Chiến
tranh Việt Minh-Pháp?
Trần
Gia Phụng
-
Sau khi sách Chiến tranh 1946-1954, từ chiến tranh Việt Minh-Pháp đến chiến
tranh ý thức hệ Quốc-Cộng được nhà xuất bản Tự Lực phát hành tại California vào
tháng 3-2018 và quảng cáo trên Internet, có độc giả ở xa e-mail hỏi người viết
tại sao lại gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt Minh-Pháp?
Lý
do câu hỏi nầy có thể vì trước đây, người ta thường quen gọi chiến tranh
1946-1954 là “Chiến tranh Việt-Pháp”, hay là “Cuộc kháng chiến chống Pháp”. Nếu
gọi như thế, có nghĩa là xem cuộc chiến nầy xảy ra giữa toàn dân Việt với người
Pháp. Trong thực tế, chiến tranh xảy ra tối 19-12-1946 không phải giữa toàn dân
Việt với người Pháp, mà là giữa mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương
(CSĐD) với người Pháp. Việt Minh và đảng CSĐD chỉ là một thành phần nhỏ trong
toàn dân Việt mà thôi, nên không thể gọi là chiến tranh Việt-Pháp. Lý do chiến
tranh chứng thực điều nầy.
1. Lý do chiến tranh
Tháng
8-1945, Việt Minh và đảng CSĐD cướp chính quyền, thành lập nhà nước cộng sản đầu
tiên ở Á Châu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Khi làm lễ ra mắt ngày
2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh hô hào cương quyết chống Pháp đến cùng, nguyên
văn như sau: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi
lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không
đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà
Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.)
Tuy
nhiên, khi quân Pháp nhờ quân Anh giúp sức, tái chiếm Nam kỳ, và thỏa thuận với
người Trung Hoa tiến quân ra Bắc kỳ, Hồ Chí Minh cùng Việt Minh và đảng CSĐD
không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp, ký liên tiếp hai hiệp ước ngày
6-3-1946 tại Hà Nội (Hiệp định Sơ bộ), và ngày 14-9-1946 tại Paris (Pháp) (Tạm
ước tức Modus Vivendi), hợp thức hóa sự hiện diện người Pháp tại Việt Nam. Hành
động nầy hoàn toàn trái với lời Hồ Chí Minh thề ngày 2-9-1945.
Quân
đội Pháp càng ngày càng gia tăng áp lực, uy hiếp Việt Minh. Sáng 18-12-1946, tại
Hà Nội, một chiếc xe của Pháp bị tự vệ Việt Minh tấn công trước trụ sở bộ Tài chính
và bộ Giao thông. Pháp gởi cho Việt Minh một thư báo tin Pháp sẽ chiếm trụ sở
hai bộ đó, và yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ những chướng ngại vật trong thành phố; nếu
không Pháp sẽ tự mình khai thông đường sá. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ
nhứt. (Stein Tonnesson, Vietnam 1946 – How the War Began, University of
California Press, 2010, tr. 198.)
Cùng
ngày 18-12-1946, thiếu tá Pháp Jean Julien gởi cho Việt Minh một thư khác, phàn
nàn rằng cảnh sát Việt Minh không chu toàn nhiệm vu, và cho biết nếu việc nầy
tiếp tục, Pháp sẽ đảm trách giữ gìn an ninh Hà Nội từ ngày 20-12-1946. Việt
Minh xem đây là tối hậu thư thứ hai. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 198.)
Cũng
trong ngày 18-12-1946, Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, thứ trưởng bộ Nội vụ Việt
Minh, họp công chức Hà Nội, ra lệnh tản cư khỏi thủ đô. (Đoàn Thêm, Hai mươi
năm qua, 1945-1964, Sài Gòn 1965, California: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề
năm, tr. 30.) Dân chúng phải tản cư toàn diện. Dân quân du kích đến từng nhà,
gõ cửa kiểm soát hằng ngày, thúc giục dân chúng phải di tản. (Vân Dung Nguyên,
Du lotus au sapin, Québec: Les Éditions GID, 2016, tt. 60-61.)
Sáng
19-12-1946, tướng Louis Morlière, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc kỳ, gởi thư cho
Hoàng Hữu Nam, buộc Việt Minh tước khí giới quân Tự vệ ở Hà Nội, chấm dứt bạo động,
đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh và để cho Pháp bảo vệ an ninh thành phố Hà Nội.
Đồng thời, Morlière còn đề nghị với Hoàng Hữu Nam triệu tập cuộc họp khẩn cấp để
tìm biện pháp tránh xung đột. Việt Minh cho đây là tối hậu thư thứ ba. (Stein
Tonnesson, sđd. tr. 204.)
Nếu
quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát luôn lực lượng võ
trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, các lãnh đạo Việt
Minh, các lãnh đạo đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Việt Minh
không thể chấp nhận điều nầy. Vì vậy, một mặt Việt Minh chuẩn bị chiến tranh, một
mặt Hồ Chí Minh họp Trung ương đảng CSĐD lấy quyết định.
Để
Pháp khỏi nghi ngờ về những chuẩn bị của Việt Minh, Hoàng Hữu Nam trả lời rằng
vấn đề sẽ được cứu xét trong phiên họp hằng tuần vào ngày hôm sau, thứ Sáu
20-12-1946. Hồ Chí Minh viết thư ngắn cho đại diện Pháp là Jean Sainteny yêu cầu
Sainteny thương thuyết với Hoàng Minh Giám, thứ trưởng Ngoại giao Việt Minh.
Sainteny hẹn gặp Giám cũng vào ngày hôm sau là thứ Sáu 20-12-1946. Võ Nguyên
Giáp còn cố gắng thuyết phục tư lệnh quân Pháp ở Bắc kỳ là Louis Morlière rằng
để làm cho tình hình bớt căng thẳng, quân Pháp phải tỏ thiện chí bằng cách bỏ lệnh
cấm trại, cho lính nghỉ ngơi.
Morlière
đồng ý. Tuy nhiên, lúc 5 giờ chiều ngày 19-12, Louis Morlière nhận được tin
tình báo cho biết Việt Minh sẽ tấn công tối hôm đó. Morlière liền đổi kế hoạch,
ra lệnh duy trì lệnh cấm trại, không cho quân Pháp ra khỏi căn cứ, tập trung
thường dân Pháp vào những khu vực gần căn cứ Pháp để dễ bảo vệ, và chuẩn bị đối
phó với tình hình. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964, California: Xuân Thu
tái bản không đề năm, tr. 30.)
Trong
lúc đó, Hồ Chí Minh triệu tập Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và
19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông. Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải
tán ngày 11-11-1945 và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít]
do Trường Chinh Đặng Xuân Khu làm tổng thư ký. Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh
“dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính nghĩa và nhân dân.” (Hồ Chí Minh
toàn tập [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000,
tr. 161.)
Không
thể để bị Pháp bắt, và cũng không thể âm thầm bỏ trốn khỏi Hà Nội một cách nhục
nhã, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp, dùng chiêu bài toàn quốc
kháng chiến chống Pháp, bảo vệ độc lập, để giới lãnh đạo Việt Minh và đảng CSĐD
có cơ hội thoát thân một cách hợp lý khỏi Hà Nội mà không bị dân chúng chê
trách. Vì vậy, Trung ương đảng CSĐD quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp
trên toàn quốc.
Khi
kiếm cách nghị hòa với Pháp, Việt Minh giao cho ban Thường trực Quốc hội gởi điện
văn ngày 30-11-1946, yêu cầu Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp cuộc xung đột
Việt Pháp. Trái lại, khi quyết định phát động chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh
không hỏi ý kiến Quốc hội, trên danh
nghĩa là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban Thường
trực Quốc hội, đại diện cho Quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt tại Hà Nội,
mà chỉ hỏi ý kiến Trung ương đảng CSĐD.
Tuy
hiến pháp ngày 9-11-1946 bị bãi bỏ ngày 14-11-1946 tức năm ngày sau khi được quốc
hội thông qua, và hiến pháp nầy không được ban hành, nhưng lúc đó ban Thường trực
Quốc hội đã được bầu lên và có mặt thường xuyên ở Hà Nội. Ban Thường trực có
nhiệm vụ liên lạc với chính phủ để góp ý và phê bình, quy định việc thi hành hiến
pháp, liên lạc với đại biểu quốc hội khi cần thiết, cùng với chính phủ quyết định
tuyên chiến, đình chiến hay ký hiệp ước.
Hồ
Chí Minh không tham khảo ý kiến ban Thường trực Quốc hội, mà Hồ Chi Minh chỉ hội
ý riêng với Trung ương đảng CSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp. Điều nầy có
nghĩa là không phải Quốc hội Việt Nam hay ban Thường trực Quốc hội Việt Nam, tức
không phải là đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ
Chí Minh cùng với Trung ương đảng CSĐD tự ý quyết định tấn công Pháp tối
19-12-1946.
Cần
chú ý là khi quân Pháp nhờ người Anh giúp đỡ tái chiếm Nam kỳ từ tháng 9-1945,
rồi lại đưa quân ra Trung và Bắc kỳ, tổ quốc Việt Nam đã thực sư lâm nguy từ
lúc đó. Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà Việt Minh kiếm
cách thương thuyết với Pháp để tồn tại, duy trì quyền bính. Nay không còn
thương thuyết với Pháp được nữa, hết cách thỏa thuận với Pháp, Việt Minh mới
quyết định đánh Pháp, là vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải là tổ quốc lâm
nguy.
Như
thế rõ ràng đây là chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp, nhưng ngày hôm sau,
20-12-1946, trên đài Phát thanh Bạch Mai, Hồ Chí Minh đưa ra chiêu bài độc lập
dân tộc, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Pháp, đổ gánh nặng chiến tranh lên
vai dân tộc Việt Nam. Do chiêu bài nầy mà nhiều người đứng lên đáp lời sông
núi, lên đường theo Việt Minh chống Pháp.
2.
Thành phần toàn dân
Dựa
vào lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, các sách lịch sử do cộng sản xuất bản, gọi cuộc
chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 giữa Việt Minh với Pháp là cuộc chiến chống
Pháp của toàn dân Việt Nam. Vậy toàn dân lúc đó là những ai và thái độ chính trị
như thế nào?
Trước
đây, xã hội Việt Nam được chia thành bốn hạng “sĩ nông công thương”. Qua thời
Pháp thuộc, sự phân hạng trên không còn thích hợp, vì trong xã hội mới, văn hóa
thay đổi, chính trị thay đổi, kinh tế thay đổi, quan hệ sản xuất thay đổi. Vì vậy,
tốt hơn ở đây xin dựa vào nơi sinh sống, để chia toàn dân thành dân thành thị
và dân nông thôn, dân miền núi.
Thành
thị
Về
chính tri, dân thành thị thời đó gồm bốn nhóm: Đầu tiên là giới quan lại triều
đình, công chức thời Pháp thuộc và công chức thời chính phủ Trần Trọng Kim. Có
người bị Việt Minh gọi là “Việt gian”, “tay sai thực dân Pháp”. Nhóm nầy tản cư
để tránh lửa đạn
Nhóm
thứ hai gồm những người không có lập trường chính trị rõ ràng, không thân và
cũng không chống bên nào, chỉ muốn yên ổn làm ăn sinh sống. Khi chiến tranh xảy ra, họ tản cư về
các vùng nông thôn bình yên, tránh chiến tranh.
Khi
Pháp đẩy lui Việt Minh, thì hai nhóm nầy quay về thành thị, tiếp tục làm ăn
sinh sống dưới quyền của người Pháp như trước đây, không chú ý đến chuyện chính
trị. Như vậy, hai nhóm trên không tham gia cuộc chiến Việt Minh-Pháp.
Nhóm
thứ ba ở thành thị là nhóm trí thức tiểu tư sản, có tinh thần yêu nước, chống
ngoại xâm, đứng lên đáp lời sông núi, tham gia kháng chiếng chống Pháp, không
nghi ngờ và không hay biết âm mưu và thủ đoạn của Việt Minh và đảng CSĐD. Nhóm
nầy bị Việt Minh cộng sản thanh lọc năm 1949 sau khi Việt Minh bắt đầu khá mạnh
nhờ nhận viện trợ của Trung Cộng.
Nhóm
thứ tư ở thành thị gồm những người có cảm tình và theo Việt Minh, hay đảng viên
CSĐD. Nhóm nầy tuy ít nhưng hăng hái, tích cực, chấp nhận gian khổ, tranh đấu
vì lý tưởng chủ nghĩa cộng sản.
Khi
trở lui Việt Nam, Pháp dùng chiến thuyền đổ quân vào các hải cảng, đánh chiếm
trước các thành phố duyên hải. Từ đó, Pháp mở rộng vùng kiểm soát. Pháp để yên
cho dân chúng sinh sống trong vùng Pháp chiếm đóng nếu không chống Pháp, không
làm hại đến an ninh. Vì vậy, sau khi Pháp ổn định các thành phố, thì nhiều người
hồi cư về thành phố, tránh chiến tranh, nhứt là từ năm 1949, khi chính phủ Quốc
Gia Việt Nam được thành lập và cũng là lúc Việt minh mở những cuôc thanh trừng
nội bộ, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản.
Từ
đó, thành phố càng ngày càng đông đúc. Ví dụ điển hình, trước chiến tranh, Chợ
Lớn có 500,000 dân. Năm 1949, Chợ Lớn có 1,500,000 dân. (Trần Trọng Kim, Một
cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 173.)
Nông
thôn và miền núi
Dân
nông thôn chiếm đại đa số trong tổng dân số Việt Nam, gồm nhiều thành phần: chủ
đất (dịa chủ), nông dân, tá điền (cày thuê), thợ thủ công (mộc, nề, dệt, gốm…),
buôn bán nhỏ, làm công (giúp việc). Nông thôn ít trường học, có vùng không có
trường học, nhứt là miền núi, nên trình độ văn hóa trung bình thấp, nhiều người
mù chữ, dễ bị tuyên truyền, dụ dỗ. Đất đai là tài sản của dân nông thôn, không
di dời được, nên dân chúng phải bám đất mà sống, ở yên tại chỗ, dù không theo cộng
sản cũng bị cộng sản khống chế, nên phải tuân theo lệnh của cộng sản để sống.
Nông
thôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống: 1) Về kinh tế, nông thôn cung cấp
lúa gạo, thực phẩm cho thành phố, kể cả cung cấp thực phẩm nuôi quân và cán bộ
Việt Minh. 2) Về quân sự, Việt Minh dùng nông thôn và vùng rừng núi làm hậu cứ,
lập hầm bí mật để trốn tranh. Việt Minh ngụy trang thành nông dân, trà thộn ở
nông thôn. Nông dân là nguồn nhân lực cung cấp lính cho Việt Minh. Nhờ đi lại với
thành phố, nông dân còn cung cấp tin tức tình báo và quân sự cho Việt Minh. Việt
Minh kiểm soát chặt chẽ dân cư nông thôn, đoàn ngũ hóa dân chúng, huấn luyện
dân quân, thi hành kế hoạch của Trung Cộng: Lấy nông thôn bao vây thành thị.
Quân
đội Liên Hiệp Pháp không thể kiểm soát tất cả nông thôn khắp nước, mà chỉ đóng
quân trong các căn cứ, ở các thị trấn, rồi mở những cuộc hành quân tảo thanh Việt
Minh. Quân Liên Hiệp Pháp (Pháp, Bắc Phi) khác chủng tộc, khác ngoại hình, dễ bị
nhận biết, nên hành quân đến đâu, dân chúng biết ngay. Dân chúng bắt buộc phải báo
tin cho Việt Minh vì nếu không sẽ bị Việt Minh trừng trị ngay. Khi quân Liên Hiệp
Pháp rút về căn cứ, Việt Minh trở lại hoạt động, nhứt là ban đêm. Việt Minh tổ
chức kiểm điểm và xét xử. Những ai bị tố cáo là “Việt gian”, tiếp tay cho Pháp,
sẽ bị tử hình. Nhờ khủng bố một cách sự tàn ác, Việt Minh khống chế được dân
nông thôn theo lệnh của Việt Minh.
Kết
luận
Như
thế, hai yếu tố trên đây (nguyên nhân chiến tranh và thành phần dân chún đủ cho
thấy chiến tranh 1946-1954 là cuộc chiến giữa Việt Minh cộng sản với Pháp, chứ
không phải giữa toàn dân Việt Nam với Pháp. Đó là vì Việt Minh bị Pháp dồn vào
thế cùng, nên Việt Minh đánh Pháp để trốn chạy khỏi Hà Nội. Không phải toàn dân
chống Pháp, vì phần lớn dân chúng tìm đến vùng an ninh, nhứt là các thành phố đề
sinh sống. Dân chúng nông thôn không chạy được, phải bám đất để cày bừa, dầu
không theo Việt Minh vẫn bị Việt Minh kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ.
Vì
vậy, không thể gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt-Pháp, mà nên gọi
cho đúng sự thật là chiến tranh giữa Việt Minh và đảng Cộng sản Đông Dương với
Pháp. Lúc đầu Việt Minh thua chạy. Đến năm 1949, Trung Cộng thành công ở Trung
Hoa. Trung Cộng bắt đầu viện trợ dồi dào cho Việt Minh, làm thay đổi cuộc diện
chiến tranh...
29.04.2018
Trần
Gia Phụng
Comments
Post a Comment