QUẲNG THÁNH KINH ĐI, COI CHỪNG TÔN GIÁO
KHẢO LUẬN CHƯA ẤN HÀNH CÙA TÁC GIẢ ĐẶNG
VĂN NHÂM
KHAI ĐỀ
TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO LÀ GÌ?
Cho đến nay, trong chúng ta vẫn còn nhiều
người, vì quá mộ đạo, nên vẫn không dám công khai nhìn nhận "
ông trời, thượng đế, hay chúa trời Yahvé ..chỉ là " con đẻ " của những
bộ óc Do Thái hoang tưởng nhắm mục đích duy nhất bịp đời, kiếm ăn. Quan trọng
nhất là những kẻ ấy cũng chưa phân biệt minh bạch được 2 danh từ : tín
ngưỡng ̣( belief ) và tôn giáo ( religion).
Theo ta, tín ngưỡng có
nghĩa: tin + ngửa mặt nhìn lên ( tỏ ý cung kính), tức vừa tin vừa kính
trọng. Còn tôn giáo có nghĩa: kính trọng + dạy bảo, tức kính
trọng và tuân lời dạy bảo cuả đấng thiêng liêng là ông trời, một nhân vật trừu
tượng, mơ hồ, mà từ cổ chí kim, trên 2 ngàn năm qua, chưa từng một ai trông thấy
mặt ngang, mũi dọc và hình dung tròn méo cuả ông ta ra sao !
Sở dĩ lòng tín ngưỡng phát sinh là do thủy
tổ loài người từ thời thượng cổ, giống hầu nhân đã tự thấy mình hèn yếu trước vạn
vật, khiếp sợ từ nước, lửa, gió, bão, núi cao, sông rộng, sóng cao, từ phiến đá
đến gốc cây cổ thụ, chí đến các loài cầm thú như :cọp, beo, rắn, rết, chuột, khỉ
và các giống chim muông v.v… nên sinh lòng úy hãi, mà phải tôn thờ
chúng như một vị thần linh với hy vọng sẽ được che chở, giúp đỡ. Bằng
chứng , trong dân gian trên mặt địa cầu, nhiều nơi đã tạc tượng thờ cúng các
loài ác điểu, dã thú, cọp beo, sư tử, rắn hổ mang, khỉ đột, một phiến đá to
cao, một gốc cây cô thụ v.v...Bởi vậy, đọc sử sách, kinh điển, ta dễ nhận
ra " lòng sợ hãi thiên nhiên của loài người từ cổ xưa đến nay
chính là nhân tố thiết yếu bậc nhất đã đẻ ra... các tôn giáo". Nhưng
mãi đến khi con người đã sáng chế ra văn tự để truyền thông tư tưởng, lúc đó mới
bắt đầu nảy sinh ra các tổ chức tôn giáo với hình thức
tụ tập đông đảo như phe nhóm, băng đảng và
đẻ ra các loại thánh kinh.
Theo các tài liệu khảo cổ và sách ghi chép
của các nhà nhân chủng học,khoảng từ 3.500 năm đến 3.000 (trước TC), dân Sumer
, trong vùng Lưỡng Hà, mới sáng chế ra được loại chữ tượng hình Pictogramme.Sau
đó trong vùng Viễn Á, nước Tàu mới chế ra được loại chữ Idéogramme, chỉ có ký
hiệu ghi ý, ghi hình chứ không ghi âm. Mãi đến năm 3.000 (trước TC) mới ghi được
cả âm ( fonogramme ). Cùng thời kỳ này, người ta thấy dân
Ấn Độ cũng chế ra được văn tự của họ.
Từ năm 3.000 đến năm 2.500 (tTC) loại chữ
tượng hình (Hiéroglyphe) của dân Ai Cập phát sinh trên toàn vùng đất dọc theo 2
bên bờ giòng sông Nil.
Khoảng từ năm 1.000 đến 700 (t.TC) mẫu tự
Cyrilique của Hy Lạp ra đời và phát triển dọc lên miền Đông-Bắc Âu Châu qua các
sắc dân Slave. Đến khoảng năm 600 ( t TC) mẫu tự La Tinh xuất hiện lần
đầu tiên trên " hòn đá đen " nơi người dân La Mã thường hội họp
(Forum Romanum), còn gọi là họp chợ. Từ đó loại mẫu tự này phát triển khắp vùng
Tây Âu , dưới thời các triều đại Carolingien ( nên còn gọi là loại chữ Carolin,
hay Gothique v.v...)
* CHÚ GIẢI SƠ LƯỢC: VĂN TỰ TƯỢNG HÌNH LÀ GÌ?
Ngày nay, hầu hết thế giới đều dùng, ( trừ
một số quốc gia theo Hồi giáo có kiểu mẫu tự riêng ), hệ thống An-pha-bê, do
dân Phéniciens khởi sáng, làm phương tiện ghi chép tư tưởng của loài người. Tuy
nhiên, cũng có nhiều chủng tộc, vì lạc hậu, hoặc vì tập quán lâu đời, vẫn
phải duy trì phương pháp họa hình (système pictographique) trong văn tự, như từ
thủa muôn vạn năm xưa.Lối văn tự tượng hình hay họa hình có khi còn rất thô sơ
như kiểu viết của dân indiens ở Châu Mỹ và dân Esquimaux ở vùng Bắc Cực.Gần
đây,người ta tìm thấy nhiều cuốn niên lịch bằng da trâu của dân da đỏ Dakotas
thuộc vùng Alaska, Bắc Mỹ. Thổ dân này đã dùng vật nhọn mũi mà vạch lên da trâu
phơi nỏ, tỷ như một hình người có nhiều chấm nhỏ ở toàn thân,để ghi một nạn dịch
đậu mùa hay ban đỏ; hay vạch một hình nhân có nhiều tia dài nơi cửa miệng, để
“kỷ niệm” một trận dịch ho gà của trẻ nhỏ.
Lối văn tự họa hình của dân Esquimaux cũng
không khác mấy, nhưng họ không dùng da trâu, mà dùng gỗ hay xương cốt súc vật
.Xét ra, lối văn tự tượng hình đã có ngay từ Thái cổ do các dân tộc Trung Hoa,
Á rập và Ai Cập v.v… phát minh.
Bằng lối cổ tự (hiéroglyphes), người Ai Cập thủa
xưa đã “viết” chữ đại khái như sau:
Muốn viết chữ “SAO”, họ vẽ một điểm tròn có
phụ thêm năm tia nhỏ từ điểm đó tỏa ra các phía. Muốn viết chữ ”ĐÊM”, họ vẽ một
vòng cong hình bán nguyệt úp sấp, rồi thêm một ngôi sao ở phía dưới . Muốn viết
chữ “TÉ”, họ vẽ hình một bức tường nghiêng đổ. Muốn viết chữ “ĐỘI”, họ vẽ một đầu
người có cái lọ để trên …
Người Á rập xưa cũng dùng phương pháp đó.
Nhưng về sau, họ cải biến và đơn giản hóa dần dần, cho tới mức chỉ còn là những
dấu hiệu (signes), không ăn nhịp gì với lối tượng hình nguyên thủy.
Sau khi xét qua những kiểu viết của dân
Esquimaux, Indiens ngày nay hay của dân Ai Cập, Á rập ngày xưa, rồi
so sánh với Hán Tự, ta thấy rằng lối chữ tượng hình của người Trung
Hoa hoàn hảo hơn nhiều, nhưng rất rườm rà, cầu kỳ và khó nhớ.
Thoạt kỳ thủy, người Trung Hoa cũng chỉ biết
“viết” một cách thô sơ như kiểu Á rập và Ai Cập nói trên, nghĩa là họ vẽ theo gần
đúng hình hài của những vật mà họ muốn ghi chép.
Tỷ như, họ đã viết chữ “NHÂN” giống với
hình người; chữ “MỤC” giống con mắt; chữ “NHĨ” giống cái tai; chữ “KHẨU” giống
cái miệng; chữ “HỎA” giống ngọn lửa cháy; chữ “XUYÊN” giống dòng sông chảy; chữ
”SƠN” giống dãy núi ba chòm; chữ “MÔ giống con ngựa; chữ “NGƯ” giống
con cá; chữ “ĐIỂU” giống con chim.
Nhưng về sau, người Trung Hoa thấy rằng nếu
cứ vẽ nguyên hình các đồ vật và súc vật, thì vừa mất thì giờ, vừa trông rắc rối
không đẹp, nên họ đơn giản hóa và hoa mỹ hóa dần dần, khiến cho ngày
nay, ta mới có những chữ Hán gọn gàng và đẹp mắt.
Bằng chứng là hiện thời, mặc dầu đã có quốc
ngữ, người Việt
vẫn ưa dùng chữ Hán, nhất là kiểu chữ TRIỆN
(Caractères calligraphiques), trong việc trang sức thân thể, cũng như việc
trang hoàng phòng khách, bàn thờ, đình, chùa, nghè, miếu … khác nào, vào hồi thế
kỷ 17 và 18 trở đi, người Aâu Châu đã ưa dùng kiểu chữ Gothique do người Đức đặt
ra.
Một đặc điểm của Hán Tự là ngoài lối viết
tượng hình, lại còn lối viết hội ý (écriture idéoghaphique).Tỷ dụ , để tả anh
thợ săn bắn chết mười con sư tử, người ta liền vẽ một cái nỏ (arbalète) căng
giây, hướng vào hình vẽ của mười con sư tử. Nhưng để đỡ tốn công, người đời sau
chỉ vẽ mười cái đầu sư tử, có mũi tên dài xuyên thủng ngang qua. Rồi người đời
sau nữa lại đơn giản hóa đến mức tối thiểu …
Đó là cách dùng một phần làm tiêu biểu cho
toàn thể hay dùng một vài vật hữu hình rồi xếp đặt lại để gợi ý tới
những vật trừu tượng, vô hình dung hay không cụ thể. Cho nên, người Trung Hoa
đã viết hai chữ “MỘC” để chỉ cái rừng
(Lâm: ), hay ba chữ “MỘC” thành
chữ “sâm “ để tả cái cảnh cây cối um tùm rậm rạp.
Đồng thời, Hán Tự, với hai cái dấu chân bước
, nếu ở trên gacïh ngang là chữ “THƯỢNG ), nếu ở dưới gạch
ngang là chữ “HẠ "; một gạch ngang đặt ở trên
chữ “THỔ ) thành chữ “VƯƠNG ) với
ngụ ý rằng nhà Vua có quyền hành hơn hết mọi người trên trái đất; một gạch
ngang đặt trên chữ “ĐẠI “ thành chữ
“THIÊN “ với hàm ý rằng Trời là lớn nhất trong vũ trụ; một
dấu chấm điểm trên đầu chữ “VƯƠNG” thành chữ “CHÚA”,
( ) nếu điểm bên cạnh chữ “VƯƠNG”, thành chữ
“NGỌC”
( ).
Về chữ “VIẾT”
( ) là nói, (theo Hán tự, thì chữ “ TẢ “ nghĩa
là “VIẾT“ (écrire ), còn chữ “VIẾT” nghĩa là “NÓI” : (dire), như
trong câu “ KHỔNG –TỬ-VIẾT”, người ta chỉ việc chấm thêm một điểm ngang vào giữa
chữ “KHẨU’ ( ), để tỏ rằng khi mồm há ra và lưỡi lo le, tức là “ NÓI
“vậy. Ngoài ra, chữ “ TÙ” ( ) gồm có chữ “NHÂN“ ( người ) trong một
cái khung như bốn bức tường đóng kín; chữ “SẦU “( ) gồm có chữ “THU“
ở trên chữ “TÂM “, ( Thu tâm ai gợi lên sầu?!!) , để tả nỗi buồn mỗi độ
thu sang với hoa tàn, lá úa…
Nhưng không hiểu tại sao, người Trung-Hoa
thượng cổ lại khinh thường bạn nữ lưu quá xá?! Bằng chứng là người Trung-Hoa đã
quy tụ ba chữ “ NỮ “ là con gái, để làm thành một chữ “ GIAN “ nghĩa là kém
đoan trang và bất chính. Aâu, một phần cũng là nhờ chữ Hán, mà ta càng biết
thêm cái óc “ Trọng nam khinh nữ “ của dân tộc Á-Đông thủa xưa vậy. Ngoài ra, cũng
nhờ Hán tự mà ta có thể tìm hiểu được phần nào về trạng thái xã hội thời Phong
kiến phôi thai. Tỷ như chữ “QUẦN “ là “ BẦY” ( Troupeau ), đem phân tích ra, ta
thấy chữ “QUẦN” ( ) họp lại bởi chữ “QUÂN” là ông Vua, là
người cầm đầu, và chữ “DƯƠNG” là con dê; như vậy, xã hội cổ Trung-Hoa cũng đã sống
bằng nghề chăn dê, nghề du mục. Hay cũng chính chữ “QUẦN”, nhưng nghĩa là cái
quần ( pantalon ); chữ “ QUẦN” ( ) này
gồm có “QUÂN” là Vua, là người cầm đầu và chữ “Y” ( ) theo nghĩa cổ
nghĩa là vật che thân thể, có khi bằng lá cây hay da muông thú… Như vậy, có lẽ,
về thời Thái cổ, trong mỗi bộ lạc , chỉ có một mình viên đầu xỏ là được mặc quần ,
còn bao nhiêu bộ hạ đều phải cởi truồng hay đóng khố ( ?)
Tóm lại, lối văn tự tượng
hình và hội ý của người Trung-Hoa thật là tinh vi, ý vị
và phong phú, khiến cho không thể nào hiểu xiết được.Để dẫn chứng, chúng tôi
xin giới thiệu bộ “KHANG-HI TỰ- ĐIỂN “là một trong những bộ sách có giá trị nhứt
của Văn học sử Trung-Hoa. Bộ Tự vị này xuất bản cách đây gần 300 năm, dưới trào
Vua Khang-Hi ( Kang-His ) tức Thanh Thánh Tổ ( 1662-1722 ). Cuốn sách này được
soạn thảo rất công phu, hàng mấy năm trời , với sự hợp tác của toàn thể văn
quan trong Triều và các bậc sĩ phu trứ danh trong nước.
Ấn hành trên giấy “ tàu bạch “ vừa tốt, vừa
mỏng và bóng, bộ Khang-Hi Tự-Điển gồm có 12 đại tập ghi tên theo thập nhị CHI,
( từ Tý, sửu… đến Tuất Hợi); mỗi đại tập lại chia làm 3 tiểu tập, tỷ như tập Tý
thì chia ra “TÝ TẬP THƯỢNG “, “TÝ TẬP TRUNG “và “ TÝ TẬP HẠ “ Bộ
Khang Hi Tự Điển này, tôi nhận thấy nó chứa tới 45.000 chữ Hán. Ấy
là chưa kể những tiếng mới mượn của Âu-Mỹ và những tiếng vì nhu cầu mới được đặt ra
trong khoảng gần trăm năm nay, như ta đã thấy trong lối văn “ Bạch-Thọai”
( Pạc Và) hiện thời.
Chữ Hán đã nhiều lại khó viết, khó nhớ ;
vì không có mẫu tự, nên học chữ nào là chỉ viết một chữ ấy thôi. Hơn
nữa, nếu sai một ly, sẽ đi một dặm. Tỷ như chữ “ ĐIỀN”, ( ) nếu
nét sổ ở giữa thò lên sẽ thành chữ “DO” ( ) , thụt xuống sẽ thành chữ
“GIÁP” ( ), nếu vừa thụt vừa thò sẽ thành chữ “THÂN”
( )…Chính vì thế mà
năm 1955, Ô. Wei Chueh, Chủ Tịch Ủy Ban Cải cách Hán Tự đã phải phàn nàn với ký
giả Anh-Cát-Lợi James Cameron như sau: “ Ở nước tôi, một em học sinh mười tuổi phải
học tới 200 chữ; nếu muốn đọc nhựt báo, ít nhứt phải hiểu 7.000 chữ. Các
nhà in nước tôi, tối thiểu phải có 35.000 chữ đúc. Chúng tôi không có
an-pha-bê, nên không thể dùng máy chữ được. Về điện tín, chúng tôi phải đếm nét
chữ, rồi đổi ra con số ( chiffres ). Như vậy, việc giáo dục ở nước tôi bị ngăn
trở rất nhiều, và văn hóa bị chậm tiến. Cho nên , chúng
tôi nhất quyết phải cải cách Hán Tự, để theo kịp trào lưu tiến hóa của
Tây-Phương”…
* (Tài kiệu tham khảo:Le premier
alphabet de l’ homme của Johannes lowenstein; Les hommes fourmis (les Chinois)
travaillent của J. Cameron; La définition du mot”Ecriture” của Paul Augé; Phần
cổ văn trong bộ KHANG HI TỰ ĐIỂN).
Bây giờ, nếu căn cứ vào các chứng liệu nêu
trên, ta có thể ước đoán ra quãng thời gian nào các tôn giáo Du Già
,Thiên Chúa và Hồi giáo ở Trung Đông đã ra đời cùng với các loại thần linh, thượng
đế vô hình, vô tướng bằng phương tiện truyền thông của "chữ nghĩa".
Tóm lại cho dễ nhớ : Tất cả các kinh thánh loại này đều chỉ ra đời trong khoảng thời gian từ 500
năm trước TC và không quá 1.000 năm ! (* Ghi chú: đạo Hồi của các sắc dân Ả
Rập ra đời sau đạo TC khoảng 500 năm sau T). Riêng các tôn giáo trong vùng Viễn
Đông như các đạo Phật, Khổng, Lão...đều đã phát sinh trước các đạo Du Già,
Thiên Chúa và Hồi giáo ít lắm cũng từ 500 năm.
Nên biết, tiến trình khai sinh ra tôn giáo
chỉ khởi sự phát triển khi tâm não con người đã manh nha tư tưởng tín ngưỡng. Với
lòng úy kỵ, sợ hãi sâu sắc ghê gớm các hiện tượng huyền bí hung tàn của thiên
nhiên họ mới qui tụ với nhau thành các nhóm đông đảo, lập giáo thuyết tôn thờ
các đấng thần linh quyền lực vô biên nào đó như huyền thoại, để được che chở.
Đó là bước đầu tiên khởi sự hình thành cái khung tôn giáo với những bộ sách được
xưng tụng là "thánh kinh" (síc! ) dầy cui hàng mấy ngàn trang giấy kể
đủ thứ chuyện bịa đặt hoang đường nhảm nhí, dã man, cộng chung với những điều
luật hăm he trị tội phàm tục và xử tội cực kỳ độc ác như: đóng cọc lỗ
đít, ném đá đến chết, hỏa thiêu ... nhân danh thượng đế bù nhìn !
KINH THÁNH LÀ GÌ?
KINH THÁNH (Holy Writ, Bible) là tên
chung gọi những bộ sách " CỰU ƯỚC và TÂN ƯỚC" của riêng
các đạo Du Già Do Thái và Thiên Chúa Tây Phương. Chữ "
KINH" bắt nguồn từ Hán tự (bộ Mịch , 13 nét), chỉ những bộ sách ghi chép lời
dạy cao siêu, thánh thiện của các bậc hiền nhân quân tử. Nếu nói là "KINH
ĐIỂN" thì ý chỉ các loại sách thánh hiền, sách về cương thường đạo lý,
sách tài liệu cao kiến của cổ nhân uyên bác được lưu truyền làm khuôn vàng thước
ngọc về các vấn đề học thuyết, chủ nghĩa, những trải nghiệm thực tế hiếm quí
cho hậu thế. Đó là cái gốc của văn hóa.
Sở dĩ con người được cao quí hơn các loài cầm
thú vì nhờ có văn hóa . Mà khi đã gọi là "văn hóa" tất nó phải có
tính chất thanh cao, thiện hảo. Đó một điều kiện bắt buộc không thể thiếu (sin
qua non). Trong
văn hóa kể gồm cả đức tin, tôn giáo và luân lý (la foi, la religion, la
morale). Như vậy, tóm lại, 2 bộ sách Cựu Ước và Tân Ước của
các đạo Thiên Chúa, Du Già đều là những quyển sách..." thánh", trong
đó ghi chép toàn những lời khải truyền của các vị thánh, chúa của 2 đạo ấy, gồm
từ Chúa Trời Yahvé (còn gọi là chúa cha), Chúa Jesus ( chúa con), cùng với các
thứ siêu thánh như Moise, 12 vị thánh tông đồ và rất nhiều vị thánh
linh tinh khác nữa. Để truyền bá tín ngưỡng, 2 tôn giáo kể trên đã dùng
chung luôn cả 2 bộ kinh Cựu Ước và Tân Ước làm phương tiện giáo dục
các tầng lớp con chiên bổn đạo. Sự cố này từng diễn ra liên tục suốt 2 ngàn năm
qua, khiến trên khắp thế giới đã có rất nhiều bậc thông thái kinh điển Du Già
và Thiên Chúa không khỏi bị "ngứa tai, gai mắt, nhức nhối lương tri"
phải lên tiếng phê bình công kích kịch liệt, tạo nên một khu rừng kinh điển,
phê bình, mổ xẻ kinh sách, tìm hiểu giáo thuyết của đủ loại thần linh, thánh,
chúa và ác qủy Satan...thiết tưởng dù cho ngày nay, nếu có ai
muốn dùng cả cuộc đời để chuyên tâm khảo
sát cũng không
sao đầy đủ. Do đó, khi nghiên cứu
và biên soạn sách này, tôi chẳng phải là một con ong khai sơn phá thạch,
chẳng phải là kẻ đầu tiên lên tiếng phê bình nghiêm chỉnh, mà chỉ là một kẻ
phàm phu, tục tử rất tầm thường, hành động theo bản năng thiên nhiên và tự tính
hiếu kỳ của một cá nhân ham thích học hỏi những điều hay lẽ phải trong tác phẩm
của các bậc cao nhân viễn kiến trên thiên hạ. Đặc biệt nhất, trong hàng trăm
tác giả ngoại văn nổi tiếng khắp thế giới có tên ghi trong " thư mục tham
khảo" nơi cuối sách này, tôi còn được dịp chuyển dịch một số văn đoạn trực
tiếp từ các tác giả Christopher Hitchens, Normand Rousseau, André
Comte-Sponville, Bernard Feillet, Natale Benazzi & Matteo d'Amico, Pascal
Boniface, Odon Vallet...Tác phẩm của các vị ấy đã giúp cho chúng ta có những
tài liệu giá trị để tham cứu, trích lục, hầu giúp cho nhau - một giống dân còn
trì độn, chậm tiến - sớm kịp tìm lại chút ánh sáng tuyệt vời của "sự thật",
mà từ hàng ngàn năm qua đã bị những thứ tôn giáo tín ngưỡng ngoại lai tù mù, u
ám, chân giả bất phân, che chắn, lừa gạt!
Theo lệ thường, từ cổ chí kim bất cứ một thứ
vật dụng gì đã cũ xưa, lỗi thời, hư hỏng, rách nát, dơ bẩn, xông mùi xú uế, hay
một món ăn nào đã bị nhiễm trùng khi chế biến, những miếng thịt đã thiu thối,
bám đầy dòi bọ..., dù quí báu đến đâu vì lý do vệ sinh cá nhân và mục đích nhân
đạo, ngăn ngừa tật bịnh truyền nhiễm hiểm nghèo cho cả một vùng đông đúc dân
cư, người ta đều phải quẳng nó đi, ném chúng nó vào thùng rác đóng kín nắp lại,
hoặc rắc vôi bột sát trùng, rồi chôn sâu trong lòng đất v.v...Đối với những món
ăn tinh thần còn nguy hiểm và quan trọng nhiều hơn thế. Vì khi loại độc tố tinh
thần ấy đã xâm nhập vào tim óc con người rồi, chẳng những nó phá hoại trí não
trong sáng của nạn nhân, nó còn di truyền, bám trụ trong đầu óc con cháu của họ
đến ngàn đời không thoát khỏi. Bởi thế, những thứ thánh kinh chuyên chở giáo
thuyết nhồi sọ tinh thần cuồng tín u mê, mang tính vô luân, tuyên truyền thú
tính giết người dã man hàng loạt có tính diệt chủng, dâm loạn, vô nhân đạo của
các đấng thần linh, thánh chúa với dụng ý
"làm gương" (sic!) cho tín đồ đều
phải loại ra khỏi các kệ sách gia đình và thư viện ngay lập tức. Chính bởi hậu
quả tinh thần ghê gớm kể trên; nay , với tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu này, tôi
mạn phép nêu lên câu hỏi sau đây để bạn đọc, bất phân tôn giáo, tùy
nghi suy luận tự tìm ra cho mình một lý giải thích nghi:
" TẠI SAO CHƯA QUẲNG THÁNH KINH
ĐI?"
Bất cứ ai đã có dịp đọc hết bộ thánh kinh Cựu
Ước và Tân Ước của các đạo Du Già Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo, cũng như bộ
kinh Coran của Hồi giáo (vốn bắt nguồn từ 2 đạo kể trên), đều không khỏi rùng
mình kinh ngạc và buồn nôn như kẻ tác giả này.
1 - Về mặt văn chương, bố cục lủng củng, không mạch lạc, thiếu nhất
quán, lời lẽ và văn ngôn trong thánh kinh thô kệch, tối nghĩa, nhiều khi
dùng phép ẩn dụ (parabole) rất lệch lạc khó hiểu, kể ra toàn những chuyện pha
trộn hoang đường, hư cấu với chút ít màu mè lịch sử đương đại, tiền hậu bất nhất, mâu
thuẫn lung tung, chẳng khác nào một anh già nhà quê lẩm cẩm, lú lẫn, nói trước
quên sau, đầu đuôi lộn xộn. Nếu so với bộ sách" Thất Tài Tử Thư " của
Trung Hoa cổ, các chuyện kể trong kinh thánh thua xa về mọi mặt từ hình thức đến
nội dung. Thua luôn cả bộ tiểu thuyết : Hồng Lâu Mộng, Kim Bình Mai... Thậm
chí, nếu so với những chuyện dân gian như: Tây Du Ký, Thủy Hử, chuyện kiếm hiệp
của nhà văn Kim Dung, các bộ thánh kinh Cựu Ước và Tân Ước chỉ là một thứ hợp
soạn bịa đặt vụng về, ngây ngô đáng buồn cười.* Nên biết: Bộ truyện kiếm
hiệp của Kim Dung đã đạt đến mức thượng thừa, quán cổ xuyên kim về nghệ thuật kể
truyện, hấp dẫn đến độ thu hút độc giả mê man như lạc lõng trong giấc mộng du
vô tận. Về mặt bố cục vô cùng liền lĩ, uốn lượn tài tình như giòng thác chảy
không hề ngừng đọng trong giây phút. Truyện nào của Kim Dung cũng gồm
rất nhiều nhân vật đủ loại (đông hơn kinh thánh gấp chục lần!), hoạt động liên
tục, với các tình tiết tự nhiên, hợp lý, xảy ra hết sức bất ngờ rồi diễn biến
nhanh như
chớp.
2- Về mặt giá trị kiến thức thánh kinh lại càng hết sức tồi tệ,
phơi bày một trình độ hiểu biết rất nông cạn,
nếu không nói là ngu ngốc đến độ phản khoa học. Bằng chứng bất khả kháng biện
là vụ giáo hội Thiên Chúa đã hành hình dã man các khoa học gia Giordano Bruno
(1584) và Galilée. Hơn thế, khi xử nhục hình Galilée và hỏa thiêu Giordano
Bruno, giáo hội TC còn chứng tỏ đã hành động phản thiên nhiên, phản
khoa học. Sự ngu dốt của các hàng giáo phẩm lãnh đạo TC giáo thời ấy đã kéo lùi
tiến độ khoa học của nhân loại đến mấy ngàn năm! Hành động hỏa thiêu nữ thánh
Jeanne d'Arc, nữ anh hùng dân tộc Pháp, ngoài đại ác tội giết oan vì lòng ghen
tị, kèn cựa với món "đồng trinh" thứ thiệt của một người con gái nông
dân, chứ không phải thứ đồng trinh kiểu "nước vỏ lựu máu mòng gà" của
đức bà Marie. Đồng trinh gì mà đẻ đái con cái tùm lum ( nombreuse nichée) vẫn
còn...đồng trinh?! * Nên biết: theo lời kể của thánh Matthieu (XIII 55-57),
chúa Jesus còn có thêm 4 người anh em trai và nhiều chị em gái nữa!Trong kinh
Phúc Âm của thánh Jacques, ta không thấy xác nhận, nhưng cũng không hề phủ nhận
điều này. Vậy, hiển nhiên là chuyện ấy có thật! Ngoài ra còn một nhân vật khác
nữa , cũng tên Jacques trong kinh thánh, mà nhiều nhà nghiên cứu thánh kinh và
TCG đã cho là anh em của chúa Jesus! Truy nguyên đến kỳ cùng, ta mới nhận ra
sai lầm nguyên thủy có tính cốt lõi về món " đồng trinh" (vierge),
hay còn gọi là " trinh sản" ( parthénogenèse) của bà Marie, vốn gốc
chữ Hébreu " almah" chỉ có nghĩa đơn giản là một "thiếu phụ"
( jeune femme) mà thôi! Vậy mà các nhà biên soạn thánh kinh Tân Ước, toàn gốc
dân Do Thái, bỏ đạo Du Già chạy theo TC giáo, dám dịch ẩu là
."đồng trinh"!!!
3- Về mặt chính trị, xã hội, các bộ kinh thánh của đạo Thiên Chúa
Du Già càng thua kém rất xa, xa lắc xa lơ các bộ "Tứ Thư, Ngũ Kinh" của
Khổng giáo, bộ " Đạo Đức Kinh" của Lão Tử, và của các bậc thánh triết
Hy Lạp... Trên mọi phương diện nghệ thuật trị quốc an dân, giáo dục quần chúng,
phát triển văn hóa và tổ chức trật tự xã hội, các nhà đại hiền triết đông
phương đã không hề dạy quần chúng phải dùng bạo lực sát nhân hàng loạt như đức
chúa trời Yahvé, thánh Moise, và các thánh tông đồ Paul, Pierre...v.v...
4- Về mặt luân lý, đạo đức, kinh thánh của các giáo hội Du Già Thiên
Chúa hoàn toàn trái nghịch hẳn với tinh thần bao dung, phóng
khoáng và tư tưởng cao siêu tuyệt diệu trong giáo thuyết của Phật
Thích Ca, của Không Tử và Lão Tử. Trên thực tế, từ 2.500 năm về trước
đến nay, loài người ở các nước Á châu đã có tục "TAM GIÁO ĐỒNG MÔN" ,
thờ cả 3 tôn giáo : Phật giáo, Khổng giáo, Lão Giáo cùng chung trong một giáo đền,
một chùa. Trong khi đó, ngược lại 3 tôn giáo của các giống dân Sémites và dân
Tây phương, tuy cùng theo đường lối độc thần giáo, cùng thờ chung một chúa trời
Yahvé, cùng chia xẻ một thứ giáo thuyết...nhưng lại thù hận lẫn nhau đến mức
không đội trời chung, tàn sát lẫn nhau đến đứa con đỏ sơ sinh cực kỳ dã man
liên tục suốt 2 ngàn năm qua.Trước hết, các đạo cùng một gốc, gồm: Du Già,
Thiên Chúa, Hồi giáo tàn sát lẫn nhau hàng ngàn năm qua chưa dứt. Trong nội bộ
đạo Thiên Chúa chia ra nhiều chi phái: Thiên Chúa La Mã,Chính Thống,
Cơ Đốc (Tin Lành), Anh quốc giáo (Anglican) ,Phản Thệ Giáo Calvin (Thụy Sĩ)...Đạo
Hồi, sau khi đấng tiên trị cuối cùng Mohamed qua đời, đã phân hóa thành 2 hệ
phái : Sunnit và Chiite, tàn sát lẫn nhau, không chừa đàn bà con nít mới đẻ, hằng
ngày, cho đến nay còn đang diễn ra vô cùng tàn bạo tại (Iraq). * Nên
biết: Phe Hồi giáo Sunnit thờ giáo chủ khai sáng Mohamed, thánh địa ở La
Mecq thuộc nước Arabie Séoudite. Còn phe Chiite thờ giáo chủ Ali, vừa là
"người anh" con chú con bác, đồng thời còn là " con rể" của
giáo chủ Mohamed. Thánh địa có đền thờ giáo chủ Ali đã được dựng lên tại thủ đô
Bagda, nước Iraq. Mối hận thù vu vơ, phi nhân tính và vô luân lý của các đạo ấy
đã khùng điên đến độ như thế chưa đủ, các đạo Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo còn
chủ trương bách hại, tàn sát diệt chủng hết mọi tôn giáo khác, gọi là "dị
giáo", của loài người trên mặt đất! Toàn bộ kinh thánh của 2 tôn giáo Du
Già, Thiên Chúa còn tỏ ra rất tầm thường, dung tục quá lố, bịa sạo chuyện khải
truyền, và chỉ nhắm mắt tôn thờ Yahvé, một đức chúa trời hoang tưởng,tâm hồn nhỏ
mọn, lòng dạ tôm tép, gian ác, hung tàn, dã man, hiếu sát, hết sức ghê tởm,
đáng phải nguyền rủa đến muôn đời ( xin đọc sâu vào tác phẩm sẽ thấy chứng tích
đầy đủ). Khi hành đạo, chiếu theo các sự kiện ghi trong kinh thánh
và các dấu vết lịch sử tôn giáo, suốt 2.000 năm qua, giáo hội Thiên Chúa còn tỏ
ra khát máu, gian tham, vơ vét, tích lũy tiền bác, tài sản của các giới giáo
dân để làm giàu, trái hẳn với lời dạy của chúa Jesus . [ Một cách giống như vậy,
đạo Hồi, phái Chiite, cũng lợi dụng tôn giáo, nhân danh thượng đế Allah
Bakkhahi, buôn bán thân xác các nữ tín đồ, lập ra giáo luật " hôn nhân tạm
thời" (mariage temporaire) để bán giấy phép cho bọn đàn ông được giao hợp
với người đàn bà theo giá biểu ấn định từ 1 tiếng đồng hồ, đến 2 tiếng, 3 tiếng...
hoặc một ngày , một tuần lễ v.v... tùy nhu cầu. Sau khi gấy phép hết hạn, 2 kẻ
nam nữ " kết hôn tạm" ấy được coi như đã ly dị là xong !] Như vậy,
giáo hội TC đã hành động gian ác ghê gớm, nguy hiểm hơn cả đức chúa trời Yahvé
của họ gấp vạn lần! Phải chăng đó là thứ nghĩa vụ thiêng liêng của hạng tôi tớ
"noi gương chúa" của giáo dân?!
* Nên chú ý: Suốt mấy ngàn năm qua, nhất là từ sau
đệ nhất thế chiến đến ngày nay, trong bất cứ một chuộc chiến tranh đẫm máu nào
trên mặt quả địa cầu, người ta vẫn đều thấy thấp thoáng gần xa bóng cây Thập Tự
Giá!
Tóm lại, đối với một loại "thánh
thư" kể toàn những chuyện thiển cận, thù hận ngút trời, tham
lam, gian ác, hiếp dâm tập thể và chém giết lẫn nhau dã man, tàn bạo tới nỗi
máu người trong thành Jerusalem đã ngập tràn lên đến tận mắt cá chân, tại sao,
cho đến nay vẫn không thấy một ai phát động chiến dịch hủy diệt ngụy thư?
QUẲNG THÁNH KINH ĐI KHÔNG... DỄ !
Nêu câu hỏi trên, có lẽ tôi chưa thông suốt
được chút nào về lịch sử các tôn giáo của nhân loại, nói chung gồm cả 2 khuynh
hướng: độc thần giáo ( Du Già, Thiên Chúa, Hồi giáo) và đa thần giáo (Vật Linh,
Bà La Môn, Ấn giáo, Phật, Lão, Khổng...). Nếu tôi đã thực sự quán triệt được phần
nào tôn giáo sử Đông -Tây, tất nhiên tôi phải biết sự tích đấng Thiền Tổ đời thứ
28 ở Ấn Độ, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) năm 520 (sau TC, ngày 21, thg 9, âl.)
ngài đã qua Trung Quốc diễn giảng đạo lý cho vua nhà Lương là Võ Đế nghe. Thời
bấy giờ, ở bên Tàu , người ta đều tu học đạo Phật theo lối " hữu vi",
nên không biết nhiều về thuyết "vô vi", nên chẳng mấy ai hiểu ngài.
Ngài vào núi Tung, đến chùa Thiếu Lâm , diện bích suốt 9 năm, tu thiền định với
chủ trương khai phóng " bất lập văn tự, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành
Phật".Nói nôm na là:" vô sư vô sách, quỷ thần bất trách, qủy thần tri
". Bởi ngài đã kịp nhận ra đám rừng kinh sách rậm rịt chỉ là thứ chướng ngại
vật lớn lao đã ngăn bước chân và làm lạc lối con người tìm đường đạt đạo và bọn
thầy chùa lưu manh, gian ác dễ lợi dụng, lừa gạt đám quần chúng ngu si. Tóm lại,
như vậy ngài đã là nhân vật tiền phong thực hiện việc " QUẲNG THÁNH KINH
ĐI..." . Khi đã vứt bỏ hết kinh sách rồi thì đám tu sĩ " trung gian
giữa ông trời và con người" tất nhiên trở thành vô dụng, bị phế lọai. Vì
sau khi đã qua sông rồi, còn ai vác chiếc thuyền gỗ nặng nề, thô kệch theo làm
gì nữa? Hay là khi ta đã nhìn thấy mặt trăng rồi, ta đâu cần đến ngón tay chỉ
trỏ của ai kia làm gì nữa, phải không?!..
Như vậy chứng tỏ đấng Thiền Tổ Bồ Đề Đạt Ma
đã quán triệt được tận gốc rễ của sự tu hành và tính chướng ngại vô cùng lớn
lao của thánh kinh; nhưng phát kiến tích cực của ngài vẫn không đủ sức thuyết
phục nhân loại và tín đồ Phật giáo chịu " quẳng thánh kinh đi..." và
chỉ tu đạo theo lối " trực chỉ chân tâm" và " kiến tánh", tức
theo đạo, tu đạo bằng chính tấm lòng trong sáng và trí khôn biết phân biệt đúng
/ sai, hay/ dở của lòng mình.
Bây giờ đem vấn để "quẳng thánh kinh
đi..." của Thiền Tổ Bồ
Đề Đạt Ma mà quán chiếu vào vấn đề kinh
sách của các đạo thờ độc thần của Tây phương ta thấy điều gì? Mặc dù tính chất
vô luân của kinh thánh đã hiển lộ quá hiển nhiên, đến nỗi ngay cả các đức giáo
hoàng, các hàng chức sắc cao cấp lãnh đạo tòa thánh Vatican cũng không ai dám
ra mặt phủ nhận hay biện bạch gì. Nhưng giải quyết một vấn
đề tín ngưỡng đã tồn tại trong não tủy con người cả mấy ngàn năm không đơn giản
như ta quẳng một món ăn nhiễm độc vào thùng rác. Riêng trong quần chúng , chẳng
một lực lượng thế tục nào, dù là chính phủ dân chủ uy tín mạnh mẽ đến đâu, cũng
không dám đụng đến vấn đề cực kỳ nhạy cảm ấy. Trước một vấn đề quá phức tạp, hết
sức tế nhị và vô cùng khó khăn, đầy áp lực chết người đó, ta chỉ còn trông
cậy vào 2 yếu tố rất tiêu cực là thời gian và sự tỉnh ngộ của các giới tín đồ
mà thôi!
Theo ta biết, qua trải nghiệm cuộc sống,
các yếu tố tiêu cực thường chỉ đem đến những hiệu quả rất phi phỏng sau một thời
gian hết sức lâu dài. Tuy nhiên, riêng vụ kinh thánh của đạo TC, ngày nay ta cảm
thấy có đôi chút phấn khởi và đáng tự tin hơn. Vì lẽ từ nửa thế kỷ gần đây, dường
như giáo hội TC đã cảm thấy điều gì bất ổn đang nổi cộm như một cục
bướu độc hại trong thánh kinh, nên họ không còn năng nổ tuyên truyền, rôm rả
rao giảng thánh kinh và áp đặt nghiệt ngã giáo luật đối với tín đồ như xưa nữa.
Thí dụ giáo hội Thiên Chúa ngày nay đã bị tách rời khỏi lãnh vực chánh trị,
giáo quyền không được phép ngang nhiên xâm phạm, hay can thiệp vào lãnh vực thế
quyền, giáo hội không còn tùy tiện ngăn cấm triệt để các vụ: kết hôn dị giáo,
phá thai, ngừa thai, đồng tính ái ân..., không dùng tòa án giáo hình xử tội hỏa
thiêu, ném đá, đóng cọc lỗ đít mấy người đàn bà, đàn ông " đồng đạo"
can tội gian dâm cẩu hợp.Thậm chí ngày nay, bọn con chiên phạm đại tội phản
chúa, phản giáo, bôi bẩn giáo điều ghi trong kinh thánh- như bọn tu sĩ
pédophiles vậy!- vẫn nhởn nhơ kéo nhau đến nhà thờ đọc kinh, rước lễ trước mặt
chúa mà vẫn không hề bị các cha cố, thay mặt chúa khuyên răn hay trừng phạt mảy
may gì (lạ thật!). Ngoài ra, các con chiên bổn đạo không còn bị buộc tội phù thủy,
báng đạo, phạm thánh, phản đạo v.v...
Trong dư luận, còn có nguồn tin cho rằng
giáo hội TC đã cấmcác giới con chiên bổn đạo đọc kinh thánh và đã thu hồi các bộ
kinh thánh vô luân ấy. Nếu quả vậy, thật là điều vạn phúc cho các giáo dân?! Trong
lãnh vực tinh thần quần chúng, ta nhận thấy từ cuối thế kỷ XX sang thế kỷ XXI,
nhờ phát minh khoa học thông tin điện tử thần tốc, trí khôn của loài người đã
mau chóng mở mang bao la hơn xưa. Hãy dẫn ngay một chứng tích vĩ đại, hùng hồn
nhất: Hiện con người trên quả địa cầu này đã thành công vẻ vang trong cuộc
phóng vệ tinh lên sao Hỏa và đang nghiên cứu khí hậu, phong thủy để tiến hành
chương trình đưa con người lên đó sinh sống. Được biết: quả đất chúng ta đang sống
đây cách xa HỏaTinh (Mars) đến 92 triệu Km. khiến hành trình thám hiểm Sao Hỏa
phải mất đến 7 tháng. (Theo tài liệu của Nasa, công bố ngày 17.4.14, các khoa học
gia về vũ trụ học phải đo bằng tốc độ " ánh sáng". Một năm ánh sáng =
9.460 tỷ (milliards) cây số...).Bởi con người đã có khả năng cướp quyền tạo
hóa, đồng thời lật mặt nạ lừa bịp của " chúa trời " trong kinh thánh,
nên có thể vì vậy mà giáo hội TC không còn dám thản nhiên đầu độc tư tưởng tín
đồ bằng những chuyện huyền thoại hoang đường ngớ ngẩn, phản khoa học nữa!
ĐỨC TIN BĂNG HOẠI
Do đó giáo hội TC đành phải thả lỏng cho đức
tin (la foi) của các giới tín đồ tha hồ tự do bay bổng khắp không gian và vũ trụ.
Như ta đã biết, hiện nay, chẳng ai không biết tình trạng suy thoái đức tin TCG
La Ma ở Âu Mỹ đã diễn ra hết sức trầm trọng. Khoảng 20 năm trước đây, những buổi
họp giáo dân tại nhà thờ của các giáo xứ thường đông đúc, nay chỉ
còn thưa thớt, loe ngoe vài mống già nua lụ khụ đang lê lết trên đường tìm đến
với chúa trời Yahvé hoang tưởng của họ! Tội nghiệp! Nhưng để cho chính xác hơn,
căn cứ vào con số thống kê những người rửa tội trong năm 2.000 so với năm 1.900
đã giảm sút mất một phần ba. Ngày xưa, dưới thời kỳ thực dân, số người cải đạo
(đôi khi bị cưỡng bách bằng võ lực) trong các nước Á Châu và Nam Mỹ Châu rất
nhiều. Kể từ khi chế độ thực dân đã cáo chung, con số tín đồ tân
tòng cũng giảm thiểu trầm trọng. Bây giờ, tính chung tín đồ TCG La Mã trên thế
giới có khoảng trên 1 tỷ người, và Tin Lành có khoảng nửa tỷ. Sa sút thảm hại
nhất có lẽ là phái Chính Thống (Orthodoxe) ở Đông Âu và Nga Sô. Khoảng
năm 1.900, trong số 5 người dân có một tín đồ Chính Thống Giáo. Bây giờ con số
tụt mất phân nửa. Trong 10 người dân mới có 1 người theo Chính Thống Giáo. Trước
năm 1939, bốn nước TCG hàng đầu ở Âu Châu gồm : Đức, Ý Đại Lợi, Pháp và Tây Ban
Nha. Ngày nay những nước TCG đứng hàng đầu là: Ba Tây (Brésil), Mễ Tây Cơ, Hoa
Kỳ, và Phi Luật Tân. Ngày xưa, nước Pháp vốn được tôn xưng là ”trưởng
nữ” của giáo hội TCG La Mã nay đã bị tụt xuống hàng thứ 6, đứng sau nước Ý
(hàng thứ 5). Về phía đạo Tin Lành, sau Anh, Mỹ là đến nước Nigéria, và cộng đồng
dân da đen , thuộc các chủng tộc Phi châu, gốc nô lệ đã bị cưỡng bách theo đạo
của đế quốc thực dân Anh...
Nhận định về đức tin TCG, ta thấy nữ sĩ Mme
de Maintenon đã viết:” Ở các tỉnh, tín đồ Thiên Chúa không còn nữa!”. Thực sự ,
ngày nay các giáo đường TCG ở vùng quê đều vắng tanh chẳng khác gì những cái giếng
khô giữa sa mạc. Hơn nữa , công chúa Palatine còn nói thêm :” Niềm tin đã tắt!”
(La foi est éteinte)! Mới đây (2014), theo một thống kê về đức tin
TC tại Pháp, người ta không khỏi ngạc nhiên nhận thấy: Trong 2 người Pháp đã có
hơn 1 người tự nhận mình vô tín ngưỡng!
Trong tác phẩm ”Pensées détachées”, văn hào
Bossuet, thời vua Louis XIV, đã từng nói:” Người ta coi Thượng Đế như chẳng có
” (On compte Dieu pour rien).
Niềm tin đã mất, số lượng tín đồ sa sút,
nhưng trong mấy năm gần đây, hành động phạm pháp, đặc biệt là tội ”pédophilie”
(gian dâm cẩu hợp với trẻ con trong giáo phận) của giới tu sĩ TCG Âu, Mỹ đã làm
sứt mẻ rất nhiều uy tín tôn giáo, đồng thời gây thiệt hại rất lớn lao cho ngân
sách của tòa thánh Vatican. Theo tin tức truyền thông và dựa trên hồ sơ tòa án,
báo New York Times cho biết, tính đến ngày 31. 12. 2002, đã có 4.268 nạn nhân
tuyên bố hay đã nạp hồ sơ kiện các tu sĩ TCG can tội lạm dụng tình dục trong 6
thập niên qua. Kết quả cuộc khảo sát này cho thấy: trong đó có 1,205 linh mục
(tức 1,8% tu sĩ được phong linh mục từ năm 1950 đến năm 2001) đã bị tố giác tội lạm
dụng tình dục. Trong số đó, nhiều người được thụ phong trong khoảng các năm
1950 và 1970. Nhưng các vụ phạm pháp này đã xảy ra nhiều nhất trong 2 thập niên
70 và 80. Trong số có khoảng 50% linh mục bị tố cáo đã làm tình từ 1 đến 4 thiếu
niên, và 16% đã làm tình từ 5 trẻ trai trở lên...!
Mới đây nhất, hiện còn đang nóng hổi, trong
khoảng thời gian từ những ngày 4-8 tháng 6. 2014, trên mặt truyền thông, báo
chí, truyền thanh truyền hình Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan đã khui vụ mồ hoang tập thể
của 800 cô nhi vô thừa nhận trong khuôn viên của Nữ Tu Viện " THE TUAM
HOME" thuộc quận Galway County ở Ái Nhĩ Lan (Irland) (theo con số kiểm
điểm của địa phương, trong nấm mồ chôn tập thể vĩ đại ấy, người ta chỉ tìm thấy
có 796 hài cốt trẻ sơ sinh, từ mới đẻ ra được 2 ngày cho đến 9 năm tuổi là nhiều
nhất, nên đã gây chấn động dư luận quần chúng khắp Âu châu, nhất là các giới
tín đồ, con chiên bổn đạo thuần thành của Thiên Chúa Giáo!
Nên biết: Nữ Tu Viện Tuam Home vốn là một
trong tồng số 10 nữ tu viện lớn đã do các nữ tu đồng trinh, độc thân của giáo hội
Thiên Chúa Ái Nhĩ Lan, thuộc tổ chức" Bon Secours Nuns" điều hành quản
trị từ năm 1925 đến 1961, chuyên môn quyên tiền từ thiện của bá tánh để nuôi trẻ
mồ côi, con hoang vô thừa nhận và cũng là nơi tạm trú của trên 35.000 phụ nữ chửa
hoang ( unmarried pregnant women) - còn gọi là " những người đàn bà con
gái sa ngã" ( fallen women) - ...Nhưng thời gian sau này có nhiều dư luận
tại địa phương cho rằng phần đông trẻ con vô thừa nhận của tổ chức này toàn là
con chửa hoang của các " ma sơ" (ma soeur) đồng trinh (sic!) và các
giới cha cố phạm giới lén lút tạo tác nên, nhưng không đăng ký sổ bộ khai sinh
của thị xã hoặc khai báo với giáo hội.
Trước vụ này, tổng giám mục Diarmuid
Martin, cai quản địa phận Dublin, một khuôn mặt nổi trội trong hàng giáo phẩm của
giáo hội TCG Ái Nhĩ Lan, đã phải lên tiếng:"...cần phải mở cuộc
tra cứu toàn bộ...". Vì tất cả những vụ chôn cất chung hàng mấy
trăm hài nhi vào một nấm mộ hoang không cả mộ bia trong nghĩa địa
riêng của Nữ Tu Viện " TUAM HOME" đều không ghi bất cứ một chi tiết
nào về tên tuổi, ngày giờ và nguyên nhân tử vong của từng đứa trẻ đã qua đời. Đặc
biệt kỳ dị là chính đức tổng giám mục của nước cộng hòa Ái Nhĩ Lan
cũng phải tỏ ý vô cùng kinh ngạc về ngôi mộ hoang tập thể lớn lao
ghê gớm ấy. Riêng giám mục Michael Neary, người đứng đầu địa phận, nơi gồm có Nữ
Tu Viện TUAM HOME cũng không khỏi thốt ra câu:" Tôi hết sức kinh ngạc, như
mọi người, khi được biết về tổng số khủng khiếp trẻ em tử vong đã chôn trong
nghĩa địa ở TUAM!".... ( Trích lược tin của BBC từ 4 -
8.6.14). Trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua, giới tu sĩ TCG
thường vẫn phải đối phó với nạn thặng dư nhân sự hơn là thiếu hụt.
Thời cổ đại, trong đền thờ Amon ở Karnak đã có đến 81.322 tu sĩ. Để thoát khỏi
tệ nạn tu sĩ toàn quyền năng ở Thèbes, quốc vương Aménophis IV đã phải chọn tín
ngưỡng Aton, thờ độc thần. Thuở sinh tiền chúa Jésus, lúc đó đền Jérusalem cũng
đã có từ 12.000 đến 15.000 đạo sĩ, cộng thêm bọn thầy tu giòng Lévite Do Thái,
chuyên làm việc tế tự trong giáo đường. Để chống lại những hành vi nhũng lạm của
bọn tu sĩ cha truyền con nối và chuyện buôn thần bán thánh, Jésus đã muốn triệt
hạ ngôi đền và đuổi cổ hết bọn buôn bán, gây ô uế , ra khỏi nơi thờ tự thanh
khiết. Nhưng, hỡi ôi, sự việc bất thành, ngài đành chịu đóng đinh trên cây thập
tự giá!
Nếu khi nào luật độc thân được bãi bỏ, và
tu sĩ trở thành như một nghề kiếm cơm như nghề luật sư, bác sĩ...và được hưởng
quyền kế nghiệp, cha truyền con nối, hay mẹ (làm linh mục, mục sư) truyền nghề
cho con gái v.v... được giáo hội thừa nhận, có lẽ lúc đó số tu sĩ có thể gia
tăng nhiều hơn, và các trường dòng của giáo hội sẽ bị tràn ngập học sinh.Trong
trường hợp này, nếu được phần lượng sẽ mất phần phẩm. Nhưng dù sao, trước nạn
khan hiếm tu sĩ trầm trọng khắp nơi, giáo hội đành phải nhắm mắt chấp nhận hy
sinh cái phẩm để lấy lượng. Hiện tượng đặc biệt nhất là ngày nay giáo hội TC đã
không dám sa thải một linh mục phạm tội ấu dâm nào, mà chỉ loay hoay hoán chuyển
những phạm nhân ấy vòng vòng từ giáo phận nay sang giáo phận khác mà thôi! Những
chỉ dấu trên đây đã hé lộ cho ta thấy: Chẳng còn bao lâu nữa tôn giáo sẽ trở
thành cái vỏ dừa rỗng ruột, tức nhà thờ và giáo hội vẫn tồn tại như xưa, nhưng
đức tin Thiên Chúa đã tan biến mất như một vũng nước bốc hơi và các giáo sĩ chỉ
còn trơ lại như một thứ ký sinh trùng xã hội, hành động vô tích sự, sống vô sản
xuất. Thực trạng này hiện nay đã và đang diễn ra tại Do Thái, ngay trong ruột
gan của đạo Du Già, phái chính thống, cuống rốn của đạo Thiên Chúa. Từ xưa, đám
tu sĩ Rabbins đạo Du Già chính thống của Do Thái vốn được hưởng toàn
quyền đặc miễn trong mọi lãnh vực, từ gia đình ra ngoài xã hội chỉ vì lý do tu
học. Mọi thứ gánh nặng trong gia đình, làm việc kiếm tiền, nuôi nấng, dạy dỗ
con cái...đều do người vợ phải đảm trách. Hồi đầu năm nay (2014), chính phủ Do
Thái nhận thấy có sự bất công trong nghĩa vụ quân sự, đã ban hành luật mới, động
viên tất cả các giới tu sĩ đạo Du Già chính thống. Lập tức những kẻ "tu
hành" (sic!) này liền dùng chiêu bài tôn giáo, vịn cớ tu học, phản đối mạnh
mẽ, kêu gọi nhau xuống đường chống chính phủ lung tung! Hành động
như thế, các tu sĩ Do Thái Du Già chính thống đã nói lên điều gì? Đó là cái vỏ
tôn giáo thờ đức chúa trời đã rỗng ruột, tức một thứ tôn giáo đã KHÔNG CÒN ĐỨC
TIN NỮA, mà chỉ là một thứ hang ổ tập họp những người hoàn toàn vô trách nhiệm,
lười biếng, suốt đời chuyên ăn hại đái nát! Hơn nữa, sự kiện ấy còn cáo giác
thêm một sự thật rất ê chề và vô cùng cay đắng là bọn tu sĩ hàng mấy ngàn năm
qua đã chỉ mượn danh tôn giáo để trục lợi, hưởng nhàn và làm..."cha"
thiên hạ!
TÔN GIÁO VÀ VÔ TÔN GIÁO KHÁC GÌ NHAU?
Trước khối tín đồ ngày nay đã trở
nên văn minh, sáng suốt hơn và đức tin đã bị phá sản đến cùng cực và đang âm thầm
tan rã từng mảng lớn như mấy tảng băng bị ánh nắng mặt trời nung đốt, khiến các
vị giáo hoàng TC không còn tự coi mình là bậc siêu nhân quán thế " KHÔNG LẦM
LỖI" (infaillibilité).
* Nên nhớ : Từ thế kỷ XI, các giáo hoàng TC La Mã
đã được hưởng quyền thế tục" KHÔNG LẦM LỖI" (infaillibilité). Nhưng
đó chỉ là một cái vỏ che đậy bên ngoài, sự thực của lịch sử đã chứng minh rất
nhiều ông giáo hoàng đã vô cùng lầm lỗi và rất vô luân. Điển hình đáng kể nhất
trong thời cận đại của chúng ta, khoảng các thập niên 1930-40, tức thời kỳ đệ
nhị thế chiến với Đức Quốc Xã, giáo hoàng Pie XII, đã trở nên một thứ chính trị
gia Machiavel tân thời đã công khai hợp tác với tập đoàn Nazis (Đức Quốc Xã) đến
mức nổi danh với biệt hiệu là " Giáo Hoàng của Hitler" (Pape de
Hitler). Tuy giáo hoàng Pie XII đã không trực tiếp xả súng đại liên giết người
hàng loạt bên những hố tử thần đã đào sẵn như mấy tên lính Quốc Xã hay những
tay đệ tử trung thành, tín đồ TC ngoan đạo của ngài như những tên Ante Pavelic,
lãnh tụ dân Croate theo đạo TC cùng với đồng bọn của hắn là bọn
"Oustachics" (cái tên này do Pavelic đặt cho, nó bắt nguồn bởi động từ
"Outati", nghĩa là : vùng lên! ). Nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp và
nôn nả, hăng say đôn đốc của giáo hoàng Pie XII chỉ trong vòng có 4 năm, từ
1941-45, bọn chúng đã tắm trong biển máu của hàng triệu dân Serbes tín đồ Chính
Thống Giáo, dân Do Thái, và dân Bohemiens, Tziganes v.v...(tác phẩm: Le Pape et
Hitler,l'Histoire secrète de Pie XII, của John Cornwell, nxb Le Club). Chính vì
thế mà sau này giáo hoàng Jean Paul II, gốc dân Ba Lan, đã phải công khai lên
tiếng " xin lỗi" toàn thể tín đồ và nhân loại về các đại ác tội trong
quá khứ của đạo TC. Kế đến, đức giáo hoàng Benedict XVI phải thoái vị, vì các tội
lỗi ô uế, bẩn thỉu của các giới lãnh đạo tinh thần con chiên khắp nơi trên thế
giới. Đây là một biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử hàng ngàn năm của giáo hội
TC La Mã. Gần đây nhất, mới vài ngày nay (đầu tháng 4. 2014) vị đương kim giáo
hoàng Francis đã phải dùng đài phát thánh của giáo hội "Vatican
Radio" kêu gọi các cộng đồng giáo dân khắp thế giới hãy tha thứ cho các tu
sĩ phạm tội gian dâm cẩu hợp với trẻ con...Sự kiện này hiển nhiên đã chứng minh
niềm tin của giáo dân đối với giáo hội Thiên Chúa đang trên đà sa sút nghiêm trọng!
Tại sao ông không cầu xin đức chúa trời cha và con tha thứ cho những kẻ chăn
chiên phạm tội ô uế ấy?! Cầu nguyện như thế ông giáo hoàng vừa khỏi mắc tội
" truất quyền " của đức chúa trời lại còn thêm
hợp tình hợp lý, theo đúng hệ thống thứ bâc giáo quyền theo mẫu hình Kim Tự
Tháp.
Mặt khác,theo tôi, giáo hoàng Francis công
khai ngỏ lời xin tha tội cho các tu sĩ TCG phạm đại tội hình sự như vậy còn tỏ
ra bất công và bất minh. Rõ ràng ông muốn bao che cho các can phạm đồng đạo của
ông. Đặc biệt nhất là ông đã cố tình mưu dùng giáo quyền để trấn áp thế quyền.Tại
sao ông không ra lịnh" rút phép thông công" ngay lập tức đám tu sĩ
gây nhơ bẩn cho đạo, làm tan vỡ niềm tin trong quần chúng tín đồ? Tại sao ông
không để cho nhà cầm quyền sở tại điều tra vụ án, lập hồ sơ truy tố
công khai bọn lợi dụng danh nghĩa tôn giáo, vi phạm luật đời, xâm hại ấu nhi?
Ông nên nhớ rằng: Những kẻ phàm nhân, nếu phạm các tội ấy sẽ phải đền tội nhục
hình rất nặng nề đến mãn kiếp trong ngục thất! Tôi mong đợi được ông giáo hoàng
hay một vị đại diện nào đó của tòa thánh Vatican chỉ giáo. Xin đa tạ trước!
May sao, ngày 23 tháng 12. 2014,
theo các nguồn tin tức truyền thông thế giới, trong một đại hội long trọng tại
tòa thánh Vatican, chính đương kim giáo hoàng, Francis, đã công khai lên tiếng
mạnh mẽ phê phán gay gắt tình trạng quan liêu ở
Vatican trong một thông điệp tiền Giáng sinh gửi đến các vị hồng y. Ngài than phiền về ‘bệnh Alzheimer tinh thần’,
‘sự khủng bố bằng lời đồn đại’, ‘suy nghĩ ngày một cứng rắn’, và ‘cảm giác
mình là mãi mãi và không ai đụng được đến mình’.Ngài nói Giáo triều Roma – cơ
quản điều hành tối cao của Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã – đang mắc ‘15 căn
bệnh’ mà Ngài muốn chữa trị trong năm mới. Giáo hoàng Francis, vị lãnh đạo
Giáo hội đầu tiên đến từ châu Mỹ-Latin, cũng phê phán ‘những ai bị ám ảnh bởi
hình ảnh của mình’. Ngài yêu cầu cải cách Giáo triều. Khi Giáo hoàng Francis kết
thúc bài diễn văn của mình, cử tọa ngồi im lặng.êu ở Vican
Trong bài diễn văn hôm thứ Hai ngày 22/12,
Giáo hoàng Francis nói một số giáo sỹ ham muốn quyền lực đã phạm tội ‘thản
nhiên giết chết thanh danh của các vị đồng sự và huynh đệ của họ’. Ngài so
sánh công việc của đội ngũ chức việc trong Giáo hội giống như một dàn nhạc
‘lỗi nhịp’ bởi vì họ không hợp tác được với nhau và không có tinh thần làm
việc nhóm.Trước khi được bầu lên hồi tháng 3/2013, Giáo hoàng Francis đã gặp
phải chống đối nội bộ đối với một số cải cách mà Ngài muốn thực hiện.
Ngài đã thành lập một loạt các cơ quan
chuyên trách để chống tham nhũng và quản lý yếu kém đồng thời cũng chỉ định
một đội ngũ cố vấn.Giáo hoàng cũng phát động việc làm sạch Ngân hàng
Vatican vốn bị nhiều tai tiếng sau hàng loạt vụ bê bối. áo hoàng Francis dường như ông nhận được sự
Ngài cũng đề nghị tản quyền của Vatican – vốn
tập trung vào tay Giáo triều trong hàng trăm năm qua – để cho phép các giám mục
trên khắp thế giới có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề về giáo lý của Giáo
hội.Bản thân Giáo hoàng Francis chưa từng làm việc trong Giáo triều trước khi
bước lên ngôi vị giáo hoàng.Từ Rome, phóng viên BBC David Willey bình luận:
“Rõ ràng Giáo hoàng Francis đã gặp phải sự
chống đối trong số gần 3.000 thành viên của Giáo triều mà đa số là người Ý.
Ngài chưa từng làm việc ở Rome trước khi
Ngài được bầu làm Giáo hoàng hồi năm ngoái. Ở Vatican, Ngài là người ngoài đến
từ một nơi khác. Ngài rõ ràng rất bất mãn với tác phong làm việc trì trệ và
yếu kém ở Vatican.Ngài đang cố gắng cải cách Vatican với sự giúp đỡ của một
nhóm cố vấn bao gồm các hồng y mà Ngài triệu tập từ khắp các châu lục để soạn
thảo một bản Hiến pháp mới của Vatican.”
Một hôm sau, trong thông điệp Giáng sinh
thứ nhì, "Urbi et Orbi", Đức Giáo hoàng nhắc đến các nạn nhân của
cuộc xung đột tại Syria và Iraq.Trong đó có những lời đáng ghi nhớ như sau:
"Quá nhiều người đang bị giữ làm con
tin hoặc bị thảm sát" tại Nigeria, Ngài nói thêm. Giáo hoàng Francis cũng
thúc giục đối thoại giữa Israel và Palestine, và lên án các cuộc tấn công của
Taliban tại Pakistan.Hàng chục ngàn người đã tới Quảng trường St Peter để nghe
Đức Giáo hoàng người Argentina đưa ra thông điệp hàng năm.Ngài nói người Thiên chúa giáo tại Iraq
và Syria đã phải chịu cuộc xung đột quá lâu, và "cùng với những người
thuộc các nhóm sắc tộc thiểu số và các nhóm tôn giáo khác, đang phải chịu sự
đàn áp tàn bạo"."Mong rằng Giáng sinh sẽ đem tới cho họ niềm hy vọng,
và cho cả những người phải ly tán nhà cửa, phải sống lưu vong, tị nạn, cho các
trẻ em, người lớn, người già ở nơi này cũng như trên toàn thế giới," Đức
Giáo hoàng nói.
Trong bài diễn văn ngày Giáng sinh, Ngài
cũng cầu cho hòa bình tại Ukraine, Nigeria, tại Libya, Nam Sudan và các vùng
khác của châu Phi.Ngài kêu gọi hãy chia sẻ cảm thương cho gia đình của 132 thiếu
niên bị giết trong vụ Taliban tấn công ở Pakistain hồi tuần trước, và cho các nạn
nhân của nạn dịch Ebola.Trong hôm thứ Tư, Ngài đã có cuộc điện thoại gây ngạc
nhiên tới cho những người tị nạn ở một khu trại gần Irbil thuộc vùng
Kurdistan phía bắc Iraq. "Các con giống như Đức Jesus trong đêm Giáng sinh
vậy. Ngài cũng không có một căn phòng nào cho mình," Ngài nói với họ.Cuộc
tiến quân vào Iraq của các tay súng Nhà nước Hồi giáo (IS) đã khiến hàng chục
ngàn người Thiên chúa giáo và thuộc các nhóm phái tôn giáo khác phải bỏ chạy".
Các lời phê bình và cổ động gắt gao
trên đây của giáo hoàng Francis, không biết mai sau có đem đến cho giáo hội TC
chút cải tiến cụ thể gì không,nhưng ngay lúc này đã khiến chút niềm tin và hy vọng
nhỏ nhoi còn le lói trong tôi chợt bùng lên để tiếp tục hoàn tất tác phẩm này.
Tôi hy vọng những tín đồ ngoan đạo khắp nơi trên thế giới, chẳng cứ gì dân VN
trì độn, chậm tiến hãy sớm mở mắt, mở tai và mở cả trí tuệ của mình ra noi theo
tinh thần của giáo hoàng Francis, mà soi rọi vào các cuộc bắn giết dã man, tàn
bạo, đầy thù hận, hoàn toàn thú tính trên khắp thế giới, hằng ngày, do các tôn
giáo độc thần gây ra.
Với tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng
hoàn toàn trong sáng và lòng chân thật không thay đổi, với sách này, tôi chẳng
có ý khen chê, bài bác tôn giáo nào mà chỉ nói lên một sự thật rất cụ thể, rất
dễ kiểm chứng vốn đã tích lũy trong kinh thánh Du Già, TC và Hồi
giáo từ nhiều ngàn năm qua. Dù cho đọc xong sách này, ai đó vẫn cứ tiếp tục phụng
thờ tôn giáo, cứ tiếp tục tin nơi thần linh, thánh chúa của mình, hoặc trở nên
vô thần...cũng chẳng sao, chẳng ảnh hưởng mảy may nào đến xã hội, miễn là cá
nhân đó, trước tiên phải " tự biết mình trước khi biết đến tôn giáo và chúa
trời..." đúng theo lời dạy của thánh triết Hy Lạp Socrate!
Tôi nhận định: Một tín đồ tuyên xưng mộ đạo,
mang danh nghĩa tôn giáo toàn tòng mà chẳng biết tí gì về tôn giáo và đức chúa
trời của mình (đã ghi rõ trong thánh kinh), nếu so với một kẻ vô tín ngưỡng,
hay vô thần, cả đời không đọc một chữ thánh kinh, không tin trời, không tin
thiên đàng hay địa ngục gì ráo trọi, và nhất là chẳng hề nghe lời khuyến dụ của
những kẻ khoác áo tu hành... cả 2 kẻ ấy đều như nhau!
TÔN GIÁO, MỘT NHU CẦU?
Vì bị nhồi sọ cưỡng bách bằng lối tuyên
truyền lừa gạt và hù dọa trắng trợn từ các đời cha ông đến tận ngày nay, nên
nhiều người đã quan niệm hết sức sai lầm, cho rằng " tôn giáo là một nhu cầu".
Vậy, nhu cầu tôn giáo là gì? Theo định nghĩa của từ điển Le
Robert":" Một nhu cầu là một đòi hỏi phát sinh từ thiên nhiên hay do
đời sống xã hội" (Un besoin est une exigence née de la nature ou de la vie
sociale)". Thí dụ: nhu cầu về mặt thiên nhiên là: " tứ khoái", gồm
: ăn, ngủ, đ..., ỉa"! Con người mà không có nhu cầu " tứ khoái",
không ăn uống, không ngủ, không giao hợp được, bị táo bón đến mức không đi ỉa
được...nhất định 100% , vài ngày sau sẽ chết toi ngay! Ngược lại, từ thuở khai
thiên lập địa đến nay, chưa một kẻ nào đã bị chết vì..."VÔ TÍN NGƯỠNG"
hết thảy. Vậy, tại sao lại dám gán bậy cho là ...nhu cầu tự nhiên?!
Còn tôn giáo là gì? Chẳng qua nó chỉ là một
hình thức tụ họp nhiều người như các tổ chức hội đoàn nghề nghiệp, hiệp hội ái
hữu, băng đảng, bầy đàn, bè nhóm linh tinh... tùy sở thích của mỗi
cá nhân, chẳng khác nào một thứ đồ trang sức xe xua có tính cách phô trương màu
mè, cho một cá nhân. Với khái niệm ấy, chúng ta hãy nhìn chung quanh một lượt,
rồi xét xem từ cổ chí kim đã có kẻ nào đã bị chết toi vì chứng tật " vô
tôn giáo" không? Ngoài ra, những người có tôn giáo với những
người vô tôn giáo có gì khác nhau không? Hơn thế, trong giới con chiên ngoan đạo
trên cõi thế gian này đã có ai dám công khai tự phán câu kinh Phúc Âm sau
đây:" Ta tốt đẹp hơn những kẻ khác!"(Je suis meilleur que les
autres!)(Luc. 18,9) hay không ?!
Tóm lại, ta có thể khẳng định dứt khoát:
Tôn giáo hoàn toàn không phải là một nhu cầu, Có cũng được, không càng tốt hơn,
miễn đừng đánh mất đức tin! Đức tin tôi nói đây không phải là thứ tín ngưỡng một
đấng thần linh, một ông trời độc nhất nào đó do tôn giáo nhồi sọ. Vì hàng tỷ
người đã tín ngưỡng, cầu xin ông trời liên tục suốt ngày đêm hàng mấy ngàn năm
qua mà chẳng hề một ai được thấy ông ta đáp ứng dù chỉ trong nháy mắt! Đức tin
mà tôi đề cập nơi đây hoàn toàn không thể thiếu và thuộc về thiên bẩm cá nhân,
ví như bánh lái con tàu lênh đênh trên sóng cả, phong ba bão táp của đại dương.
" ÔNG TRỜI": MỘT BỊA ĐẶT ĐỘC HẠI GHÊ
GỚM CỦA TÔN GIÁO!
Trước khi nói chuyện " ông trời",
ta hãy nêu lên vài điểm chính về "vũ trụ luận". Từ đó tự nhiên ta sẽ
nhận ra ngay các đức chúa trời, gồm: chúa cha Yahvé, chúa con Jeusus và
Allah...có phải những ông trời thứ thiệt hay chỉ có tính cách ngụy tạo, con đẻ
của bọn Do Thái viết thánh kinh.
Căn cứ trên thánh kinh: đức chúa trời Yahvé
của dân Do Thái là người đã sáng tạo ra vũ trụ, đồng thời còn là " cha đẻ"
(sic!) ra toàn bộ nhân loại và các loài sinh động vật trên mặt đất này Khởi từ
ông Adam và bà Eva! Nhưng, ngược lại, trớ trêu thay, các nhà thông thái nghiên
cứu về khoa học vũ trụ và nhân chủng học cùng với các nhà khảo cổ lừng danh thế
giới đều chẳng một ai thèm đếm xỉa một lời nhỏ xíu nào đến nhân vật huyền thọai
nhảm nhí ấy.Riêng khoa học gia Charles Darwin (1809-1882) người Anh đã cùng với
các nhà bác học danh tiếng đồng thời, gồm: Henslow, Hooker, Lyell...sọan ra các
tác phẩm giá trị bất biến:"Bàn về nguồn gốc các giống, loài bằng đào thải
tự nhiên (1859)", "Bàn về sự thay đổi của vật nuôi và cây trồng
(1859)", "Bàn về giòng dõi loài người (1871)," Sự biểu hiện về cảm
xúc ở người và vật (1872)", "Kết quả thụ tinh trực tiếp và
thụ tinh chéo trong giới thực vật (1876)"...Tóm lại Darwin là một nhà địa
chất, nhà sinh vật học, nhà tâm lý, nhà lý luận chính yếu về " Tiến Hóa luận"
và vũ trụ luận. Học thuyết của ông đã được nhiều khoa học gia khắp thế giới ủng
hộ (T.H. Huxley). Vì học thuyết " BIG BANG" của Darwin, ông chúa trời
Yahvé của các tôn giáo bị nổ banh xác không còn một hạt bụi li ti nào trên mặt
đất, họa chăng chỉ còn rơi vãi ngấm ngầm vài mảnh vụn trong lòng của một số
giáo đồ chậm tiến nhất. Với thuyết ấy, vũ trụ này đã tự sinh và tự hiện hữu, từ
" vô thủy đến vô chung", chẳng một kẻ thần thánh dởm nào đủ khả năng
tạo ra nó khi cao hứng, rồi sau này sẽ ra tay diệt nó khi...cụt hứng! Vẫn theo
thuyết Darwin và công trình nghiên cứu khoa học của các nhà nhân chủng
và khảo cổ học, chúng ta được biết đã có nhiều loài sinh động vật từng xuất hiện
trên mặt địạ cầu này hàng tỷ năm về trước...Riêng thủy tổ giống người, đầu tiên
chỉ mới xuất hiện tại Phi Châu khoảng 150.000 năm trước đây, kế đến vùng Trung
Đông, khoảng từ 80.000-130.000 năm, rồi tới A Châu ( khoảng 50.000 năm) và cuối
cùng lan tràn trên lục địa Au Châu (khoảng 40.000 năm).[Illustreret
Videnskab.nr..1, 2011]. Dựa trên cơ sở biện chứng trên đây, nếu ta chịu khó đào
sâu thêm chút nữa, tất sẽ thấy lòi ra ngay nơi sinh, tháng đẻ của ông chúa trời
Yahvé Do Thái. Ong chúa trời này được sinh ra đời không bằng con đường âm đạo
thông thường của nữ giới, mà lại do bọn tác giả soạn kinh " Cựu Uớc"
người Do Thái " đẻ" ra bằng chữ Hebreux trên giấy bút, trong khoảng
thời gian từ 1.000 năm đến 600 năm trước Thiên Chúa trong vùng Cận Đông.
* GHI CHÚ:Theo tôi, ông trời Yahvé của dân Do Thái
không thể nào ra đời trước khoảng thời gian nêu trên, vì lúc bấy giờ dân Do
Thái cũng như các giống dân khác trong vùng, như Ai Cập, ả Rập...hãy còn dùng
các loại chữ ký âm hình nêm (cunéiforme), chữ tượng hình (hiéroglyphe)...Với những
chứng liệu đanh thép nêu trên, làm cách nào ông trời Yahvé của dân Do Thái và đức
chúa cha của đạo TC có thể tạo dựng nên một càn khôn vũ trụ với muôn loại vạn vật
vốn đã từng hiện hữu trên mặt quả địa cầu này hàng tỷ, tỷ năm trước ông
ta?!
Khi luận về tôn giáo và tín ngưỡng "
ông trời", tôi nhận thấy trước đây không xa, nhiều nhà bác học đại tài và
các bậc thánh triết lừng danh trong thiên hạ, như: Lumière (thế kỷ XVIII), cùng
với Descartes, Pascal, Newton, Leibniz...đều đặt kỳ vọng vào một tôn giáo tự
nhiên (religion naturelle), không có tu sĩ và hoàn toàn độc lập trước mọi thể
chế. Điều ấy cũng là ước mơ của văn hào Voltaire về " un dieu sans église"
một ông trời không giáo hội, không nhà thờ. Vì nhà thờ chỉ là chỉ là nơi tụ tập
bọn gian ác, sảo trá, thông đồng lường gạt kẻ ngây thơ, tượng trưng là đám râu
tóc bờm xờm học vấn lem nhem (barbu hirsute et inculte). Riêng các khoa học gia
đều là những người có khả năng cướp quyền tạo hóa, đồng thời có công phá tan mọi
thứ huyền bí dị đoan về ông trời, tức kẻ thù đã " lột mặt nạ " của
tôn giáo!Nhưng, sở dĩ cho đến nay tôn giáo và ông trời ba xạo vẫn còn tồn tại,
vẫn còn tiếp tục múa may quay cuồng trên sân khấu mê tín dị đoan, vì có người
còn cho rằng khoa học không đủ khả năng đoàn kết tinh thần quần chúng trong một
xã hội. Những bộ óc bã đậu ấy đã bị tôn giáo nhồi sọ đậm đen rồi, nên họ không
biết rằng: Con người không thể nào đòi hỏi toán học ( mathématique) thỏa mãn sự
liên kết chặt chẽ và tạo sinh động chung cho cả một tập thể trong một tổ chức.
Điều này thuộc về tâm linh và tình cảm. Dù là một nhà thông thái trong lãnh vực
khoa học, nhưng nhà thông thái ấy vẫn có thể bị đau khổ, tâm hồn dằn vật, khi
ông ta bị mất phương hướng tâm linh. Trong khi ngược lại, một kẻ ngu si, đần độn
cứ nhất thiết thủ cứng phương hướng tâm linh, tin chắc mẻm 100%: Sau khi chết
nó sẽ được mấy anh mắt xanh, mũi lõ, rặm râu, sâu mắt, tóc bờm xờm cứu rỗi, tiến
dẫn lên thiên đàng với chúa trời, nên nó vẫn cứ vô tư như gỗ đá.Vả chăng, như
ta từng thấy biết, tinh thần (spiritualité) vốn không đủ để tạo nên một tôn
giáo; và một tôn giáo cũng không đủ khả năng tạo nên ông trời như thứ ông trời
độc thần (Dieu monothéistique) của các đạo Du Già-Thiên Chúa (Judéo-Chrétien)và
đạo Hồi. Chưa đủ! Ông trời cô độc ấy cần phải tương quan mật thiết với tinh thần
của con người như mối tương quan hiện hữu giữa một thể lỏng (liquide) với một
tinh thể cô đọng (cristalisé). Tinh thần vốn giao động (vì thuộc thể lỏng), còn
ông trời là một tinh thể cô đọng, nên không thể nào xóa bỏ được cũng như bom
nguyên tử. Với nhận thức này, tôi tin nơi câu của Esaie đã nói với dân Do
Thái:" Nếu ngươi không tin, ngươi sẽ không tồn tại" (Si vous ne
croyez pas, vous ne subsisterez pas)! Có một số người còn coi ông trời như một
nhà tổ chức tập thể ngoại hạng, khi một xã hội bị tan vỡ (désorganise), bị phân
hóa li ti (s'atomiser) hay tương phản lủng củng (s'opposer), khiến niềm tin của
tập thể bị suy yếu, tinh thần (thể lỏng) giao động, rối loạn.Trong trường hợp
này ta cần một vật thể cô đọng thành khối như một " ông trời". Riêng
về tôn giáo, sự liên kết yếu kém. Nó không thể nào hàn gắn dính chặt kẻ nọ với
người kia được. Một số người khác còn kể đến sự liên kết bằng yếu tố "tổ
quốc", với tinh thần sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Nhưng, bây giờ, liệu
người ta còn chịu chết cho tổ quốc nữa hay không?
* Nên biết: Lòng yêu tổ quốc bây giờ là lòng yêu
đồng Dollars và đồng Euros là cuộc sống no đủ của đàn chim thiên di. Sự sai lầm
lớn lao nhất của chủ thuyết giải thoát (Libéralisme) ngày nay là không biết đến
công thức của Danton:"Ta chỉ hủy hoại cái gì mà ta thay thế!" (On ne
détruit que ce que l'on remplace).
*Nên biết: Thị trường Mỹ hàng mấy trăm năm nay vững
mạnh nhất hoàn cầu vì nó đã biết đem đồng Dollars lên hàng thần tượng để tôn thờ
thay cho ông trời vô tích sự. Đó là chìa khóa của đức tin của tinh thần nước Mỹ! (Chú ý: Trên tờ 1 Dollar của Mỹ có in hàng chữ : IN GOD WE
TRUST! Vậy, rõ ràng, đối với Mỹ, ông trời trên thực tế chỉ là đồng...1 DOLLARS
mà thôi! Gần đây, giới trung lưu Mỹ đã hè nhau chống lại giáo dục Mỹ,vì đem dạy
thuyết sáng tạo (Créationnisme) trong các trường học, vì họ sợ đầu óc trẻ con sớm
bị lú lẫn, cùn mòn, chểnh mảng về khoa học. Dân tộc Mỹ vốn đứng đầu thế giới
trên lãnh vực khoa học, nên họ luôn luôn sùng bái thời kỳ "
Lumière" với các nhà thông thái siêu việt của nhân loại. Từ thế kỷ XVIII,
các nhà thông thái siêu đẳng về khoa học của nhân loại đã khẳng định dứt khoát:
TIN VÀO ÔNG TRỜI LÀ NHỮNG KẺ MẮC BỊNH THIỂU NĂNG TINH THẦN (arriération), hay
còn gọi là " chậm hiểu, lạc hậu"... VÀ LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA LÒNG HỜN
GHEN, THÙ HẬN.
Trong cuộc chiến Trung-Đông ta thường nghe nhiều người
nói:" Tất cả đều do lỗi của ông trời. Chúng ta hãy loại bỏ hắn đi, chúng
ta sẽ không còn chiến tranh...!" Dù kêu gọi ồn ào như thế, nhưng tôi thiển
nghĩ: Ông trời vẫn còn nhiều cơ hội tồn tại. Bởi thánh kinh vô luân còn đó,
giáo hội còn đó và các hàng cha cố, các Rabbins Do Thái còn đó, các Imams Hồi
giáo một thứ cán bộ tuyên truyền thánh kinh vô luân vẫn còn đó!
Vậy, tốt hơn hết, ta nên tin cậy nơi TA, nơi con người hơn là
tin nơi ..." ông trời"!
Kể từ thế kỷ XVIII, theo ta, thay vì mỗi khi mở miệng người ta
kêu trời, hoặc nói :" trời bảo, trời dạy, trời phán", thì nên nói ngược
lại là: Khoa học dạy, khoa học chứng minh. Nhất là khi muốn cầu xin điều gì, thực
tế nhất, chắc ăn nhất và linh nghiệm cấp kỳ trong nháy mắt, ta hãy cứ vái lậy,
cầu nguyện "ông trời Dollars", chắc chắn sẽ tọai nguyện tức khắc. Muốn
thấu đáo hơn, xin tìm đọc tác phẩm của Sylvette Denèfle," Et l'homme créa
les Dieux. Comment expliquer la religion" ( Robert Laffont).
TƯƠNG QUAN GIỮA THÁNH KINH VÀ TÔN GIÁO
Như mọi người đều biết, đạo Thiên Chúa từng
công khai minh xác thánh kinh là bộ thánh thư đã ghi chép trung thực những lời
khải truyền trực tiếp của đức chúa trời Yahvé dành cho thánh Moise, để Moise phổ
biến trong quần chúng Do Thái, một chủng tộc ưu tuyển, biệt đãi của chúa trời.
Bây giờ, khi đem toàn bộ thánh kinh, Cựu Ước và Tân Ước lên bàn mổ, ta bất chợt khám
phá ra toàn những ung nhọt tinh thần cực kỳ độc hại. ta không khỏi giật mình
kinh hoảng, đầu óc quay cuồng toàn ác mộng. Vì vậy, ngay khi chợt có ý
nghĩ thực hiện
tác phẩm này, tôi thầm biết nó sẽ gây nên nhiều tranh biệ gắt gao. Nhưng chẳng đặng đừng! Bởi thiển nghĩ thánh kinh chẳng phải là thứ
chỉ toàn giấy mực vô tri giác, nó còn có công năng chuyên chở một điều gì cao
siêu, thiện hảo hay ngược lại hết sức tồi tệ, vô luân núp dưới danh
nghĩa..."ĐỨC CHÚA TRỜI"!
Đấy chính là mục tiêu tối thượng mà người cầm bút nào có chút lương tri với tinh thần tôn trọng CHÂN LÝ và SỰ THẬT , nhất thiết phải xả thân soi sáng.
* ĐẶC BIỆT ĐÁNG QUAN TÂM NHẤT: trong 3 tôn giáo cùng một gốc thờ độc thần YAHVÉ
vốn cực kỳ đại gian, đại ác trong quá khứ. Nhưng nay, kể từ sau đệ nhị thế chiến, đạo Thiên Chúa đã
tỏ ra hòan thiện khá nhiều và khoan nhượng hơn xưa, thậm chí đến độ không còn
áp dụng một số giáo điều nòng cốt với những giáo lệnh sắt máu hãy còn ghi rành
rành trong kinh thánh. Trong khi đó, ngược lại, 2 đạo Du Già và Hồi giáo, hằng
ngày, hằng giờ vẫn còn đang say sưa tắm máu lẫn nhau, máu người đồng chủng, đồng
đạo, lẫn cả máu người ngoại chủng và ngoại đạo!...
Tác giả cẩn chí,
ĐẶNG VĂN NHÂM
(Đan Quốc, Tháng Giêng 2015)
Comments
Post a Comment