngụy biện bằng luận điệu ngược
ngạo:
Ngụy biện này dựa trên lối ứng xử thường nhật
mang tính phi logic của con người. Các hình thức cụ thể của nó như: “ Kẻ nói lớn
tiếng là người thắng”, “ Nói cướp lời người khác không cho người khác nói là thắng”,
hay “ giao việc chứng minh cho người khác”. Tức là trong quá trình luận chứng,
người lí luận dùng những yếu tố phi logic để đàn áp người phản biện.
Ví dụ: A bảo “ Sau sự sống là một thế giới của
linh hồn”, B bảo: “ Không có thế giới linh hồn”. A bảo B hãy chứng minh đi. Ở
đây đáng lẽ ra A phải chứng minh luận điểm của mình nhưng lại không thực hiện
mà bắt B chứng minh. Trong trường hợp B bảo A phải chứng minh thì từ một cuộc
tranh luận khoa học biến thành một cuộc cãi nhau mà trong đấy việc ép người
khác phải chứng minh điều mình nói là trọng tâm buổi tranh luận.
Hay trong những cuộc tranh luận, một người chỉ
cần lớn tiếng và át lời người khác, không cho người khác nói nghiễm nhiên được
công nhận là người thắng. Đấy là được xem là lối ngụy biện ngược ngạo cả về
logic và cả về lối sống. Và trong đời sống hằng ngày, lối ngụy biện này thường
được sử dụng rộng rãi và phổ biến.
2.2.2.14. Lí lẽ quanh co:
Một dạng biến tướng khác của việc ngược ngạo
nhưng ít mang tính bạo lực hơn là việc diễn giải dài dòng không đi vào vấn đề
chính của cuộc tranh luận, nhằm đưa người phản biện đi vào mê cung của chữ
nghĩa và luận điểm.
Một dạng biến tướng khác của lí lẽ quanh co
này là việc cứ lặp đi lặp lại một vấn đề nhằm ám thị cho người nghe nhầm tưởng
điều đang nói là 1 chân lí, mặt khác viện dẫn những luận cứ mà người nghe không
có điều kiện tra cứu độ xác thực khiến họ tin tưởng vào những điều đang nói
cũng là dạng quanh co trong lập luận này.
Loại ngụy biện này dễ thấy ở các buổi hội thảo
nơi mà những người hội thảo luôn muốn hướng thính giả vào mục đích mình đang muốn
nhấn mạnh. Loại ngụy biện này thường đi kém với loại ngụy biện dựa vào uy tín
cá nhân để tăng độ thuyết phục của luận điểm.
2.2.2.15. Ngụy biện do qui nạp sai:
Loại ngụy biện này được vi phạm đa phần là do
vô ý của người sử dụng, bởi lỗ hổng của phép quy nạp thông thường. Lỗ hổng này
được phát hiện đầu tiên có lẽ bởi David Hume về trường hợp “ Black Swarn” của
ông. Nhưng dù có là phát hiện của ai thì qui nạp truyền thống sử dụng kinh nghiệm
trực quan làm tiền đề nhưng kinh nghiệm trực quan này lại không đảm bảo tính
chính xác nên kết luận bao giờ cũng bấp bênh trong cán cân chân lý.
Loại ngụy biện này thường được dùng với tên gọi
“ khái quát hóa vội vã, khái quát hóa không đúng chỗ,…” nhưng tác giả thống nhất
xếp chung những loại ấy vào dạng qui nạp sai để có tính khái quát cao nhất về
loại ngụy biện này.
2.2.2.16. Ngụy biện do ám thị:
Ngụy biện ám thị được hiểu là loại ngụy biện
mà người tranh luận suy diễn vô căn cứ luận điểm của đối phương rồi phê phán
chính sự suy diễn ấy. Trong một số tác phẩm loại ngụy biện này mang tên: “ Nhét
chữ vào miệng người khác hay ngụy biện rơm” thì đều là dạng này.
Ví dụ: A và B đang tranh luận về việc sống thử
trước hôn nhân, A ủng hộ còn B phản đối. B chỉ trích A bằng luận điểm: “ Sở dĩ
anh ủng hộ vì nó mang lại lợi ích cho anh và nó giúp anh có thể sống thử với ai
đó anh thích”. Như vậy B đã mang lại cuộc tranh luận một luận điểm không liên
quan gì luận đề đang được bàn cãi và nhằm mục đích công kích A.
2.2.2.17. Loại ngụy biện từ ngữ:
Loại ngụy biện này thường được sử dụng rất nhiều
trong cách hành văn của người Việt. Nó có thể được xem là loại ngụy biện lạm dụng
từ ngữ hay đánh vào sự không biết của người nghe.
Loại ngụy biện này thường thêm vào câu văn những
từ như: “ Nói chung”, “ Dưới góc độ nào đó” hay “ theo cách hiểu nào đó”, hay “
trong tính tương đối nào đó”. Những từ ngữ này chúng ta thường dùng như lời chốt
một ý cuối cùng cho luận điểm thế nhưng để cụ thể một cách tiếp cận, người
trình bày cần làm rõ “ cái gì đó” hay “ cái nào đó” thành một cái cụ thể - cái
hướng tiếp cận vấn đề - mà người trình bày đang nói đến. Còn sử dụng nó một
cách vô cớ sẽ dẫn đến sự ngụy biện.
Ví dụ: bàn về kẹt xe trong thành phố có ý kiến
cho rằng: “ Theo một cách hiểu nào đó, việc kẹt xe cũng giúp con người có thời
gian tĩnh tâm lại sau những thời gian chạy đua cùng cuộc đời, nên xét dưới góc
độ nào đó, nó cũng có lợi cho con người”.
II. Vài biểu hiện của ngụy biện trong đời
sống:
Chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên hiện đại
với sự phát triển của mạng thông tin vũ bảo. Báo chí nhờ đó mà cũng phát triển
rất mạnh so với trước. Những trang báo giấy tuy vẫn còn tồn tại nhưng sự phát
triển của báo mạng cũng rất vũ bão. Nhờ báo mạng, dường như nhà nhà ai cũng có
thể làm báo, lượng báo từ các cộng tác viên đến bạn đọc thông thường hay các
nhà báo chuyên lẫn không chuyên đều rất lớn. Cũng nhờ đó, con người càng biết đến
sự ngụy biện lẫn nhau nhiều hơn, mà đôi khi sự ngụy biện ấy lại ít lộ diện như
sự ngụy biện mà lại dưới lớp vỏ logic và khoa học, vô tình chung tạo nên những
thói quen tư duy không lành mạnh ở người Việt.
Một lối ngụy biện khá phổ biến trong cộng đồng
báo mạng đó là lợi dung sự nặc danh của đối tượng đề cập để viết những bài hàm
hồ, thiếu căn cứ và mang yếu tố “ giật gân”, dễ dãi là chính. Minh chứng cho điều
đấy là những bài dạng tin nhanh, hay tâm sự ở các báo như Vietnamet, VNExpress,
mà đề cử là bài: “Thám tử phát hiện nhóm teen 'yêu' tập thể” 3 đề cập chuyện
nhóm học sinh lớp 9 thuê nhà nghỉ để quan hệ tình dục. Trong bài báo, nhân vật
được đề cập cũng như các tình tiết diễn ra gợi cho người xem – những ai có đầu
óc hoài nghi – một câu hỏi về độ chân thực của bài báo. Những tình tiết vô lí
diễn ra, những luận cứ không căn cứ phải chăng là sự non nớt trong tưởng tượng
của tác giả? Dường như sự nặc danh hay yếu tố bảo mật danh tính đã bị lợi dụng
trong việc những bài báo mang tính chất giật gân, câu khách như thế này. Vô tình
chung tạo ra thói quen tư duy dễ dãi ở một bộ phận nhà báo cũng như người đọc.
Thiết nghĩ, những vấn đề này cần được siết mạnh, làm chặt tay ở bộ phận ban
biên tập để những bài báo phản ánh xã hội có chất lượng hơn.
Thời gian gần đây, các phương tiên thông tin đại
chúng đang nóng lên về vấn đề bộ ảnh nude “ vì môi trường” của người mẫu Ngọc
Quyên. Dĩ nhiên rằng, tính nghệ thuật hay không của bộ ảnh nude đang cần phải
thẩm định thêm, cũng như ý nghĩa môi trường sẽ được tạo ra tới đâu từ tập ảnh
cũng cần thời gian xem xét, nhưng dù thế nào, người mẫu Ngọc Quyên cũng đã tạo
dấu ấn riêng trong sự nghiệp yên bình của mình qua tập ảnh này và cũng nhờ vấn
đề này, tác giả phát hiện ra những phép ngụy biện từ nhiều phía trong vụ việc
trên.
Trong
bài báo có tiêu đề: “Ngọc Quyên: Mẹ và bạn trai chấp nhận ảnh nude của tôi” 4
trên báo điện tử VNExpress ngày 23/3/2011 của nhà báo Ngọc Trâm có đoạn: “Trước
khi công bố rộng rãi, tôi đưa bộ hình cho mẹ xem. Ban đầu, mẹ tôi không đồng ý
vì không thể chịu nổi việc con gái mình trút bỏ quần áo để lên báo chí. Tôi đã
phải thuyết phục mẹ rất nhiều. Lần cuối cùng tôi nói với bà: “Mẹ phải tin tưởng
con, mẹ không ủng hộ con thì chẳng ai ủng hộ con nữa. Con không đủ mạnh mẽ để
chống lại những thứ đổ ập lên con nếu không có mẹ làm chỗ dựa”. Cuối cùng bà
đành chấp nhận.” . Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng người mẫu Ngọc Quyên đã
dùng sự trắc ẩn và tình thương con của người mẹ để kêu gọi sự ủng hộ cũng như sự
cho phép của người mẹ để có thể đưa những bức ảnh này ra công chúng. Về mặt
logic, đáng lẽ ra, Ngọc Quyên phải thuyết phục mẹ dựa trên tính thẩm mỹ và tính
giá trị của bộ ảnh của mình. Thế nhưng thay vì đó, Quyên lại thuyết phục mẹ dựa
trên sự cảm tính để rồi tuyên bố rằng “ mẹ tôi đã ủng hộ tôi” là phép ngụy biện
của Quyên trong vấn đề này. Cũng trong bài báo, khi được hỏi: “Bộ ảnh được đánh
giá là khá đơn điệu, sơ sài về ý tưởng chứ chưa đạt đến trình độ nude nghệ thuật.
Dường như chị chưa thực sự đầu tư cho nó?” Ngọc Quyên trả lời rằng: “Tôi chỉ có
khuôn mặt và cơ thể để đóng góp cho những khuôn hình. Tôi tụt đồ để cuốn hút sự
chú ý đến thông điệp mình đưa ra, chứ không phải nude một cách tục tĩu. Một bộ ảnh
nude hướng về thiên nhiên, tất cả cần đơn giản. Nếu cầu kỳ, nó là bộ hình nude
nghệ thuật với trung tâm bức ảnh là nhân vật chứ không phải khung cảnh xung
quanh nó. Tôi tạo dáng bên cây cối, con suối trong tư thế thoải mái nhất. Khi
đó, tôi cảm giác mình là một cái cây đang vươn lên. Trái đất khi không có cây
cũng giống như con người khi không mặc quần áo - không còn gì bảo vệ, những tác
động từ bên ngoài sẽ không còn gì ngăn cản. Tôi mong người xem hãy nhìn khung cảnh
sau tôi chứ không phải nhìn một Ngọc Quyên đang nude.” Trong câu trả lời này,
Ngọc Quyên cũng đã sử dụng nhiều phép ngụy biện. Thứ nhất là việc qui đồng vấn
đề “ cầu kỳ trong xử lý” sẽ dẫn đến “ trung tâm bức ảnh là nhân vật”, hai vấn đề
không có mối liên kết hay quan hệ với nhau. Việc xử lý nghệ thuật một bức ảnh
là yếu tố kĩ thuật trong việc nâng đối tượng cần tập trung trong ảnh ở đây là cảnh
và vật, Quyên đã che mất mệnh đề vật để hướng người nghe vào việc “ cứ cầu kỳ
kĩ thuật” là “ nổi bật người không nổi bật cảnh”. Hay nói một cách khác, một bức
ảnh nào cũng cần phải đầu tư trong việc xử lí kỹ thuật ( mà Quyên gọi là cầu kì
đó) còn “vật hay cảnh” là đối tượng xử lý chứ không chỉ “vật” là đối tượng duy
nhất của việc xử lý, như thế cũng không có nghĩa là “Một bộ ảnh nude hướng về
thiên nhiên, tất cả cần đơn giản”. Lý lẽ trên là ngụy biện loại bỏ bớt mệnh đề.
Mặt
khác, Quyên cho rằng “Tôi mong người xem hãy nhìn khung cảnh sau tôi chứ không
phải nhìn một Ngọc Quyên đang nude”, nếu vậy, tại sao Quyên lại đi chụp ảnh
nude rồi bảo mọi người nhìn khung cảnh chứ không nhìn Quyên nude? Như vậy phải
chăng Quyên đang phủ nhận chính việc Quyên đang kêu gọi? Điều này xuất phát từ
việc sử dụng phép ngụy biện mệnh đề rời rạc khiến người nghe không rõ Quyên
đang muốn nói chính yếu về vấn đề gì.
Cũng
trong câu trả lời, Ngọc Quyên lý giải về nội dung tập ảnh nude của mình: “ Trái
đất khi không có cây cũng giống như con người khi không mặc quần áo - không còn
gì bảo vệ, những tác động từ bên ngoài sẽ không còn gì ngăn cản.” Đây là sự lấy
tính tương đồng không hợp lý trong so sánh của Ngọc Quyên. Vì hai đối tượng so
sánh ở đây là “ trái đất khi không có cây” và “ con người khi không mặc quần
áo” còn tính tương đồng là “ không còn gì bảo vệ những tác động từ bên ngoài”.
Rõ ràng đây là tính tương đồng sai, vì cái yếu tố bảo vệ trái đất khỏi tác động
bên ngoài là tầng ozon hay tầng từ trường xung quanh trái đất giống như quần áo
– con người mà Quyên đang muốn nói đến, còn cây xanh chỉ đóng vai trò là sự điều
hòa về nhiệt độ cũng như hàm lượng không khí trên địa cầu. Như vậy đây là phép
ngụy biện tính tương đồng sai mà Ngọc Quyên đã sử dụng.
Minh
chứng tiếp theo đến từ sự kiện “ Nên hay không nên cấm học sinh lưu thông xe
máy và sử dụng điện thoại di động” đã từng là tiêu điểm trên các mặt báo. Bắt đầu
từ bài báo từ học sinh cấp 3: “Bức thư nói 'không' bất ngờ của nhóc 9X” 5 . Bỏ qua
cách đặt tiêu đề hết sức mơ hồ về từ “không” và chẳng ăn nhập gì về nội dung
bài viết, chúng ta phân tích các luận điểm trong bài viết của học sinh này.
Học sinh này cho rằng: “Thế nhưng, có phải đa
số học sinh sử dụng phương tiện này là xấu? Câu trả lời là KHÔNG.”, nhưng chứng
minh luận điểm học sinh đơn giản chỉ dẫn: “Trong số hàng ngàn, hàng vạn học
sinh sử dụng điện thoại di động thì chỉ có một bộ phận nhỏ sử dụng nó vào mục
đích xấu mà chưa nói đến những bạn sử dụng chúng rất hữu ích.” Như vậy khái niệm
“ chỉ một bộ phận nhỏ” đã không được làm rõ là nhỏ thế nào? con số cụ thể ra
sao? hay nó chỉ là phỏng đoán hay cách tư duy ngụy biện dễ dãi của một đối tượng
học sinh cấp 3?
Học
sinh này cũng lập luận hết sức ngây ngô và khó hiểu ở điểm: “Em không phủ nhận
là có bạn suốt ngày nhắn tin, có bạn “nghiện” điện thoại, có bạn dùng vào việc
không nên. Do vậy, em càng không thể phủ nhận những cái tích cực của nó”. Chứ “
do vậy” ở đây không liên kết được 2 mệnh đề em học sinh này đưa ra, vừa làm câu
văn khó hiểu, vừa thể hiện sự rời rạc của mệnh đề em đang cố liên kết. Những luận điểm tiếp
theo được em đưa ra để minh chứng cho sự tiện dụng của điện thoại di động là:
“Em rất thích dùng điện thoại trong giờ tiếng Anh để tra từ điển (sau khi xin
phép cô giáo), và hiệu quả đem lại là cao bởi học tiếng Anh không thể thiếu cuốn
từ điển.”, hay “Em cũng dùng nó để tìm hiểu thêm khi có những tiết thuyết trình
về bài lịch sử,... hay đôi khi dùng nó để giải trí trong giờ ra chơi, nghỉ giữa
giờ.” Những luận điểm trên đã lược bỏ những mệnh đề liên quan đến luận điểm. Việc
điện thoại có thể sử dụng dể tra từ điển là có thế nhưng còn những cuốn từ điển
liệu quá ít từ cho em hay chăng mà phải dùng điện thoại mới có thể tra từ điển
được? Việc tìm hiểu thêm khi có thuyết trình lịch sử không thể diễn ra ở nhà
hay tìm tòi ở tư liệu hay sao mà phải cần điện thoại để tra cứu? Đó là chưa kể
việc người khác thuyết trình em lại mày mò tra cứu thì em sẽ nằm thông tin người
đang thuyết trình hay nắm thông tin em có được trên mạng? Độ ngây ngô còn thể
hiện ở việc em dùng điện thoại để giải trí trong giờ chơi. Giờ chơi được sinh
ra để các em vận động cơ thể để học tập tốt hơn chứ không phải để các em giải
trí các trò chơi điện tử trên điện thoại. Như vậy, các luận điểm em đưa ra đều
là ngụy biện để giải thích sự tồn tại hợp lý của điện thoại di động trong việc
học cũng như việc chơi của các em.
Phải
chăng, việc cấm các em sử dụng điện thoại là không thể vì nhu cầu của lứa tuổi
và điều kiện gia đình thế nhưng việc kiên quyết không cho các em sử dụng trong
giờ học là việc có thể và cần thiết.
Ngoài
ra khi em đề cập đến việc sử dụng xe máy, em sử dụng luận điểm : “ Khi em sử dụng
xe máy để đi lại với các bạn, chúng em vẫn nhắc nhau đội mũ bảo hiểm đầy đủ,
không kẹp ba, không đi nhanh, lạng lách, đến đèn đỏ thì bảo nhau đỗ lại. Thử đặt
ra câu hỏi: Vì sao phải đến 18 tuổi mới được điều khiển xe máy thay vì 16 tuổi?
Câu trả lời sẽ đại loại là: Do con người ở tuổi 18 đã sắp hoàn thanh giai đoạn phát triển cơ thể, do tuổi
18 sẽ có những suy nghĩ chín chắn, vân vân. Nhưng bây giờ học sinh phát triển
thể chất rất nhanh, 16 tuổi nhưng đã rất cao lớn. Còn về suy nghĩ, nó là một
quá trình từ bé đến lớn, chứ không phải từ tuổi 16 đến 18 mới vững chắc về suy
nghĩ. Vì thế, để tránh những clip xấu, yêng hùng xa lộ tương lai thì nên là
giáo dục ý thức, tư tưởng cho học sinh từ khi còn bé. Bé tức là từ mẫu giáo, tiểu
học.” Ở luận điểm một, em đưa ra bằng chứng về việc em chấp hành tốt luật lệ,
không những thế lại nhắc nhở nhau thực hiện, thế nhưng căn cứ xác thực cho luận
cứ này ở đâu? Và phải chăng, đây là phép ngụy biện đánh vào cảm tính của người
nghe. Luận điểm thứ hai của em là phê phán việc cho rằng 18 tuổi sẽ có những
suy nghĩ chín chắn nhưng em luận chứng bằng luận điểm 16 tuôi đã cao lớn, tức là
em đánh tráo khái niệm từ việc suy nghĩ thành thể chất, mặt khác mang tiếng là
phê phán, em không phủ định hay bác bỏ nó mà đưa ra luận điểm bổ sung cho nó
“Còn về suy nghĩ, nó là một quá trình từ bé đến lớn, chứ không phải từ tuổi 16
đến 18 mới vững chắc về suy nghĩ. Vì thế, để tránh những clip xấu, yêng hùng xa
lộ tương lai thì nên là giáo dục ý thức, tư tưởng cho học sinh từ khi còn bé.
Bé tức là từ mẫu giáo, tiểu học.” nhưng lại nhầm tưởng là đang phê phán và bác
bỏ nó. Tư duy này thể hiện sự dễ dãi trong suy luận của em học sinh, hay nói
cách khác, bệnh ngụy biện đang tồn tại trong em học sinh này.
Cũng
trong vấn đề “ xe máy và điện thoại” này, chúng ta đến với bài báo: “10 km có
đáng gì…” 6 , bài báo là sự tổng hợp các ý kiến của bạn đọc về vấn đề đang nêu
trên. Lướt qua, chúng ta dễ dàng thấy những sự lí giải mang yếu tố ngụy biện hết
sức đến từ các tầng lớp khác nhau trong xã hội:
“ Các bạn sống ở thành phố được hưởng nhiều
điều tốt đẹp, nên bây giờ vì không được như ý muốn là các bạn đã lên tiếng phản
đối. Các bạn có biết có những bạn cùng trang lứa sống tại các vùng rừng núi xa
xôi phải đi bộ tới trường. Mà trường thì cách xa nhà tới 10km, đường đi khó
khăn nhiều, nhưng họ vẫn luôn yêu đời và học giỏi. Có thể nói, đa số những người
thành đạt đều xuất phát từ nông thôn”
“Và thật xấu hổ cho bạn học sinh nào nói rằng đi xe đạp thì "đến lớp chỉ
có nằm vật ra thở"!
“Các cô ấm cậu chiêu có khi nào đi xe máy ra đường mà nghiêm chấp hành luật
giao thông đâu”
“Thôi đi bạn ơi làm gì có chuyện ấy có chắc là bạn chịu đội mũ bảo hiểm khi bạn
có một bộ tóc làm xoăn rất đẹp, còn các bạn nam thì đầu đầy keo lại chịu đội mũ
làm gì có chuyện "10 bạn thì 9 bạn phục vụ mục đích đúng đắn". Bạn
đi học có 10km còn những bạn vùng sâu vùng sa đi bộ, đạp xe cả ngày đường thì
làm sao”
Những
tưởng sự ngụy biện này đôi khi chỉ xảy ra ở con trẻ hay những người ít tư duy
hay học vấn thấp, thế nhưng bài báo: “Phản hồi đanh thép của phụ huynh 6X” 7 lại
bổ sung đối tượng là người lớn tuổi ( ở đây là tầm trên dưới tuổi 40) để thấy rằng
sự ngụy biện chẳng chừa một ai.
Phụ huynh này dẫn ra luận đề thứ nhất: “Quỹ thời
gian giành cho việc học, kể cả học ở trường, học thêm ở các lò, học ở nhà nhiều
khi cỡ 14/24 giờ vẫn chưa bơi hết, vẫn phải cố gắng. Mười giờ còn lại thì ăn uống,
sinh hoạt cá nhân hết chừng 3 giờ, còn lại chừng 7 giờ dành cho việc ngủ. Nếu
phải đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường sẽ khiến các em luôn vội vàng, hốt hoảng
và quỹ thời gian nghỉ sẽ hẹp lại. Khi đến trường là mệt nhoài, nhất là với các
em ở cự li xa trường hơn 5 km. Nhìn vào lịch này, thấy quỹ thời gian dùng cho
việc du hí, ngao du thì học sinh thuộc nhóm ít nhất xã hội nếu so với thanh
niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với người lớn.” Cũng như các luận cứ đã
dẫn chứng trên, loại ngụy biện xuất hiện trong luận điểm này là ám thị và loại
bỏ mệnh đề. Con số 14/24h là con số áng chừng và không đại diện chung cho mọi tầng
lớp học sinh.
Mặt
khác, tự nhiên đã qui định sự phân chia thời gian hợp lí cho mỗi nhóm hoạt động
là 8 tiếng học tâp ( làm việc); 8 tiếng nghỉ ngơi tái sản xuất sức lao động; 8
tiếng vui chơi, tự đào tạo. Phụ huynh đã làm sai qui tắc tự nhiên bằng việc sử
dụng 14/24h cho việc học thì làm sao lại trách là “Nhìn vào lịch này, thấy quỹ
thời gian dùng cho việc du hí, ngao du thì học sinh thuộc nhóm ít nhất xã hội nếu
so với thanh niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với người lớn.”.
Mặt khác, phụ huynh đã ám thi việc “Nếu phải
đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường sẽ khiến các em luôn vội vàng, hốt hoảng và quỹ
thời gian nghỉ sẽ hẹp lại.”, câu hỏi đặt ra cho phụ huynh là vai trò của phụ
huynh ở đâu trong việc đưa đón con trẻ, và rất nhiều phương tiện khác ngoài
chuyện đi bộ và xe đạp đến trường. Phải chăng để cố làm vững luận điểm của
mình, phụ huynh đã ngụy biện bằng cách lược bỏ hết mệnh đề liên quan để chẻ giá
trị lí luận theo hướng có lợi cho mình. Bên cạnh đó, phụ huynh cho rằng: “. Nhìn
vào lịch này, thấy quỹ thời gian dùng cho việc du hí, ngao du thì học sinh thuộc
nhóm ít nhất xã hội nếu so với thanh niên sinh viên, công nhân, thậm chí so với
người lớn” là một luận điệu cá trích trong ngụy biện. Vấn đề đang bàn ở đây là
việc nên hay không nên cho học sinh sử dụng xe máy chứ không phải thời gian du
hí và ngao du của học sinh mà phụ huynh lại đưa luận điểm này vào để làm rối luận
đề mọi người đang bàn tới.
Luận
đề thứ hai phụ huynh đề cập là: “ thao tác lái xe”, phụ huynh lại càng lộ rõ
tính chất ngụy biện trong luận điểm của mình. Thứ nhất là đưa một luận điệu cá
trích vào luận điểm: “Luật giao thông hiện nay KHÔNG CẤM một cụ già 65 tuổi hoặc
một bà trung niên nhà quê chừng 50 -60 tuổi cầm lái xe gắn máy nếu đã có giấy
phép”.
Thứ hai là đưa ra một luận cứ cảm quan thiếu
xác thực và khái quát hóa không đúng chỗ: “Tôi đã quan sát nhiều trường hợp những
phụ nữ từ nông thôn ra thành thị, 50 tuổi mới mó vào cái xe lần đầu, một tháng
sau đã chở cả đống hàng trên xe chạy ngon lành.” để rồi kết luận một luận điểm
“ Do đó, không gì vô lý, duy lí hơn việc nghĩ rằng học sinh không biết lái xe,
không có bằng cấp là không lái được xe trong khi thanh niên 16-17 tuổi là loại
thông minh, nhạy cảm là linh hoạt nhất đời người. Nhìn vào việc học –hành thì
việc học tập để nắm luật giao thông, để có thể đi , thậm chí đi xe gắn máy giỏi
chỉ là chuyện nhỏ so với những kỹ năng khác mà các em phải học. Trên thực tế
các em đi xe rất giỏi, giỏi hơn các cụ già, các bà phụ nữ nhiều” thì việc “ việc
học tập để nắm luật giao thông,” là kiến thức và “đi xe gắn máy giỏi chỉ là
chuyện nhỏ” là kĩ năng, là 2 vấn đề khác nhau và không thể liên kết. Mặt khác
cho rằng: “Trên thực tế các em đi xe rất giỏi, giỏi hơn các cụ già, các bà phụ
nữ nhiều” là kiểu ngụy biện khái quát sai. Nếu cũng trên quan điểm thế và lối
tư duy để có thể nói “ Các em không được đi xe máy vì đi tệ hơn những người đàn
ông trưởng thành” thì cũng rất hợp lí. Việc các em học sinh đi xe máy giỏi hơn,
có khả năng đi xe máy hay không không là vấn đề mà mọi người đang bàn tới, mà vấn
đề là ý thức khi điều khiển tham gia giao thông của lứa tuổi học sinh là non nớt
cũng như kinh nghiệm non trẻ trước các tình huống. Việc phụ huynh này đưa vào
những luận điểm chẳng ăn nhập vào luận đề mọi người đang quan tâm tới là hình
thức ám thị và loại bỏ, chẻ các giá trị luận điểm ra nhằm quanh co lí luận làm
người đọc khó nắm bắt nội dung chính mà phụ huynh này muốn nói tới.
Đỉnh
điểm của sự ngụy biện của phụ huynh là việc phụ huynh đưa ra luận điểm: “Không
có gì vô lí, nực cười hơn việc một bà mẹ gầy yếu chạy xe chở một ông con to
béo, đang tuổi “bẻ gãy sừng trâu” ngồi ngất ngư đằng sau, suốt ba năm học cấp
ba.” Luận điệu cá trích được tác giả sử dụng triệt để trong luận điểm này khi
nó chẳng liên quan gì đến việc mọi người đang quan tâm tới là ý thức điều khiển
tham gia giao thông của lứa tuổi học sinh.
Rời các bằng chứng cho thấy sự ngụy biện trở
thành quen thuộc trong lối tư duy Việt ở các mặt báo tác giả đến với những nhận
định mang yếu tố ngụy biện đến từ những người đáng tin cậy hơn vì xét về “
chính danh” thì những phát biểu hàm hồ của nhóm đề cập trên không thể hiện được
sức mạnh của ngụy biện đã lan tỏa thế nào trong tư duy Việt.
Sự
việc đình đám gần đây nhất là việc giải cứu cụ Rùa ở Hồ Gươm có lẽ gây dấu ấn
nhiều người là những phát biểu hết sức ngây ngô từ những vị có học hàm học vị
trong buổi hội thảo giải cứu cụ Rùa. Thế nhưng chỉ xét về vấn đề ngụy biện có lẽ
không bỏ qua được một thạc sĩ Kim Văn Vạn, Trưởng Bộ môn Nuôi trồng Thủy sản-Đại
học Nông nghiệp Hà Nội trong bài báo “Cuối tháng 2 và đợi trời ấm sẽ cứu cụ
rùa”8 khi ông phát biểu “Th.S Vạn không cho là rùa tai đỏ tấn công cụ rùa vì
rùa tai đỏ không hung dữ như ba ba. Hơn nữa, rùa tai đỏ có kích cỡ nhỏ, còn cụ
rùa có kích cỡ lớn hơn và các sinh vật này ứng xử với nhau theo quy luật “cá lớn
nuốt cá bé” chứ ít khi ngược lại.” Có lẽ vị thạc sĩ này khi đưa ra cụm ngữ “ cá lớn nuốt cá bé” đã
không tính chất trong cụm ngữ này muốn đề cập tới. Tính chất cụm ngữ này muốn
nói tới hình sức trực quan “ cá lớn ăn thịt cá bé” tức là đề cập đến những loài
cá ăn thịt. Trong khi, rùa thì không ăn thịt, và ở đây cụ Rùa và rùa tai đỏ cạnh
tranh nguồn thức ăn lẫn nhau, mà số lượng rùa tai đỏ nhiều hơn cụ Rùa nên cụ
Rùa thiếu hụt nguồn thức ăn mới là đáng bàn. Việc rùa tai đỏ tấn công cụ Rùa,
có lẽ khi dẫn câu “ cá lơn nuốt cá bé”, thạc sĩ lại quên câu chuyện “ Kiến thắng
sư tử” hay “ Kiến thắng voi” hay quên cả việc chuyện “ cá lớn nuốt cá bé” không
diễn ra ở một chiều mà việc cá bẻ rỉa vết thương của cá lớn cũng diễn ra ở tự
nhiên. Phải chăng, bên trong sự ngụy biện dẫn điển tích này, là cả việc vị thạc
sĩ quên mất ( hay không biết) về những câu chuyện vở lòng của tiểu học và những
kiến thức cơ bản của tự nhiên. Nếu sự quên hay sự không biết này là sự thật thì
cũng có thể thông cảm cho sự ngụy biện của một vị thạc sĩ, vì đơn giản ông ta
không biết.
Vẫn
còn nhiều và rất nhiều những minh chứng khác trong xã hội và đặc biệt đời sống
hằng ngày của người Việt về lối tư duy ngụy biện như những kiểu mà tác giả đã
trình bày. Vậy câu hỏi đặt ra là, nguyên nhân từ đâu đã hình thành về lối tư
duy ngụy biện này, và tại sao nó được duy trì cho đến hiện nay. Câu hỏi này quả
thật rất khó, và trong sự hữu hạn của mình, tác giả đúc kết thành những vấn đề
sau.
III. Nguyên nhân hình thành và tồn tại của
lối tư duy ngụy biện:
1. Nguyên nhân hình thành của lối tư duy
ngụy biện Việt:
1.1 Tư duy người Việt mang tính biện chứng
cao nhưng méo móp:
Nước
Việt có một nền văn minh lúa nước lâu đời, chính nền văn mình này đã khiến dân
tộc sống chan hòa cùng thiên nhiên, nhận biết được tương quan biện chứng giữa tự nhiên và tự nhiên, con người
và con người, con người và tự nhiên vì thế tư duy biện chứng là một trong đặc
tính cơ bản của tư duy người Việt hay nói rộng hơn là Việt Triết.
Thế
nhưng, việc tồn tại văn hóa làng xã, văn hóa mà “phép vua thua lệ làng”, văn
hóa “ Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đã khiến màu sắc biện
chứng trong tư duy Việt không tính biện chứng tiến bộ, phát triển mà lối biện
chứng cục bộ tức là tuyệt đối hóa một vai trò nào đó không một nhóm vai trò tác
động đến đối tượng. Thế nên, mới hình thành lối tư duy ngụy biện “ Qui nạp sai
( Khái quát hóa vội vã)”, về các tác nhân của hiện tượng xã hội. Ví dụ: “ Phú
quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc” hay “ Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ”. Những
câu tục ngữ ấy mang tính khái quát cao và đại diện tuy nhiên vì tuyệt đối hóa một
vai trò như “ phú quí”, như “ bần cùng”, như “ bạn”, như “ vợ” mà vô tình chung
tính chân lí bị giảm sút. Điều này khác hẳn với phương Tây, họ cũng so sánh và
đúc kết nhưng họ biết đưa thêm những từ “ đôi khi” hay “ đa số”, hay “một phần”
khiến cho lối nhìn của họ tuy không bay bổng và vần nhịp như người Việt nhưng
khó mà bác bỏ được họ như ca dao tục ngữ Việt.Chính vì thế, tác giả tạm gọi tư
duy dạng này, là tư duy biện chứng méo móp.
1.2. Nước Việt có một nền học thuật yếu:
Học
thuật ở nước Việt có thể nói là tương đối yếu so với các nền văn hóa, văn minh
khác, đặc biệt là phương Tây. Ngay cả những nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn
Độ thì nền học thuật của Việt Nam cũng yếu hơn rất nhiều. Điều này lí giải là
do văn hóa làng xã đã khiến sự giao lưu tư tưởng, giao lưu học thuật không được
phát triển.Chính vì điều này, sự đối thoại trong triết học không được phát triển,
sự đối thoại giữa những tư tưởng không được thúc đẩy nên ngụy biện không được
nhận diện trong một thời gian dài cho đến khi nền văn minh phương Tây du nhập
vào Việt Nam, thì sự ngụy biện dường như ăn sâu vào tư duy Việt với cái tên là
“ khôn khéo và thông minh” như chuyện Trạng mà nhóm đã phân tích của ở phần
trên.
Cũng chính nền học thuật yếu, đã khiến dân tộc
Việt ảnh hưởng mạnh bởi lối tư duy Hán Học11 nên việc diễn giải điển tích, hay
viện giải uy tín cá nhân, hay lợi dụng sức mạnh cá nhân để tác động lên tính
chân lý thành ra mới có quan niệm trong dân gian Việt là “ văn sử triết bất
phân” cũng vì điểm này.
Cũng
do nên học thuật yếu mà ngôn ngữ Việt có thời gian dài sử dụng Hán ngữ làm quốc
ngữ, sau đấy lại chỉnh thành chữ Nôm và cuối cùng trở thành Quốc ngữ với hình
thức Latin ngữ. Điều này dẫn đến sự phức tạp trong ngôn ngữ Việt. Càng là điểm
sơ hở để các nhà ngụy biện “ khua môi múa mép” trên cơ sở chơi chữ, và tận dụng
đồng âm cũng như tính đa nghĩa của từ. Điều này tương cộng một lần nữa với yếu
tố học thuật yếu càng làm suy luận trở nên rối rắm và khó phân tích.
Cũng do nền học thuật yếu nên khi tiếp nhận
văn minh phương Tây, chúng ta bị ảnh hưởng và vô tình tạo nên lối tự ti trong
suy luận. Chúng ta vẫn thường suy nghĩ một cách dễ dãi như: “ Phương Tây phát
triển, Việt Nam lạc hậu”. Một sự thật rằng, không thể chối bỏ điều đấy, nhưng mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc có nền văn hóa, nền văn minh riêng, có bản sắc riêng, việc
quá tả hay quá hữu trong nhìn nhận sự việc sẽ dẫn đến lệch lạc và tinh thần cực
đoan. Điều này dẫn đến hàng loại lối ngụy biện dựa vào phương Tây để phê phán
hay xây dựng Việt Nam cho tiến bộ, văn mình nhưng thực chất mang nặng yếu tố “
Tây Hóa” trong việc xây dựng này.
1.3. Người Việt với tính cách trung
dung, dĩ hòa vi quí nên lí tính mang nặng màu sắc cảm tính:
Điều này xuất phát từ nền văn minh lúa nước và
văn hóa làng xã, khiến tính duy cảm trong tư duy Việt được cơ hội phát triển
theo dạng “ khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo”, nên
những vấn đề như “ sự đồng thuận của đám đông”, “ lợi dụng uy tín cá nhân”, “ lợi
dụng quyền lực”, có cơ hội hình thành và phát triển. Điều này cũng được phê
phán trong ca dao – tục ngữ Việt như: “ Một miệng làng bằng ba miệng trống” hay
“ Trăm năm bia đá cũng mòn/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Những điều đấy,
làm tính ngụy biện có đất sống và phát triển. Vì tính chân lý của sự vật không
được đem ra phê phán và đấu tranh tới cùng.
Cả
ba yếu tố nêu trên cùng tác động, cùng ảnh hưởng đến nhau để tạo nên lối tư duy
dễ dãi, và thiếu tính logic của người Việt. Thế nhưng, đến thế kỷ 21, sự ngụy
biện này dường như vẫn còn tồn tại, không chỉ Việt Nam, mà còn ở thế giới.
2. Nguyên nhân tồn tại của ngụy biện:
Xuất
phát từ tiền đề, không gì có thể tồn tại nếu nó không phục vụ lợi ích con người
sẽ cho chúng ta cái nhìn rộng mở để lí giải câu hỏi trên.
Ngụy biện, xét về mục đích, chẳng qua cũng là
một phương tiện để đạt được mục đích của con người. Nếu đi bằng logic thông thường,
sẽ khiến người nghe – vốn hữu hạn về nhận thức – khó tiếp thu và đồng ý. Trong
tình huống này, ngụy biện đóng vai trò là con đường ngắn nhất để đạt được mục
đích đó. Xét về tính mục đích, nó là biện pháp tối ưu, vừa ít tốn công, vừa đỡ
tốn sức.
Thế
nhưng, khi lí giải và hành động như thế những người sử dụng đã quên một tiền đề
khác là con người chỉ làm khi họ có nhu cầu hay nói cách khác, họ muốn làm hành
động đấy. Việc thuyết phục có thể hiểu góc độ nhỏ là sự ép buộc, cưỡng bức vô
hình với người bị thuyết phục. Nhóm đồng ý một quan điểm cho rằng: “ Mục đích
không biện minh cho phương tiện”, tức là để thuyết phục một ai đó làm một việc
gì đó, hay dùng logic chân chính để lý giải cho họ hiểu vì sao họ cần làm thế
thay vì dùng lí lẽ ngụy biện để đánh mù lí trí của họ và bắt họ làm theo.
Mặt
khác, ngụy biện được hình thành dựa trên nền học thuật yếu – mà hệ quả trực tiếp
– là sự logic trong lí luận không vững vàng, vì thế đến thời điểm hiện nay, khi
mà tính logic trong lí luận người Việt cũng chưa thực mạnh thì ngụy biện cũng
còn tồn tại là lẽ tất nhiên.
Thứ ba, ngụy biện đã ăn sâu vào tâm thức người
Việt, dường như nó là nét văn hóa, đặc biệt nhóm ngụy biện dựa vào sự duy cảm,
vì thế việc xóa bỏ nó không phải là một sớm một chiều mà phải đấu tranh liên tục
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
IV. Tổng kết:
Như
đã phân tích về nguyên nhân tồn tại của ngụy biện, tác giả thấy rằng cuộc chiến
giữa logic và ngụy biện là cuộc chiến dai dẳng và khó có hồi kết. Một mặt, do sự
hữu hạn của tư duy con người mà người Việt là một trong số đó. Một mặt, nó đã
thành thói quen và ăn sâu vào trong tiềm thức của người Việt nói chung.
Cuộc
chiến này, nó không chỉ ở dân tộc Việt mà bất kì dân tộc trên thế giới cũng ẩn
chứa. Để xóa bỏ nó, cơ bản chỉ cần làm được ba việc sau
Thứ nhất, dẹp bỏ cái “tính hữu” trong bản thân
khi tham gia tranh luận hay thuyết phục ai đó. Chính cái “ tính hữu” này đã bắt
con người phải chiến thắng hay đạt được mục đích đặt ra mà bất chấp phương tiện,
từ đó ngụy biện mới được trọng dụng và có đất sống mà tung hoành.
Thứ
hai, nâng cao nền học thuật, nghiên cứu đầy đủ về sự ngụy biện của người Việt,
xây dựng hệ thống lập luận logic của người Việt, để mọi người từ người dân bình
thường đến những người có vị thế cao dựa vào đấy có cơ sở mà phân định đâu là
lí lẽ ngụy biện, đâu là lí lẽ logic. Việc làm này cần nối tiếp nhau, từ thế hệ
này sang thế hệ khác như một cuộc chiến trường kì giữa thiện và ác.
Thứ
ba, song song với hai điều kiện trên, mỗi người cần tự phản tư, luôn luôn đặt
câu hỏi, truy vấn về các suy luận, lí luận của mình một cách quyết liệt và thẳng
thắn, để loại dần những thói quen không tốt trong tư duy - ở đây là ngụy biện –
để hướng tới tính logic hoàn mỹ trong lí luận con người.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Sách
tham khảo:
Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học , NXB Tổng
Hợp TpHCM, 2006
Kim
Định, Gốc rễ Triết Việt
Engel,
S. Morris, With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies.
5 thedition, New York: St. Martin's Press,
1994.
John
B. Trần Văn Đoàn, Tổng quan về Triết học và Việt Triết, Đại học Quốc gia Đài
Loan, 1994
Nguyễn Trường Giang, Logic trong tranh luận,
NXB Thanh Niên, 2006.
file:///C:/Users/admin/Downloads/tieuluan.pdf
1
Đọc thêm: Bùi Văn Nam Sơn, Protagoras và khai minh Hy Lạp, Sài gòn tiếp thị Online,
14.07.2010
2
Các phần trong mục 2 này là sự tổng hợp, biên soạn,bổ sung từ các tư liệu sau:
Engel, Morris S. With Good Reason -- An Introduction to Informal Fallacies. 5
thedition. New York: St. Martin's Press, 1994.
Nguyễn
Trường Giang, Logic trong tranh luận, NXB Thanh Niên, 2006.
3
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/13311/tham-tu-phat-hien-nhom-teen--yeu--tap-the.html
4
http://vnexpress.net/gl/van-hoa/2011/03/ngoc-quyen-me-va-ban-trai-chap-nhan-anh-nude-cua-toi/
5
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11180/buc-thu-noi--khong--bat-ngo-cua-nhoc-9x.html
6
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11807/-10-km-co-dang-gi--.html
7
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/dien-dan/11914/phan-hoi-danh-thep-cua--phu-huynh-6x.html
8
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/10212/-cuoi-thang-2-va-doi-troi-am--se-cuu-cu-rua.html
9
Đọc thêm GS John B. Trần Văn Đoàn, Tổng quan về Triết học và Việt triết, Đại học
Quốc Gia Đài Loan, 1996
10
Đọc thêm Dương Ngọc Dũng, Đường vào Triết học, NXB Tổng hợp TpHCM, 2006
11
Hay tư duy Hán học ảnh hưởng bởi nước Việt thì vẫn còn đang tranh cãi, nhận định
này nhóm nhận định với chính kiến riêng.
Comments
Post a Comment