SỰ THẬT VỀ “NGƯỜI QUỐC GIA”
Trong sinh hoạt chính trị của
người Việt chống Cộng, cụm từ “Người Quốc Gia” đã được dùng để phân biệt với
“Người Cộng Sản” .
“Người Quốc Gia” là những người
chống "Người Cộng Sản", họ đã vạch ra “lằn ranh Quốc/Cộng” và dương
cao ngọn cờ này.
“Người Cộng Sản” VN còn gọi là “Việt Cộng”
hay “VC" (Vi-Xi).
VC hay Người Cộng Sản Việt Nam
đã được Rand Corporation, một cơ quan nghiên cứu cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ nhằm
phục vụ CHIẾN TRANH VN đã đưa ra kết luận nghiên cứu như sau: Việt Cộng là những
người tận tụy chiến đấu cho Độc Lập, Chủ Quyền và Tự Do của Quốc Gia Việt Nam,
muốn thắng họ thì phải trả một cái giá rất lớn”. Như vậy, một thuộc tính của
“Người Cộng Sản VN” đã được nghiên cứu một cách khoa học bởi một cơ quan nghiên
cứu có uy tín lớn như Rand Corporation của Hoa Kỳ là: “tận tụy chiến đấu cho Độc
Lập, Chủ Quyền và Tự Do của Việt Nam”.
“Người Cộng Sản VN” đã coi Độc
Lập và Tự Do là những giá trị thiêng liêng nhất không có gì quý bằng, giống như
nhân dân Hoa Kỳ cũng đã chiến đấu và hi sinh cho một giá trị không có gì cao
quý hơn là Độc Lập và Tự Do mà Tổng Thống Donald Trump đã tái khẳng định một lần
nữa trong diễn văn ở Hội Nghị Apec 2017 ở Đà Nẵng Việt Nam.
Trong khi đó, “Người Quốc Gia”
đã đối xử với giá trị Độc Lập và Tự Do thiêng liêng của quốc gia VN ra sao?
Để hiểu rõ, chúng ta hãy trở lại
với sự thật lịch sử và xem xét nguồn gốc của sự xuất hiện cụm từ “Người Quốc
Gia”.
I). “Người Quốc Gia” trong Chiến
Tranh Đông Dương giai đoạn 1:
Nước Việt Nam đã bị thực dân
Pháp đô hộ trong gần 100 năm. Đến Thế Chiến 2, vào năm 1940, nước Pháp bị Đức
Quốc Xã chiếm đóng, Đế Quốc Nhật (là đồng minh của Đức) cũng chiếm đóng Việt
Nam, người Pháp ở Việt Nam ở thế yếu và buộc phải phục tùng người Nhật. Vào giữa
năm 1944 đến tháng 2 1945, quân xâm lăng Đức bị đuổi ra khỏi nước Pháp; Chính
Phủ lưu vong De Gaulle được Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô công nhận là Chính Phủ
Lâm Thời của nước Pháp; Nhật cảm thấy không an tâm với tình hình đó nên ngày 9
tháng 3 1945 đã bắt giam người Pháp ở Việt Nam, đồng thời lập ra Đế Quốc Việt
Nam rồi giao cho ông vua Bảo Đại làm quốc trưởng và ông Trần Trọng Kim làm thủ
tướng ngay 2 ngày sau đó [1]. Trong bối cảnh đó, dĩ nhiên Bảo Đại và Trần Trọng
Kim chỉ là những quốc trưởng và thủ tướng bù nhìn không có thực quyền; thực chất,
họ chỉ là tay sai của Nhật. Nhưng, cái Đế Quốc Việt Nam bù nhìn tay sai đó của
Nhật cũng chỉ tồn tại khoảng 5 tháng. Ngày 15 tháng 8 1945, Nhật Hoàng tuyên bố
đầu hàng quân đồng minh sau khi bị 2 quả bom nguyên tử của Mỹ; 4 ngày sau, ngày
19 tháng 8 1945, “Người Cộng Sản VN” đã
tổ chức thành công việc cướp được chính quyền từ tay người Nhật và tuyên bố Việt
Nam Độc Lập vào 2 tuần sau đó tức là ngày 2 tháng 9 1945.
Như vậy :
• Chủ Quyền Quốc Gia đã hoàn toàn thuộc về
người Việt kể từ ngày 19/8/1945, Việt Nam đã là Quốc Gia Độc Lập không lệ thuộc
bất cứ một đế quốc nào kể từ 2/9/1945. Trên thực tế, nước Việt Nam thực sự đã Độc
Lập và có Chủ Quyền từ mốc lịch sử quan trọng này sau gần 1000 năm triều cống
giặc Tầu và gần 100 năm nô lệ giặc Pháp.
Nhưng, thực dân Pháp vẫn nuôi
ý đồ thống trị Việt Nam từ tuyên bố ngày 24 tháng 3 1945 của Chính Phủ Lâm Thời
De Gaulle và Hiến Pháp 1946 của họ về Đông Dương thuộc Liên Hiệp Pháp. Thật là
kinh tởm và bôi bác cho đạo đức của nước Pháp. Được cho là đi đầu trong các giá
trị Tự Do Dân Chủ, nhưng nước Pháp lại hiến pháp hóa việc chà đạp Tự Do Dân Chủ
của những quốc gia khác bằng ý đồ thống trị !
Với ý đồ xâm lăng đã được hiến
pháp hóa, thực dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn để trở lại tái chiếm Việt Nam, Lào
và Cam Bốt.
Ngày 6 tháng 9 1945, tức là chỉ
4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, quân đội Anh đã đến Saigon trong nhiệm
vụ giải giới quân Nhật. Nhưng Anh lại cho quân Pháp theo vào (? !). Tại sao lại
có chuyện kỳ quái như vậy? Pháp lấy cớ gì để được quân Anh cho theo vào? Pháp
làm gì có tàu bè để đưa binh sĩ từ Pháp sang Việt Nam sau khi đã kiệt quệ vì vừa
bị Đức chiếm đóng? -Có một cách giải thích rằng, vì được Pháp nhượng bộ những
quyền lợi ở Trung Đông nên Anh ủng hộ Pháp tái chiếm Đông Dương trong đó bao gồm
tái chiếm Việt Nam.
Nhưng, tại sao lại không thể
coi sự ủng hộ đó là một nước cờ bí hiểm của giới chính trị Mỹ và Anh nhằm khai
thác quyền lợi ở các cuộc Chiến Tranh Đông Dương đã được hoạch định bởi những
viện nghiên cứu chiến lược được điều khiển bởi giới tài phiệt đế quốc siêu quyền
lực? –Bởi lẽ, suy cho cùng thì Pháp cũng chỉ là nạn nhân của âm mưu này khi mà
nước Pháp sống sót sau Thế Chiến 2 vẫn còn yếu đuối nhưng lại quá nhiều tham vọng,
để rồi sau đó đã phải nhận tài trợ của Mỹ đến khoảng 80% chiến phí. Sự lệ thuộc
vào quá nhiều vào viện trợ Mỹ đã khiến cho ông Tướng Navarre của Pháp phải thú
nhận trong hồi ký về một sự thật nhục nhã của nước Pháp như sau: “Vị thế của nước
Pháp chúng ta đã chuyển thành một kẻ đánh thuê cho Mỹ”.
Lưu ý rằng: Vì Mỹ đã chi trả đến
80% chiến phí cho Pháp để xâm lăng Việt Nam và Đông Dương, cho nên đối với lịch
sử của Mỹ, cuộc chiến xâm lăng của Pháp và Mỹ trong giai đoạn này còn gọi là
Chiến Tranh Đông Dương giai đoạn 1. Gọi là giai đoạn 1 để phân biệt với giai đoạn
2 sau năm 1954 trong đó Mỹ hoàn toàn nắm quyền chủ động cuộc chiến.
Nhìn lại đoạn lịch sử này về
những mưu tính của các cướng quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tầu, Nhật, …trên quyền lợi của
dân Việt Nam, dân Việt chúng ta phải nhận rõ một sự thực rằng “Chẳng có một ngoại
bang nào thương yêu dân Việt mình, nhưng họ chỉ vì quyền lợi mà mưu hại dân
mình qua những chiêu bài bánh vẽ Công Lý, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền. Vậy, dân
Việt Nam hãy tỉnh thức: Phải giành Độc Lập và Chủ Quyền thì mới có thể Tự Do
xây dựng các quyền lợi Dân Chủ và Nhân Quyền cho chính dân Việt Nam chúng ta”.
Như vậy, chắc chắn rằng :”Những
kẻ nào cầu viện đến ngoại bang để xin sỏ hoặc tranh đấu cho Nhân Quyền và Dân
Chủ thì đều là những kẻ hoặc là ngây thơ ngu ngốc về kiến thức Nhân Quyền, Dân
Chủ; hoặc là những kẻ manh tâm làm tay sai cho ngoại bang để tấn công vào những
quyền lợi và Chủ Quyền quốc gia của Việt Nam”
(Mong rằng nhận định vì đất nước
và dân tộc VN trên đây được ông Giám Mục Nguyễn Thái Hợp của địa phận Vinh suy
nghĩ khi ông đã đi vận động nhân quyền cho VN nơi các thế lực ngoại bang).
Ngày 23 tháng 9 1945, Pháp nổ
súng chiếm quyền kiểm soát Saigon với sự giúp đỡ của Anh. Dân Việt đã chống lại
và gọi đó là “Ngày Nam Bộ Kháng Chiến”.
Ngày 3 tháng 10 1945, 10 ngàn
quân Pháp do tướng Leclerc chỉ huy đổ bộ Saigon. Một tuần sau, ngày 9 tháng 10
1945, Anh và Pháp ký thỏa hiệp theo đó Anh ủng hộ quyền cai trị của Pháp ở Đông
Dương. Ngay đêm hôm sau, 10 tháng 10 1945, bộ đội VN tấn công phi trường Tân
Sơn Nhất, giao chiến với quân Anh và Pháp tại các cửa ngõ vào Saigon. Anh yêu cầu
Nhật tham chiến. Nhật đồng ý. Trước sự kiện này, Đại Tướng Mỹ McAthur phản ứng:
“Điều làm cho máu tôi giận sôi lên là việc các nước Đồng Minh của chúng ta ở
Đông Dương và Java sử dụng quân Nhật để đàn áp các dân tộc nhỏ bé mà chúng ta
đã hứa giải phóng. Đó là một sự phản bội kinh tởm nhất".
Sự đời là thế: Thân phận tuy
là Đại Tướng, nhưng ông MacAthur cũng chỉ được phép chơi ở bàn cờ nhỏ, ông
không được phép chơi và biết các thế cờ lớn ở bàn cờ lớn của các nhà chính trị!
Lời hứa của các nhà chính trị chỉ là hứa để qua sông là chuyện bình thường!
Ngày 28 tháng 2 1946, Pháp và
Tầu Quốc Gia (hay Trung Hoa Dân Quốc) ký Hiệp Ước theo đó Tầu rút khỏi Bắc Việt
Nam để cho Pháp vào giải giới Nhật. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 1946, Hiệp Định
Sơ Bộ Pháp Việt được ký, theo đó:
. Pháp công nhận nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa là quốc gia tự do thuộc Liên Hiệp Pháp có chính phủ, nghị viện,
quân đội và tài chính riêng.
. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đồng
ý cho 15 ngàn quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế 200 ngàn quân Tầu để làm
nhiệm vụ giải giới quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm.
Thực chất, 2 phía ký Hiệp Định
Sơ Bộ đều có những mưu đồ riêng: Pháp thì lợi dụng được đem quân ra Bắc để tiếp
tục mưu đồ xâm chiếm. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì chấp nhận chọn lựa đối phó
với Pháp còn hơn là đối phó với 200 ngàn quân Tầu, đồng thời sau đó cũng sẽ dễ
dàng đối phó với các đảng phái phản quốc vì đã dựa vào hơi Tầu làm cản trở nền
Độc Lập.
Tháng 11 1946, Pháp tấn công
và chiếm Hải Phòng. Tháng 12 1946, Pháp gây áp lực Hà Nội. Sáng ngày
20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trên khắp
đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Pháp để
giành Độc Lập của Việt Nam đã kéo dài 9 năm, kết thúc với chiến thắng Điện Biên
Phủ 1954 và Hiệp Định Geneve 1954.
Nhưng trong khi dân Việt Nam
kháng chiến chống ách đô hộ của Pháp thì thực dân Pháp đã thâm độc đề ra giải
pháp Bảo Đại. Đó là giải pháp theo đó thành lập Quốc Gia Việt Nam và giao cho
ông cựu hoàng đế Bảo Đại hay công dân Vĩnh Thụy của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
làm quốc trưởng. Thực chất của giải pháp Bảo Đại là nhẳm để che dấu sự chiếm
đóng của Pháp và tạo ra một bộ máy tay sai bản xứ. Cái gọi là Quốc Gia Việt Nam
độc lập với quốc trưởng Bảo Đại do thực dân Pháp tạo ra trong bối cảnh đó chắc
chắn chỉ là bù nhìn tay sai, không hề có thực quyền vì vẫn phải lệ thuộc Pháp về
quân sự, ngoại giao và kinh tế tài chánh.
Kỳ lạ : Kể từ Thế Chiến 2, khi
chiếm đóng Việt Nam, ngoại bang thường có một sách lược chung là tạo ra một quốc
gia Việt Nam bù nhìn để làm bình phong che dấu sự chiếm đóng, nhưng tại sao họ
luôn luôn chọn Bảo Đại làm quốc trưởng của các quốc gia bù nhìn đó ? Từ Đế Quốc
Việt Nam thời Nhật, qua Quốc Gia Việt Nam thời Pháp, đến Việt Nam Cộng Hòa thời
Mỹ, quốc trưởng của những quốc gia hư cấu đó vẫn luôn luôn là Bảo Đại !
Một năm sau ngày toàn quốc
kháng chiến, ngày 7 tháng 12 1947, Bảo Đại và Pháp ký Hiệp Định Hạ Long theo đó
Pháp cam kết mập mờ Độc Lập cho Quốc Gia Việt Nam.
Sự kiện Hiệp Định Hạ Long thật
là một trò hề lố bịch của Pháp : Nếu coi cựu hoàng Bảo Đại là công dân Vĩnh Thụy*
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì Hiệp Định Hạ Long ký với công dân Vĩnh
Thụy hoàn toàn vô giá trị. Nếu coi Bảo Đại là Quốc Trưởng của Đế Quốc Việt Nam
do quân Nhật tạo ra để ký Hiệp Định thì trước hết Pháp phải đem xử tội Bảo Đại
đã hợp tác với Nhật theo Tuyên Bố Cairo ngày 27/11/1943, là tuyên bố theo đó “Sẽ
không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế Quốc Nhật thành lập tại các lãnh thổ
chiếm đóng” [1]. Trong khi đó, so sánh với nước Pháp khi chiếm lại đất nước từ
quân chiếm đóng Đức Quốc Xã trong Thế Chiến 2, đã có hơn 1600 thành viên của
Chính Phủ Vichy hợp tác với quân Đức bị Chính Phủ De Gaulle xử tử hình; cả Thống
Chế Petain, người đã từng là anh hùng của nước Pháp trong thế chiến 1, nhưng vì
là Thủ Tướng của Chính Phủ Vichy, ông cũng bị xử lưu đày chung thân ở một hòn đảo
xa ngoài khơi Đại Tây Dương.
*Ngày 25/8/1945 Bảo Đại thoái
vị và tuyên bố “Thà làm dân của một nước độc lập còn hơn là làm vua một nước nô
lệ”
Đặc biệt lưu ý trong trò hề lố
bịch tạo ra cái Quốc Gia Việt Nam lừa đảo đó lại có sự ủng hộ của Mặt Trận Thống
Nhất Quốc Gia Liên Hiệp gồm Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng,
…..Điều này đã chứng tỏ rằng, các giới
chức lãnh đạo đảng phái và tôn giáo ở Việt Nam đã có một nhận thức rất yếu kém
về chính trị và chủ quyền đất nước: Họ đã mừng rỡ nhận lấy một “Quốc Gia Việt
Nam” độc lập giả tạo được giặc Pháp ban cho, nó chẳng những đã không có thực
quyền mà lại còn giúp cho giặc Pháp ngụy trang sự thống trị Việt Nam. Đó chính
là một trường hợp mà các giới chức lãnh đạo đảng phái và tôn giáo VN đã tiếp
tay bán nước cho ngoại bang mà họ vẫn cứ tưởng rằng đang yêu nước!
Ngày 5 tháng 6 1948, Bảo Đại
và Pháp lại ký Hiệp Định Hạ Long thứ 2, theo đó Pháp long trọng công nhận Độc Lập
của Việt Nam nhưng lại lừa bịp bằng việc giữ quyền ngoại giao và quốc phòng,
trì hoãn việc chuyển giao các quyền hành khác bằng cách chuyển sang những đàm
phán khác trong tương lai.. Thế là coi như kết cục cũng chẳng được gì mà lại
còn giúp cho giặc Pháp có thêm cơ sở pháp lý để đô hộ Việt Nam!
Ngày 8 tháng 3 1949, Bảo Đại
ký với Pháp Hiệp Ước Elyseé theo đó thành lập Quốc Gia Việt Nam là quốc gia Độc
Lập trong Liên Hiệp Pháp với Bảo Đại là Quốc Trưởng. Nhưng đó cũng chỉ là chiêu
bài bởi vì quân sự, ngoại giao, tài chánh đều do Pháp nắm giữ.
Sử gia Trần Trọng Kim (Nguyên
Thủ Tướng của Đế Quốc Việt Nam thời Nhật chiếm đóng) gọi sự độc lập của Quốc
Gia Việt Nam do Pháp tạo ra chỉ là “cái cũi chó mạ vàng”.
Nhưng, “Quốc Gia Việt Nam” độc
lập hay cái “cũi chó mạ vàng” đó cũng cần phải có Chính Phủ và Quân Đội mang
tên Quốc Gia để ngụy trang. Thế là, Chính Phủ Quốc Gia và Quân Đội Quốc Gia ra
đời để phục vụ cho giặc Pháp, được đặt dưới quyền điều hành và sai khiến của giặc
xâm lăng Pháp chống lại “Người Cộng Sản” trong cuộc chiến giành Độc Lập thiêng
liêng của dân tộc Việt Nam. Hậu quả là hơn 3 ngàn binh lính của cái Quân Đội Quốc
Gia VN tay sai đã bị bắt cùng với hơn 13 ngàn tù binh Pháp ở trận Điện Biên Phủ
1954.
Như vậy, trong giai đoạn lịch
sử của cuộc kháng chiến chống Pháp để giành Độc Lập (hay giai đoạn 1 của Chiến
Tranh Đông Dương xét theo lịch sử Mỹ): Chính Phủ Quốc Gia, Quân Đội Quốc Gia,
nói chung là "Người Quốc Gia" chính là tay sai của giặc Pháp, là những
kẻ phản quốc đi theo giặc Pháp chống lại quyền Độc Lập thiêng liêng của dân tộc
Việt Nam. Đó là sự thật lịch sử.
Lưu ý thêm rằng : Các giáo
phái và các đảng phái trong giai đoạn lịch sử chống ngoại xâm Pháp đã chứng tỏ
một lý lịch đi theo giặc Pháp, do đó sẽ không thể có sự tin cậy nào vào các
giáo phái và các đảng phái trong các vấn đề tranh đấu cho các quyền lợi của dân
tộc Việt Nam trong tương lai!
Nhưng, thật là một sự lừa gạt
vĩ đại, khôn khéo và cực kỳ thâm hiểm của các thế lực đế quốc Pháp và Mỹ khi chọn
ra một danh xưng mỹ miều “Quốc Gia” để mị dân mà thực chất thì chẳng có tí ý
nghĩa gì là của quốc gia Việt Nam, nhưng lại là công cụ tay sai bản xứ đắc lực
của bọn xâm lăng.
(Sở dĩ phải kể thêm Mỹ vào là
vì: Nếu không Mỹ tài trợ đến 80% chiến phí thì Pháp không thể có khả năng tái
xâm chiếm Việt Nam. Nhưng khi đã lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ, cuối cùng
Pháp đã trở thành lính đánh thuê cho Mỹ như Tướng Navare của Pháp đã chua xót
nhận định).
Pháp thua trận Điện Biên Phủ dẫn
đến Hiệp Định Geneve năm 1954, theo đó đất nước Việt Nam tạm thời chia đôi ở vĩ
tuyến 17 và chờ ngày thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử vào năm 1956.
II). “Người Quốc Gia” trong
Chiến Tranh Đông Dương giai đoạn 2 :
Sau Hiệp Định Geneve 1954, Mỹ,
với sức mạnh vượt trội trên thế giới, đã bảo trợ Miền Nam Việt Nam, đã tiếp quản
những công việc của Pháp ở Việt nam và phù phép biến Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại
làm Quốc Trưởng thành Việt Nam Cộng Hòa và giao cho Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống.
Sự phù phép biến hóa đó cũng được các sử gia chân chính coi như một trò hề dân
chủ, đặc biệt là phù phép “trưng cầu dân ý” để truất phế quốc trưởng Bảo Đại và
biến Ngô Đình Diệm thành Tổng Thống VNCH !
Sau khi đã tạo ra được quốc
gia hư cấu “Việt Nam Cộng Hòa” thuộc quyền sở hữu của riêng mình, Mỹ đã cố vấn
cho Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Gọi là cố vấn hay
ra chỉ thị thì cũng thế thôi, vì Ngô Tổng Thống làm sao mà dám không vâng lời
khi mà toàn bộ linh hồn lẫn thể xác của “quốc gia VNCH” đã hoàn toàn lệ thuộc
vào viện trợ Mỹ để tồn tại! Cũng như sau này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bị
Nixon ép buộc phải ký Hiệp Định Paris 1973 để giết chết VNCH! Đó, số phận của một
đất nước nô lệ bi thảm là như thế!
Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển
cử để thống nhất đất nước, thế là phải nổ ra cuộc chiến giành Độc Lập và Chủ
Quyền của Việt Nam giai đoạn 2.
Đối với Mỹ, cuộc chiến này là
Chiến Tranh Đông Dương giai đoạn 2 vì trước đó Mỹ đã tham gia cùng với Pháp ở
giai đoạn 1 và đã chi trả phần lớn chiến phí cho giai đoạn này. Gọi là Chiến
tranh Đông Dương vì Mỹ cũng gây ra chiến cuộc ở Lào và Cambodia. Nhưng vì Việt
Nam là chiến trường chính cho nên Chiến Tranh Đông Dương giai đoạn 2 còn gọi là
Chiến Tranh Việt Nam..
Ngay từ cái tên gọi Chiến
Tranh Việt Nam (The Vietnam War), sau đó là Việt Nam Hóa Chiến tranh để thay
màu da trên xác chết, nó đã cho thấy đó là cuộc chiến của Mỹ và do Mỹ tạo ra.
Trên thực tế và qua những tài liệu lịch sử đã được Mỹ giải mật, Chiến Tranh Việt
Nam là do Mỹ gầy dựng trong một kế hoạch được tính toán tinh vi và hoàn hảo đến
mức ngay cả một bộ óc cực kỳ thông minh được người đương thời ở Mỹ hết sức ngưỡng
mộ là Bộ Trưởng Quốc Phòng Mc Namara, người được coi là kiến trúc sư của cuộc
chiến, cuối cùng cũng đã cảm thấy bị đánh lừa và đã thú nhận trong hồi ký rằng
đó “sai lầm khủng khiếp” và “chúng ta (Mỹ) đã giết người không cần thiết” [2].
Thật là một sự thực đau đớn và
khủng khiếp chẳng những cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả nhân dân Mỹ lẫn ông
Mc Namara, họ đã bị giết không cần thiết! Kế hoạch lừa đảo tinh vi như thế chỉ
có thể đến từ những Viện Nghiên Cứu Chiến Lược được tài trợ và điều hành bởi giới
Tài Phiệt Đế Quốc Siêu Quyền Lực.
Họ, giới Tài Phiệt Đế Quốc
Siêu Quyền Lực đã nắm quyền bằng cách ảnh hưởng vào các chính quyền, đã sắp đặt
những thành viên vào các chức vụ lãnh đạo trong các chính quyền**, họ không có
tổ quốc cho nên họ không cần quan tâm đến nỗi đau của nhân dân Mỹ hay của nhân
dân Việt Nam, nhưng họ quan tâm đến quyền lực và quyền lợi thâu tóm được từ cuộc
chiến, đó là: Vũ khí lỗi thời tồn kho cần phải thanh toán, cần phải có một bãi
rác chiến tranh thích hợp như VN và Đông Dương, cần phải có chiến trường để thử
nghiệm vũ khí mới, v.v…, tất cả đều nhằm để phục vụ cho quyền lực ngân hàng và
tài chính của họ.
** CFR (thành lập năm 1921) và
FED (thành lập năm 1913) là thí dụ về sự hiện hữu của tổ chức Siêu Quyền Lực.
CFR (Council on Foreign
Relations hay Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại) là một tổ chức tư nhân nhưng có rất
nhiều những lãnh đạo cao cấp của các chính phủ Mỹ thuộc cả 2 đảng Dân Chủ và Cộng
Hòa đều là thành viên của CFR
. Các Nghị Sĩ John McCain,
John Kerry,…
. Các Bộ Trưởng John Foster
Dulle, Henry Kissinger, Robert McNamara, James Baker,Collin Powell, Robert M
Gates, Madelaine Albriggt, Condoleeza Rice,
Hillary Clinton, …
. Giám Đốc CIA Allen Dulles,
Michael Hayden, …
. Các Phó Tổng Thống Joe
Biden, Dick Cheney, …
. Các Tổng Thống Gerald Ford,
Jimmy Carter, George H.W. Bush, Bill Clinton, …
Đặc biệt, Paul Warburg, một
ông chủ ngân hàng, là thành viên CFR nhưng trước đó lại là một lý thuyết gia
trong những người sáng lập ra FED (Cục Dự Trữ Liên Bang hay Federal Reserve). Cục
Dự Trữ Liên Bang tuy là một tổ chức tư nhân nhưng có quyền kiểm soát tiền tệ của
nước Mỹ được qui định bởi Hiến Pháp vào năm 1913, đó là một siêu quyền lực. Dấu
hiệu này cho thấy CFR được dùng để phục vụ cho FED.
Trong Chiến Tranh Việt Nam hay
Chiến Tranh Đông Dương 2, chính xác là Mỹ đã trực tiếp điều hành cuộc chiến.
Cũng giống như giặc Pháp, Mỹ cũng tạo ra một chính quyền hữu danh vô thực Việt
Nam Cộng Hòa để ngụy trang cho thực chất chủ nhân ông của Mỹ [3]. Điều này đã
được chính miệng của ông cựu Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu xác nhận trong một
video phỏng vấn ngày 16/6/1990 tại California: VNCH đã bị nô lệ vào viện trợ (của
Mỹ)
Link :
https://www.youtube.com/watch?v=vKpswWEg-MQ
VNCH nô lệ vào viện trợ nghĩa
là gì? -Nghĩa là VNCH sẽ chết nếu Mỹ cắt viện trợ. Nghĩa là VNCH lệ thuộc hoàn
toàn vào viện trợ Mỹ như đứa bé sơ sinh lệ thuộc vào sữa mẹ. Nghĩa là Mỹ gọi bảo
thì phải dạ phải vâng, không được cãi, nếu cãi thì bị cắt viện trợ. Vậy mà
không hiểu nổi tại sao lại có những kẻ tự nhận là yêu nước nhưng lại cứ tiếc nuối
và cố níu kéo cái thời nô lệ viện trợ nhục nhã đó? !
Nếu có một đất nước có một đạo
quân 500 ngàn binh lính Mỹ thường trực trú đóng và vũ khí cũng như tiền lương của
quân đội bản xứ đều do Mỹ chi trả thì một người dù có ngây thơ ngu dại nhất
cũng phải thấy rằng chủ quyền của đất nước đó đã bị mất và đã thuộc về Mỹ;
chính quyền và quân đội của đất nước đó chỉ là bù nhìn tay sai của Mỹ. Là bù
nhìn tay sai của ngoại bang thì rành rành đó là bán nước, là phản quốc! Vâng, sự
thật là đã có một đất nước như thế, đó chính là quốc gia hư cấu Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH)
Nhưng, VNCH chỉ là một biến thể
từ cái Quốc Gia VIệt Nam do Pháp tạo ra. Chính quyền và quân đội VNCH là tiếp nối
của chính quyền và quân đội Quốc Gia do Pháp để lại***. Do đó, người của VNCH
thời Mỹ cũng là “Người Quốc Gia” tay sai thời Pháp. Vậy thì, trong giai đoạn 2
của Chiến Tranh Đông Dương hay Chiến Tranh giành Độc Lập và Thống Nhất đất nước,
“Người Quốc Gia” lại cũng là những người phản quốc đã đi theo giặc ngoại bang
và phản lại quyền lợi Độc Lập thiêng liêng của Tổ Quốc Việt Nam.
*** Ông cựu Tổng Thống VNCH
Nguyễn Văn Thiệu, từ năm 1949 đến 1954, đã từng cùng với giặc Pháp chống lại
công cuộc kháng Pháp giành Độc Lập của dân tộc Việt Nam. Trong những năm
đó, ông Thiệu đã ở trong chức vụ từ Thiếu
Úy đến Thiếu Tá của Quân Đội Quốc Gia. Ông đã từng ở các mặt trận Hưng Yên,
Ninh Thuận và đã từng được huấn luyện quân sự ở Pháp. Năm 1954, ông Nguyễn Văn
Thiệu là Thiếu Tá Tiểu Khu Trưởng tỉnh Ninh Thuận.
Trong Chiến Tranh giành Độc Lập
và Thống Nhất đất nước: Quân Đội Quốc Gia đổi tên thành Quân Đội VNCH, năm
1955, ông Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp Trung Tá và giữ chức Chỉ Huy Trưởng
Trường Võ Bị Đà Lạt. Từ năm 1957 đến 1959, ông Thiệu lại được huấn luyện tại
nhiều trường quân sự ở Mỹ và Nhật. Ông Thiệu đã được thăng cấp Đại Tá năm 1959,
Thiếu Tướng năm 1963, Trung Tướng năm 1965
Cuộc đời binh nghiệp của ông cựu
Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu như thế (cũng như cuộc đời binh nghiệp của nhiều
tướng lãnh cao cấp khác của VNCH như Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên,v.v…) đã chứng tỏ Quân Đội VNCH chỉ là sự
tiếp nối của Quân Đội Quốc Gia tay sai của giặc Pháp.
Ông Phan Huy Quát đã từng là Bộ Trưởng Giáo Dục
năm 1949, rồi Bộ Trưởng Quốc Phòng từ 1950 đến 1954 của Quốc Gia Việt Nam thuộc
Pháp. Nhưng sau đó, ông Quát lại là Thủ Tướng VNCH năm 1965. Điều này chứng tỏ
Việt Nam Cộng Hòa chỉ là sự tiếp nối của Quốc Gia Việt Nam bù nhìn tay sai của
giặc Pháp.
Một chính quyền và quân đội
như VNCH mà những nhà lãnh đạo đều là những kẻ có lý lịch từng là tay sai và
bán nước cho giặc Pháp, sau đó là Mỹ thì có thể nào tin cậy vào họ để đại diện
cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam được không? - Câu trả lời của lịch sử chân
chính mai sau chắc chắn sẽ là KHÔNG.
III). Kết luận:
Độc Lập, Tự Do là những giá trị
thiêng liêng nhất của mọi quốc gia trên thế giới. Chính Tổng Thống Mỹ Donal
Trump cũng đã tái khẳng định giá trị thiêng liêng cao quý nhất của Hoa Kỳ là Độc
Lập và Tự Do.
Chỉ có Độc Lập mới có Tự Do, từ
đó mới có thể có Dân Chủ và Nhân Quyền.
Vậy: Những kẻ không coi trọng
Độc Lập quốc gia nhưng lại tự nhân danh yêu nước để tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ
hay Nhân Quyền thì đó chỉ là những kẻ hoặc là lừa đảo, hoặc là ngu dốt đi theo.
“Người Quốc Gia” đã từng không
coi trọng Độc Lập của quốc gia VN và đã từng là tay sai bán nước như đã dẫn chứng
trên đây. Vậy, nếu nhân danh “Người Quốc Gia” để tranh đấu cho Nhân Quyền, Dân
Chủ và Tự Do thì đó cũng chỉ là những kẻ
hoặc là ngu dốt a dua, hoặc là những kẻ lừa đảo trên sự vô minh của môt bộ phận
dân Việt Nam.
Khách Quan (8 Feb 2018)
[1]. SỰ THẬT VỀ “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM”
(20 Nov 2017)
ĐẾ QUỐC VIỆT NAM là tên mà Đế
Quốc Nhật đặt cho khi “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Nó chỉ tồn tại trong vài
tháng, từ tháng 3 đến tháng 8 1945.
Ngày 9/3/1945, Nhật “đảo
chánh” Pháp và “trao trả độc lập” cho Việt Nam. Ngày 11/3, Hoàng Đế Bảo Đại ra
“Tuyên Ngôn Việt Nam Độc Lập”.
Đấy là lịch sử mà học sinh thời
Việt Nam Cộng Hòa được dạy và được học ! Học sinh chúng tôi thời ấy, còn trẻ
con, đâu biết gì, được cho ăn bánh vẽ, cứ nghe thấy được độc lập sau 100 năm bị
Pháp đô hộ thế là vui, thế là thấy Nhật tốt quá và nể phục!
Sau này có được tí trí khôn mới
thấy : Dạy lịch sử cho dân mà dạy như thế thì các Chính Quyền Việt Nam Cộng Hòa
quả là chỉ muốn làm ngu dân, chỉ muốn binh vực và che dấu cái bản chất bán nước
và tay sai của Bảo Đại và của chính mình. Lịch sử được dạy không hề cho biết Nhật
đã sở hữu nền Độc Lập của Việt Nam từ lúc nào để có thể sau đó “trao trả”, mà
có thực sự tao trả hay không !
Độc Lập được sao khi mà nội
các Trần Trọng Kim thành lập ngày 17/4/1945 không hề có Bộ Trưởng Quốc Phòng, một
bộ then chốt của nền Độc Lập. Bởi lẽ, quân đội do Nhật nắm giữ !
Độc Lập được sao khi mà nạn
đói năm 1945 làm chết hàng triệu người Việt Nam ở miền Bắc là do chính sách tàn
bạo của Nhật: ĐẾ QUỐC VIỆT NAM với Chính Phủ Trần Trọng Kim vì bản chất bù nhìn
tay sai cho nên đã không dám làm gì người Nhật khi mà dân chết đói hàng triệu
người la liệt chung quanh các kho đầy ắp gạo của quân Nhật ! Vì là bù nhìn tay
sai cho nên ĐẾ QUỐC VIỆT NAM với Chính Phủ Trần Trọng Kim cũng đã không thể làm
được gì người Nhật khi mà những phương tiện chuyên chở lúa gạo từ miền Nam dư
thừa ra miền Bắc đang đói kém đều nằm trong tay người Nhật !
Related image
Độc lập được sao khi mà dân
thì đang chết đói bởi sự tàn bạo của người Nhật còn Tuyên Ngôn của Hoàng Đế Bảo
Đại lại nói Việt Nam tin cậy vào Nhật, sẽ đem tài lực giúp cho Đế Quốc Đại Đông
Á của Nhật, sẽ quyết chí đem hết tài sản đất nước Việt Nam “hợp tác” với Nhật.
“Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự
tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung
của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.
Vậy Chính phủ Việt Nam một
lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật,
đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên” (Bảo Đại, Tuyên
Ngôn Độc Lập 11/3/1945)
“Hợp tác” hay phục tùng Đế Quốc
Nhật đâu có gì khác nhau trong trường hợp của ĐẾ QUỐC VIỆT NAM. Thế mới biết,
chiêu bài “Độc Lập”, “hợp tác”, “thịnh vượng chung”, “Đại Đông Á”, … thật là dễ
lừa bịp dân ngu.
Sau đó, nội các của Thủ Tướng
Trần Trọng Kim còn ra tuyên cáo chẳng những nhắc lại sự phục tùng Đế Quốc Nhật
mà còn nhắn bảo quốc dân Việt Nam phải gắng sức và hi sinh phục vụ người Nhật :
“quốc dân phải gắng sức làm việc,
chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản
trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có
thành thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua”.
Chỉ với những dữ kiện trên đây
thôi cũng đủ để nói rằng “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” với Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ
Trần Trọng Kim chỉ là một thứ bù nhìn và tay sai của Đế Quốc Nhật.
Nhưng, để hiểu rõ hơn, chúng
ta hãy nhìn vào bối cảnh ra đời của một tổ chức bù nhìn tay sai của Nhật gọi là
“ĐẾ QUỐC VIỆT NAM”. Đó là :
. Ngày 9/3/1945, Nhật “hất”
Pháp ra khỏi hệ thống cai trị Việt Nam.
. Ngày 10/3/1945, Nhật giao trả
độc lập cho Việt Nam.
. Ngày 11/3/1945, Hoàng Đế Bảo
Đại của “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” ra Tuyên Ngôn Độc Lập. Tức là chỉ 2 ngày sau khi Nhật
“hất” Pháp ra, chỉ 1 ngày sau khi Nhật “trao trả độc lập”. Như vậy, bản Tuyên
Ngôn đó nếu không do Nhật chuẩn bị từ trước e rằng Hoàng Đế Bảo Đại không thể
soạn ra trong thời gian ngắn 1 ngày sao cho đáp ứng với yêu cầu của Nhật.
Nhật “hất’ Pháp ra chứ không
“đảo chánh” gì cả. Bởi lẽ trong Thế Chiến 2 :
. Nhật và Đức là đồng minh của
nhau.
. Trong cùng một năm 1940, Nhật
chiếm đóng Việt Nam, Pháp đầu hàng Đức bởi chính phủ Petain.
. Như vậy, dùng bộ máy cai trị
sẵn có của Pháp ở Việt Nam để phục vụ là quá tốt, Nhật thấy không cần thay đổi.
Nhưng, những biến chuyển dồn dập
về quân sự và chính trị của thế chiến 2 từ giữa năm 1944 đến đầu năm 1945 đã
khiến cho Nhật phải đổi thái độ với Pháp :
. Tháng 6 1944, phe đồng minh
đổ bộ vào Normandy của Pháp
. Tháng 8 1944, giải phóng Miền
Nam Pháp khỏi sự chiếm đóng của Đức.
. 25/8/1944, giải phóng Paris
. 23/10/1944, Hoa Kỳ, Anh Quốc
và Liên Xô công nhận Chính Phủ Cộng Hòa Lâm Thời Pháp của Tướng De Gaulle
. 23/11 /1944, giải phóng
Strasbourg ở biên giới phía Tây của nước Đức.
. Tháng 2 1945, với sự giúp đỡ
của Quân Đoàn Mỹ 21 (US 21 Corps), Đạo Quân Thứ Nhất của Pháp (1st French Army)
đã dọn sạch quân Đức ở bờ Tây sông Rhine phía Nam Strasbourg
Với những biến chuyển dồn dập
về tình hình quân sự và chính trị bất lợi cho Đức và Nhật như vậy, dĩ nhiên Nhật
thấy không còn an tâm vào bộ máy cai trị của Pháp tại Việt Nam nữa cho nên đã
“hất” Pháp ra không dùng nữa chứ chẳng phải là đảo chánh gì cả. Không có đảo
chánh vì quyền “chánh” vẫn là của Nhật chứ không phải là đảo từ Pháp qua Nhật.
Gọi là Nhật “đảo chánh” Pháp chẳng qua là để tỏ lòng biết ơn và phục tùng Nhật,
nhất là để che dấu bản chất bù nhìn tay sai của cái gọi là “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM”,
của Bảo Đại cũng như của Chính Phủ Trần Trọng Kim.
Sau khi hất Pháp ra không dùng
nữa, Nhật phải cần người thay thế để phục vụ cho đội quân chiếm đóng và những mục
đích chiến tranh, thế là “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” ra đời với những chiêu bài và bánh
vẽ “Độc Lập”, Đế Quốc, “Thịnh Vượng”, “Đại Đông Á”, …
Khi Đế Quốc Nhật đầu hàng vào
tháng 8 1945, “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” lệ thuộc cũng sụp đổ theo.
Nhưng có kẻ, thậm chí danh
xưng là Sử Gia hay Giáo Sư Lịch Sử lại đổ lỗi cho sự sụp đổ của “ĐẾ QUỐC VIỆT
NAM” là do Việt Minh cướp “chính quyền”, nếu không thì Việt Nam đã có độc lập
và không có chiến tranh !
Xin lỗi, tính độc lập của “ĐẾ
QUỐC VIỆT NAM” thì đã không hề có như đã chứng minh, một danh xưng “ĐẾ QUỐC VIỆT
NAM” bù nhìn tay sai của Đế Quốc Nhật thì đâu có quyền gì chính đáng mà bị cướp
! Cướp chính quyền hay chủ quyền quốc gia là cướp từ tay người Nhật, không phải
từ “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” hữu danh vô thực.
Vả lại, Tuyên Bố Cairo ngày
27/11/1943 của phe đồng minh đã nói rõ : Sẽ không công nhận bất cứ chính phủ
nào do Đế Quốc Nhật thành lập tại các lãnh thổ chiếm đóng. Như vậy, “ĐẾ QUỐC VIỆT
NAM” của Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim chắc chắn sẽ không có tư
cách pháp lý nào để tồn tại và sẽ bị phe đồng minh giải thể khi Nhật đầu hàng;
cớ sao lại có sử gia lấy làm tiếc cho một thể chế bù nhìn, tay sai, bán nước
cho Đế Quốc Nhật đã làm cho hàng triệu đồng bào của mình chết vì đói ?
Đúng lẽ, Bảo Đại, Trần Trọng
Kim, những kẻ đã cộng tác với Đế Quốc Nhật phải bị đem ra xét xử như những tội
phạm chiến tranh sau khi Nhật đầu hàng trong thế chiến 2, nhưng trớ trêu là Bảo
Đại vẫn còn có ích cho các thế lực xâm chiếm, do đó Bảo Đại lại tiếp tục làm
tay sai và bình phong cho giặc Pháp tái xâm chiếm Việt Nam. Đó là lý do tại sao
Bảo Đại lại đứng đầu cái “Chính Phủ Quốc Gia” do Pháp lập ra. Gọi là “Quốc Gia”
nhưng “Chính Phủ Quốc Gia” không có nghĩa gì là của Quốc Gia Việt Nam mà là của
Đế Quốc Pháp dùng làm bình phong !
Chính bản thân Hoàng Đế Bảo Đại
của cái “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” còn muốn từ bỏ “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” để đứng đầu cái
“Chính Phủ Quốc Gia” thuộc Pháp, cớ sao lại có kẻ xưng là “sử gia” lại cố níu
kéo cái “ĐẾ QUỐC VIỆT NAM” hữu danh vô thực ? Sử gia mà như thế, không thấy xấu
hổ với lương tâm yêu nước sao ? không thấy xấu hổ với lương tâm học vấn sao ?
Còn về chiến tranh với Pháp
sau đó, chẳng phải vì Việt Minh giành chính quyền từ tay Nhật mà xảy ra .
Nhưng, vì Pháp tái xâm chiếm Việt Nam nên mới
có chiến tranh giành độc lập. Bởi lẽ, không có gì quý hơn Độc Lập và Tự
Do; Độc Lập là nền tảng của tự do và dân chủ, nhân quyền. Lịch sử đã cho biết,
vì Độc Lập mà hàng chục triệu người dân Châu Âu và Châu Á đã chiến đấu và hi
sinh mạng sống trong thế chiến 2. Vậy, dân Việt Nam đã chiến đấu và hi sinh mạng
sống vì Độc Lập không phải là ngoại lệ.
Là “sử gia” mà đề cao cái “ĐẾ
QUỐC VIỆT NAM” thì hoặc là bất lương với Độc Lập và Tự Do của dân tộc Việt Nam,
bất lương với cái chết của hàng triệu người Việt đã chết vì đói, hoặc là yếu
kém về lý luận lịch sử. Hình như trong đó có “sử gia” họ Phạm ?
Khách Quan.
(20 Nov 2017)
[2]. Theo The New York Times,
6/7/2009, Tim Weiner, “Robert S. McNamara, Architect Of A Futile War, Dies At
93
http://www.nytimes.com/2009/07/07/us/07mcnamara.html?pagewanted=all
[3]. Có nhiều chứng cứ tin cậy
khác chứng tỏ Mỹ là chủ nhân của VNCH. Thí dụ như 2 bức công điện sau đây của
các Đại Sứ Mỹ tại VN:
3.1). Công điện của Đại Sứ
Henry Cabot Lodge ngày 7/9/1963 (Theo
tài liệu của Bộ Ngoại Giao Mỹ FRUS Năm 1961-1963, Quyển 4, Document 72)
https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v04/d72
Trong đó cho biết, vào khoảng
2 tháng trước khi các ông Tổng Thống Diệm và Cố Vấn Nhu bị giết, ông Ngô Đình
Nhu đã van xin với giới chức Mỹ rằng: “Tôi là ngựa đang chiến thắng, nên tin tưởng
vào tôi, cớ sao lại muốn kết thúc tôi”
3.2). Công điện ngày 21 Tháng
1 Năm 1974 của Đại Sứ Mỹ GRAHAM MARTIN gởi Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brent
Scowcroft
[Source: 417, SECRET,
DECLASSIFIED, E.O. 12356, Sec. 3.4, MR 94-86, $26, 8/9/94. By NARA, Date
8/19/94. Photocopy from Gerald R. Ford Library]
HOÀNG SA VÀ CÔNG ĐIỆN CỦA ĐẠI
SỨ GRAHAM MARTIN
Công điện ngày 21 Tháng 1 Năm
1974 của Đại Sứ Mỹ GRAHAM MARTIN gởi Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brent Scowcroft
trong chính phủ của Tổng Thống Geral Ford
đúng là reo mừng về việc Trung Cộng
thành công trong việc đánh chiếm Hoàng Sa, thí dụ như đoạn 10 của công
điện đã nói như sau :
“10. Nhìn kỹ lại, tôi thấy
chúng ta (# Mỹ) sẽ thực sự hưởng thụ cùng với
Cộng Sản China, trong lúc chúng ta vẫn có vẻ giúp Việt Nam thực hiện
hành động hợp lý duy nhất là khiếu nại
Điều này chứng tỏ người Mỹ rất
tài tình trong ngoại giao : Bởi vì trong khi vẫn có vẻ giúp Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) chống Cộng Sản thì họ lại thực sự hưởng thụ (really gain) cùng với Cộng
Sản Tầu thành công trong việc đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH ! Ngoại giao tài
tình như thế là cùng, thử hỏi có một nền ngoại giao nào khác trên thế giới giỏi
như thế không ?
Phải chăng, nghệ thuật ngoại
giao của Mỹ hết sức tài giỏi cho nên ngày nay vẫn tồn tại một đám người Việt
khù khờ tin và cậy một cách tuyệt đối vào những chiêu bài chống cộng, nhân quyền
hay dân chủ của Mỹ ? !
Trước đó, công điện ngày 7 tháng 9 năm 1963 của Đại Sứ
Henry Cabot Lodge đã chứng minh Việt Nam Cộng Hòa không hề có chủ quyền kể từ
khi mới thành lập, bởi vì công điện đó báo cáo ông Ngô Đình Nhu (một nhân vật
có quyền lực nhất nhì trong chính quyền VNCH)
đã nói với người Mỹ rằng :“Tôi là ngựa đang chiến thắng, nên tin tưởng đặt
cược vào tôi. Cớ sao lại muốn kết thúc tôi” (FRUS 1961-1963 VOLUME IV, DOC 72,
AUG-DEC 1963) [2]. Nay, công điện của Đại Sứ Graham Martin đã chứng tỏ thêm một
lần nữa cái “quốc gia” Việt Nam Cộng Hòa không hề có chủ quyền, nó chỉ là một
quốc gia hư cấu, nó chỉ là một bình phong cho giới chức Mỹ lừa gạt một đám dân
Việt ngây ngô “hàng ngàn năm tuổi vẫn trẻ con, vẫn không lớn, vẫn dễ bị xí gạt”
để họ chiếm đoạt dễ dàng một lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Thật là thán phục cho
nghệ thuật ngoại giao hết sức tài tình của người Mỹ !
Không cần gì phải hỏi những
lãnh đạo VNCH khác có liên quan tới việc Tổng Thống Thiệu có bị ông Đại Sứ Mỹ
ngăn chận hay không lệnh cho phi cơ tham chiến chống Cộng Sản Tầu xâm lăng
Hoàng Sa, bởi vì :
. Ông Đại Sứ Mỹ phải báo cáo sự
thật và không thể nào dám báo cáo những điều dối trá với cấp trên của ông là những
người phải căn cứ vào báo cáo để có thể đề ra những quyết định phù hợp với lợi
ích của Mỹ.
. Công điện của ông Đại Sứ nói
người Mỹ đang reo mừng hưởng lợi cùng với Cộng Sản Tầu trong việc giao nộp
Hoàng Sa thì đương nhiên ông Đại Sứ phải ngăn chặn những hành động mà ông Đại Sứ
coi như là “hành động một cách bệnh hoạn” (ill-considered actions) của ông Tổng
Thiệu như việc ông Tổng Thiệu ra lệnh cho phi cơ ra đánh Cộng Sản Tầu đang xâm lăng Hoàng Sa. Trong bối cảnh đó, ông Tổng
Thiệu phải vâng lệnh ông Đại Sứ là lẽ thường tình, vì nếu không thì ông Thiệu sẽ
bị cắt viện trợ hay sẽ bị cắt mất đầu giống như anh em các ông Diệm và Nhu hồi
trước mà ông Thiệu đã từng có kinh nghiệm tham gia.
. Ngay cả khi có ai đó cố bênh
vực cho ông Tổng Thiệu, rằng ông Thiệu không hề ra lệnh cho phi cơ đánh Cộng Sản
Tầu cho nên không có việc ông Tổng Thiệu phải vâng lệnh ông Đại Sứ Martin hủy bỏ
lệnh của mình, nhưng điều đó lại chứng tỏ rằng : Hoặc là ông Tổng Thống Thiệu
(Tổng Tư Lệnh quân đội VNCH) hèn nhát trước giặc ngoại xâm là Cộng Sản Tầu, hoặc
là ông Tổng Thiệu ngầm ý giao nộp Hoàng Sa cho Cộng Sản Tầu nhưng không một tướng
lãnh hay quân nhân nào dám cưỡng lại ! Trong cả 2 trường hợp này, tất cả đều là
tự bôi xấu cho chính mình, chính VNCH !
Tóm lại, công điện của ông Đại
Sứ Mỹ Graham Martin là một tài liệu giá trị góp thêm vào những chứng cứ rằng :
(1). Các chính quyền VNCH chỉ là bù nhìn tay sai của Mỹ; (2). Nghệ thuật ngoại
giao của Mỹ rất tài tình, tài tình đến nỗi có thể chiếm đoạt dễ dàng chủ quyền
một quốc gia và gây tàn hại cho cả một dân tộc nhưng đặc biệt là dân tộc đó vẫn
tồn tại một đám người muốn níu kéo lại tình trạng nô thuộc và thậm chí lại còn
tỏ lòng biết ơn mẫu quốc ! (Thí dụ như dân tộc VN)
Bởi vậy, dân VN phải tỉnh thức.
Tỉnh thức để không bị lôi cuốn vào những cuộc chiến ủy nhiệm khác trong tương
lai. Đó là những cuộc chiến chỉ có bọn lãnh đạo tay sai bán nước được hưởng phú
quý vinh hoa trong khi vô số tai ương và chết chóc thì đại đa số dân nghèo vô tội
phải lãnh chịu.
Khách Quan.( 04/05/16)
Toàn văn điện tín mật của Đại
sứ Maritin theo tài liệu giải mật lưu trữ ở thư viện Tổng Thống Gerald R. Ford
:
[Source: 417, SECRET,
DECLASSIFIED, E.O. 12356, Sec. 3.4, MR 94-86, $26, 8/9/94. By NARA, Date
8/19/94. Photocopy from Gerald R. Ford Library]
“210925Z JANUARY 1974 VIA MARTIN CHANNEL
SAIGON 0587 IMMEDIATE
JANUARY 21, 1974
TO GENERAL BRENT SCOWCROFT
FROM: AMBASSADOR GRAHAM MARTIN
REFS: A) WH 40327; B) SAIGON
924
1. You may wish to bring these
further observations to Henry’s attention before he decides on the nature of
his approach, if any, to the PRC.
2. Reftel provides answers to
questions posed. The Naval Log is interesting to review. Characteristic caution
which was countered in the end by compulsion not just to sit there and take it
but to do something. This compulsion reinforced by President Thieu’s physical
presence in Danang and consequent intangible pressure from necessity not to
appear passive faced with what was too easily summarized as clear aggression.
Had he been here in Saigon, and had we known about what he was contemplating,
we could have probably talked him into more reasonable course of action. For
example, I HEARD THIS MORNING HE HAD ORDERED RVNAF TO BOMB CHINESE FORCES IN
PARACELS. THAT HAS BEEN STOPPED.
3. Question is where we go
from here. What. for example, do we advise GVN to do about their garrison at
Namyit Island in the Spratleys. Withdraw it? Reinforce it? Or sit and wait? Naval
Log shows despatch of ship to Namyit on 15th. According to preliminary
seismological reports beginning to leak, there is probably enormous quantities
of oil under the South China Sea in the vicinity of these otherwise worthless
bits of real estate.
Therefore, the stakes are
pretty high. We cannot, I think, become directly involved in the disputes over
sovereignty between our old allies – the RVN, the ROC, and the Philippines. Or
between them and the PRC with whom we would hope to build a more forthcoming
relationship. However, it would not seem that we would necessarily jeopardize
any of them by reiterating quietly and behind the scenes, our traditional
position opposing use of force to settle territorial disputes, and such equally
traditional positions as the use of the ICRC to facilitate immediate return of
dead and wounded.
4. Indeed, if the PRC were to
accede to the GVN request to return the dead and wounded under ICRC auspices,
it would be a rather large stick to use to push the DRV into a more forthcoming
attitude on the current “prisoner exchange” issue which they are stalling now
in the TPJMC discussions. If, in addition, the PRC would use the rubric of
“wounded” to return all the prisoners as a Tet gesture, it would be an even
greater weapon to use on the DRV.
5. I have just been handed
FBIS transcript of Peking NCNA Domestic Chinese 210112Z which says, inter alia
“persons captured from the other side in this war of self-defense will be
repatriated at an appropriate time.” In both Chinese and Vietnamese context
there could be no more appropriate time than Tet. Of course, we do not know if
the captured are still on Pattle Island or have been removed to Hainan or to
the Mainland. It would, of course, be much easier to repatriate them from
Pattle Island.
6. Question of Kosh further
complicated by fact that UPI Saigon has story from Vietnamese sources that
“American with meteorlogical station on Pattle Island now presumably captured
by Chinese.”
This is all they have. They do
not have his name or fact that he is DAO civilian employee. When queried we did
not ask they kill or hold story but observed if it not carried for 24 hours, it
might greatly facilitate release. UPI Bureau Saigon is so recommending to Bill
Landry, Foreign Editor, UPI, in New York. What he will decide we do not know.
7. On the diplomatic front we
have based on observations of USUN, advised GVN to simply file complaint with
Security Council but not to press for hearing and certainly not for vote. Thieu
wishes despatch letter to President Nixon requesting intervention and
condemnation of PRC. We have strongly advised no such letter be sent, since
there could be only negative reply, adding that I would myself recommend such a
negative reply, We have recommended to Foreign Minister Bac that the GVN take
its case to the International Court, and to play any report to SEATO very low
key,
8. Out of all this may come a
great deal of good. Certainly I shall be able to exert a greater influence in
both restraining Thieu from any further ill-considered actions and also in
being more forthcoming to meet any give, if any, in Le Duc Tho’s intransigence
on prisoner exchange and the GVN proposal on the lowering the intensity of
violence by refraining from use of mortars, rockets, and mines and other mass
killers of innocent civilians. And, above all, on tightening up both his
military command and control apparatus and give Khiem more power to coordinate
the civilian ministries.
9. On balance, we should be
looking for ways to use this incident, regrettable as it is, in ways which
advance our overall objectives. Dispassionately and objectively I still believe
low key approach to Chinese along lines I suggested might be useful. I do not
suggest we insist they give the Paracels back to the GVN. They have them, and
obviously they are not going to return them. Our recommendations that they
accede to GVN request for return of dead and wounded and, further, that they
may wish to use Tet to generously return all the prisoners are really, and I
think would be perceived by the PRC to be, a tacit acceptance of their “fait
accompli”. It just might, also, save the Spratleys and the possible oil under
them for the GVN. It is just not credible to me that this incident is not one
where the GVN stumbled into a PRC operation already well under way.
10. On balance, it seems to me
that we would really gain with the PRC and at the same time appear to have done
the only thing it makes sense for us to do for the GVN out of all that they
have and will request. And, looking at it from this distance, there seems
little, if any, danger that could possibly accrue to us from taking this
initiative.
Comments
Post a Comment