Trong
đống rác lịch sử (I)
Posted
on April 20, 2015 by editor — 1 Comment
Nguyễn
Hữu
Vừa
rồi, nhận được quyển sách từ một người thân thuộc hàng cha chú gởi tặng và khuyến
khích đọc để tìm hiểu thêm về những biến đông trong lịch sử Việt Nam thời ông
Ngô Đình Diệm.
Đặt
vấn đề về trước những sự kiện lịch sử
Dẫn
nhập
Là
một trong những người lớn lên trong buổi đất nước nhiễu nhương, học hành không
toại ý, kiến thức không bao nhiêu nên người viết không dám bàn luận về sách vở,
nhất là sách vở về lịch sử đòi hỏi kiến thức lẫn khả năng phân tích và tổng hợp.
Vừa rồi, nhận được quyển sách từ một người thân thuộc hàng cha chú gởi tặng và
khuyến khích đọc để tìm hiểu thêm về những biến đông trong lịch sử Việt Nam thời
ông Ngô Đình Diệm. Thú thật là đời sống người Việt trên đất Mỹ nói chung và cá
nhân tôi nói riêng, thì giờ dùng để đọc sách là xa xỉ phẩm thượng hạng nhưng
tôi cố gắng để không phụ lòng người đã tặng sách.
Càng
đi sâu vào sách, tôi càng cảm thấy ngỡ ngàng và quá thất vọng vì nhận ra chủ điểm
của cuốn sách này không phải là để trình bày và phê phán những sự kiện đã xảy
ra một cách trung thực để rút ra những bài học cho hậu thế như tác giả đề ra mà
chỉ để biện minh cho một chế độ bị sụp đổ vì mất nhân tâm; tác giả chỉ trích những
người không cùng phe phái thậm tệ bằng ngôn ngữ mà dân “đầu đường, xó chợ” cũng
ít dùng và tự phô trương học vấn, văn chương bao trùm đông tây kim cổ kiểu ếch
ngồi đáy giếng của một kẻ bị thất sủng sau thời ông Diệm cầm quyền.
Nhận
thấy sự gian trá nguy hiểm và ảnh hưởng tai hại của loại sách này, dù không phải
là người trong giới cầm bút, kiến thức lịch sử hạn hẹp và khả năng viết lách
kém cỏi, tôi bất đắc dĩ phải đặt lại vấn đề, nói lên lời nhận xét dù mất thì giờ
cho những việc khác ích lợi hơn.
Tôi
không muốn nói về bản thân mình vì cá nhân tôi không có gì đáng nói nhưng để
tránh những ngộ nhận, nghi kỵ mà một số người Việt mình thường có thói quen chụp
mũ sau khi đọc một bài viết không cùng quan điểm rồi cho là người viết bài này
thuộc phe này hay nhóm kia, viết dưới sự hướng dẫn hay chỉ đạo của ai, tôi xin
nói rõ là tôi chỉ là một người Việt tầm thường. Trong thời ông Diệm cầm quyền đến
nay, tôi chưa hề được có dịp cầm súng hay hay nắm giữ một chức vụ nhỏ nào trong
các đảng phái dưới chế độ Quốc Gia hay Cộng Sản. Trong thời gian còn ở Việt
Nam, tôi chưa hề quen biết những người mà tác giả, ông Lê Nguyên Phu, mạ lỵ
nhan nhản trong sách ông viết. Sống trên đất Mỹ nhiều năm qua, tôi chỉ là một
trong những người thầm lặng và chưa hề tham gia đảng phái chính trị nào.
Đối
với ông Ngô Đình Diệm, tôi vẫn nghĩ rằng ông là người liêm khiết và có lòng ái
quốc hơn nhũng kẻ chỉ biết làm tay sai cho ngoại bang, xem nhẹ đất nước và dân
tộc. Ông Diệm đã giành lại độc lập và chủ quyền quốc gia từ tay của thực dân
Pháp, nỗ lực xây dựng và kiến thiết miền Nam qua sự viện trợ tận tình của chính
phủ Mỹ trong giai đoạn ông cầm quyền. Tuy nhiên, theo những tài liệu khả tín,
chính thái độ và cách hành xử của ông Diệm đã làm mất niềm tin của dân chúng
trong nước và mất dần sự ủng hộ của quốc tế. Ông đã dung dưỡng cho người nhà
ông và nhiều kẻ nịnh bợ, qụy lụy ông để cuối cùng họ phản ông qua cuộc đảo
chánh 1-11-1963.
Trong
bài này, người viết đặt những vấn đề cho chính mình và chia sẻ với người đọc để
cùng tìm hiểu mục đích và hậu quả do quyển sách này gây ra. Mỗi người tự tìm
cho mình câu trả lời. Những điều nhận xét được viết ra đây là ý kiến cá nhân có
thể đúng hay sai nhưng được căn cứ vào sử liệu. Người viết xin chân thành ghi
nhận ý kiến của người đọc để bổ sung những điều sai sót vì không biết là những
sử liệu được trích dẫn cho bài này đúng hay sai. Người viết mong ước là sau khi
đọc xong bài này, những người trẻ còn khả năng, thích đọc tiếng Việt và còn
quan tâm đến lịch sử Việt Nam nên đăt lại vấn đề khi đánh giá một sư kiện lịch
sử từ một tài liệu nào đó. Không phải là người trong giới cầm bút nên chắc chắn
là có những lỗi lầm và bài viết này và không phải là bài biên khảo nên người viết
chỉ nêu ra những tài liệu khả tín chính yếu.
Giới
thiệu tác phẩm
“Trong
Bóng Tối Lịch Sử” với phụ đề Khảo Luận Về Ngô Đình Diệm của ông Mai Thạch Lê
Nguyên Phu dày 510 trang. Hình bìa trước có bức tranh cây trúc, biều tượng cho
người quân tử Đông phương với tấm lòng “tiết trực tâm hư” cùng ấn triện của ông
Mai Thạch Lê Nguyên Phu khá trang nhã. Bìa sau, ngoài hình cây trúc còn có ghi
số đăng ký Thư viện Quốc Gia tại Quebec. Ngoài những trang dẫn nhập và bài thơ
tức sự để kết thúc, quyển sách được chia làm 3 phần chính:
Phần
1: Ngô Đình Diện từ khó khăn đến thành công.
Phần
2: Ngô Đình Diệm từ thành công đến sụp đổ.
Phần
3: Thời kỳ sau Ngô Đình Diệm từ 1-11-1963 đến 30-04-1975.
“Trong bóng tối lịch sử,” Lê Nguyên Phu Nguồn:
Lê Nguyên Phu
“Trong
bóng tối lịch sử,” Lê Nguyên Phu
Nguồn:
Lê Nguyên Phu
Trong
khuôn khổ của bài này, người viết chú trọng vào phần I và phần II, nhận xét và
đặt vấn đề những điều khá quan trọng mà bỏ qua những chi tiết nhỏ.
Nội
dung quyển sách
Phần 1 Ngô Đình Diện từ khó khăn đến
thành công
Chương 1: Bốn Giai Đoạn Trong Cuộc Đời
Ngô Đình Diệm
Thời kỳ cử nghiệp
Ông
Lê Nguyên Phu viết là ông Diệm sinh năm 1901, tốt nghiệp trường Hậu bổ năm 1922
nhưng theo tài liệu của ông Chính Đạo thì ông Diệm sinh ngày 27-7-1897 (1). Điều
này không phải là chủ điểm trong bài này nhưng là một quyển khảo luận về lịch sử,
nên có ngày tháng chính xác theo tài liệu nào.
Thời kỳ xuất chính (1922-1933)
Trang
25, ông Diệm thành công trên con đường hoạn lộ, từ Tri huyện Hương Thủy lên đến
Lại Bộ Thượng Thư là nhờ sự nâng đỡ tận tình của ông Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài
rồi Ngô Đình Diệm trả ấn từ quan “để phản đối chính quyền Pháp không thi hành đứng
đắn Hòa Ước năm Giáp Thân (1884) và ngăn chặn mọi sự cải tổ” của ông Diệm.
Hòa
ước năm Giáp Thân có nhiều điều khoản, ông Phu không nói rõ là ông Diệm chống
điều khoản nào hay là chống cả mọi điều. Theo những tài liệu khả tín (1), ông
Diệm bất đồng ý kiến với thực dân Pháp vì không được họ trao toàn quyền lập
pháp. Với thái độ “có thì có hết còn không thì thôi”, ông Diệm trả ấn từ quan nếu
không nói là bị loại ra khỏi ngạch quan lại (3).
Bất
đồng ý kiến vì không có toàn quyền quyết định, ông Diệm trả ấn từ quan là hành
động tiêu cực để phản đối chính quyền Pháp hay là không muốn làm quan cho Pháp?
Nếu không muốn làm quan cho Pháp thì tại sao không từ chức sớm hơn mà làm quan
11 năm? Trong thời gian làm quan, ông Diệm từng thấy rõ thái độ của Thực dân
Pháp đối với người Việt và những sự tàn bạo, dã man mà thực dân Pháp đổ lên đầu
dân chúng Việt Nam mà.
Đặt
vấn đề: Vì lý do nào ông Diệm trả ấn từ quan? Sự quyết định trả ấn từ quan này
được thúc đẩy vì lý do nào?
Thời kỳ ẩn dật (1933-1954)
Trang
28, dù ẩn dật, ông Diệm vẫn âm thầm hoạt động và là “lãnh tụ của một đảng phái
chính trị lấy tên là Đại Việt Phục Hưng.”
Ông
Phu không cho biết là đảng Phục Hưng được thành lập khi nào, chủ trương và đường
lối của đảng thế nào hay những thành quả chính trị mà đảng này đã thực hiện
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi ông Diệm cầm quyền, có bao nhiêu thành
viên của đảng Đại Việt Phục Hưng tham gia chính quyền ông Diệm? Theo sử gia Phạm
Văn Sơn thì trong giai đoạn này chỉ có các đảng phái là: Việt Nam Thanh Niên
Cách Mệnh Đồng Chí Hội, Việt Nam Độc Lập, Tân Việt Cách Mệnh Đảng (Phục Việt),
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính, Đại Viêt Quốc Xã, Dân Chủ Đảng (4)
mà không hề nhắc tới cái đảng Đại Việt Phục Hưng với ông Diệm là lãnh tụ cả.
Đặt
vấn đề: Nếu thực sự chẳng có đảng Đại Việt Phục Hưng mà ông Diệm là lãnh tụ thì
mục đích ông Phu nói về đảng này để làm gì? Có phải là sự bịa đặt để chứng minh
là ông Diệm là một chí sĩ nặng lòng ái quốc, dù ẩn dật nhưng vẫn lo chuyện nước
non không?
Trang
30, khi ông Diệm bị sốt rét nặng, được đưa về Hà Nội điều trị, ông Nhu đến thăm
và “sau đó với sự hỗ trợ của các dì phước đưa ông đào thoát khỏi bệnh viện, về
trú ẩn tại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế.”
Theo
nhiều tài liệu, ông Hồ thả ông Diệm là đúng hơn. Có thể là ông Hồ muốn lợi dụng
ông Diệm để lôi kéo những thành phần chưa theo Việt Minh mà trong giai đoạn ấy
nhiều người không biết Việt Minh là Cộng Sản trá hình. Đồng thời cũng để tránh
xung đột với Kitô giáo vì lúc ấy Việt Minh còn phải đối phó với nhiều mặt: Đảng
phái Quốc Gia, thực dân Pháp, giặc Tàu… Với mạng lưới chằng chịt của Việt Minh ở
miền bắc lúc ấy, nếu ông Hồ thực sự không muốn thả ông Diệm thì họ muốn bắt ông
Diệm lại không khó lắm. Thả và đào thoát là hai việc hoàn toàn khác nhau. Thả
là do người khác chủ động mà cá nhân người được thả không có sự quyết định còn
trốn hay đào thoát là do cá nhân ấy chủ động.
Đặt
vấn đề: Sự thay đổi từ ngữ này có phải để ngầm chứng minh ông Diệm là người mưu
lược có thể làm chủ bản thân trong mọi tình huống không?
Thời kỳ tái xuất chính: (7-7-1954 –
2-11-1963)
Trang
33, giai đọạn ông Diệm cầm quyền, “dân chúng Miền Nam thật sự đã được an bình,
thịnh vượng, sinh hoạt ổn định trong một nền an ninh trật tự khả quan so với thời
gian trước và sau khi ông cầm quyền.”
Vấn
đề này sẽ được đặt vào những chương kế tiếp và sự yên bình tạm thời này chỉ kéo
dài đến năm 1960.
Đặt
vấn đề: Những yếu tố và hoàn cảnh nào đã đưa tới thành công cho ông Diệm? Đất
nước yên bình hay là sự yên bình tạm thời?
Chương II: Những khó khăn sơ khởi lúc
Ngô Đình Diệm mới lên cầm quyền
Tiết
II – Từ bàn tay gây rối của Pháp và việc thọc gậy bánh xe phá đám của Bảo Đại đến
vụ truất phế chức vị Quốc Trưởng của Bảo Đại và thành lập chính thể VNCH
Mục
II Pháp đưa người nằm vùng trong chính quyền để thăm dò tin tức và đường lối của
chính quyền Ngô Đình Diệm
Trang
54, ông Lê Ngọc Chấn, (người có ký tên vào Bảng Tuyên Cáo Caravelle) bị “kết án
5 năm cấm cố thời Pháp thuôc, bị sa thải ngạch quan lại Nam triều. Cái thói
tham nhũng của Lê Ngọc Chấn, trãi [trải] qua nhiều biến thiên của cuộc đời, vẫn
không thay đổi.”
Ông
Phu viết theo tài liệu nào? Điều này thực hư không rõ vì trong bối cảnh chính
trị đen tối thời Pháp thuộc, người Pháp hoặc các phe phái quan lại, tay sai của
Pháp có thể tìm cách loại bỏ một số cá nhân nào đó bằng cách quy cho họ tội
tham nhũng cũng chẳng ai rõ nội vụ thực sự ra sao?
Trang
55, ông Phu cho biết ông “Hồ Văn Di Hinh, anh em bạn rễ [rể]” của ông Phu nói:
“Ông Lê Ngọc Chấn ra nhìều lệnh bất hợp pháp, như bảo phải giao gạo cho thương
gia này hay thương gia khác, mà ông không thể chấp hành được.”
Trong
việc cung cấp quân nhu, chính quyền ký hợp đồng với nhà thầu này hoặc nhà thầu
khác thì việc phải giao cho thương gia này hay thương gia kia cũng không có gì
sai trái. Với tư cách chỉ là đại úy, ông Hinh có thể không biết được lý do ông
Tổng Trưởng Quốc Phòng bảo ông tại sao phải giao cho chỗ này hay chỗ kia vì có
thể đã ký hợp đồng trước rồi. Hơn nữa, ông Hồ Văn Di Hinh cũng không nói là lệnh
nào mới hợp pháp.
Ông
Ngô Đình Diệm lập nội các đầu tiên có toàn quyền quyết định việc chọn người hợp
tác thì những người “thân Pháp” mà ông lựa chọn chắc chắn là không phải do người
Pháp đưa vào. Nếu thực sự những người này “thân Pháp” thì nên trách ông Diệm chọn
lầm người mới đúng. Thân Pháp, thân Mỹ, thân Nhật… không có nghĩa là làm tay
sai cho người Pháp, người Mỹ, người Nhật… Trong môi trường chính trị, nếu vì
ích quốc lợi dân thì việc thân thiện với kẻ thù là điều nên làm để nhờ đó mà biết
thêm thái độ, đường đi nước bước của đối phương để đối phó.
Trừ
những kẻ mà mọi người đều biết như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân … đã từng làm
tay sai cho Pháp tiêu diệt người Việt yêu nước hay ông Hồ và nhóm Việt Cộng làm
tay sai ngoại bang đã thủ tiêu những thành phần quốc gia để đưa đất nước vào
gông cùm Cộng sản Quốc tế, trong việc đánh giá một người làm tay sai cho một thế
lực nào đó, chúng ta cần nên cẩn thận, có chứng cớ rõ rang và không nên kết luận
vội vàng, bừa bãi. Hoàng thân Cường Để thân Tàu, thân Nhật nhưng có bán đứng và
tàn hại người Việt yêu nước hay không? Ông Nguyễn Thế Truyền xuất thân từ trường
Pháp, quen biết nhiều người Pháp nhưng cuộc đời ông dâng hiến cho việc tranh đấu
dành tự do, độc lập cho Việt Nam. Học giả Trần Trọng Kim bị những kẻ không cùng
phe phái kết tội là thân Nhật (điều này không hẳn đúng) nhưng có làm tay sai
cho Nhật bổn không?
Đặt
vấn đề: Việc bới móc đời tư ông Lê Ngọc Chấn (Việt Nam Quốc Dân Đảng) có phải
vì ông Chấn không cùng đảng phái, bất đồng chính kiến với ông Diệm hay là do những
lý do nào khác? Có bằng chứng nào Pháp đưa ông Chấn vào chính quyền ông Diệm
không?
Pháp
xúi dục các nhân sĩ đã tham gia nội các của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tẩy chay, bất
hợp tác với nội các này qua trung gian Bình Xuyên
Trang
58, bàn về việc “Pháp xúi dục [giục] các nhân sĩ bất hợp tác với chính phủ Ngô
Đình Diệm”, ông Phu cho là Tướng Nguyễn Văn Xuân từ chức Phó Thủ tướng nội các
cải tổ là vì Pháp“không muốn Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân thân tín của Pháp liên
can vào một chính phủ mà Pháp sắp lật đổ để khỏi uổng một lá bài còn dùng được
sau này.”
Lập
luận kiểu này quá hời hợt! Khi muốn lật đổ một phe phái, chính quyền nào đó, nếu
có được nội tuyến nằm vùng ở chức vị càng cao thì càng dễ hành động. Với chức vụ
Phó Thủ Tướng, một khi Pháp lật đổ ông Diệm thì Phó Thủ Tướng thành Thủ Tướng
có dễ dàng hơn là phải tìm người khác hay không?
Trang
58, ông Diệm nói với ông Phu về ông Phan Khắc Sửu là:
“Trước
khi cải tổ nội các, tôi đã mời ông ta ở lại và ông ta đã nhận lời với tôi vào
buổi sáng. Nhưng tối đến, người Pháp do Bình Xuyên đại diện đến nhà tìm ông ta,
vừa hăm dọa, vừa mua chuộc, cho ông một số tiền lớn để không tham gia chính phủ.
Ông ta không có đảm lược, không có lập trường kiên quyết nên sáng hôm sau đã
tìm tôi từ chối chức vị Tổng Trưởng Canh Nông”
Cái
lỗ hổng trong câu chuyện nầy là yếu tố thời gian và cách nói. Làm sao trong thời
gian một ngày mà ông Diệm biết được người liên lạc là người Pháp do Bình Xuyên
đại diện vừa mua chuộc, vừa hăm dọa và cho một số tiền lớn? Ai đưa tin này? Số
tiền bao nhiêu?
Nội
các cải tổ ngày 24-9-1954 có sự tham gia của các ông Trần Văn Soái (Hòa Hảo),
Nguyễn Thành Phương (Cao Đài) nhưng không có Bình Xuyên vì ông Diệm cương quyết
không chấp nhận. Cảnh sát Bình Xuyên chưa hợp tác chặt chẽ với ông Diệm thì ông
lấy tin tức từ đâu? Không có sự hợp tác giữa Bình Xuyên và ông Diệm nhưng chưa
có đụng độ lớn thì ông Phan Khắc Sửu không có lý do bị Bình Xuyên uy hiếp và
mua chuộc? Hơn nữa, cái ghế Tổng Trưởng Canh Nông có giá hơn cái ghế dân biểu
nhiều thì tại sao ông Sửu từ chức Tổng Trưởng mà sau này lại ứng cử dân biểu
làm gì? Chúng ta có thể đặt nghi vấn là ông Phan Khắc Sửu bị buộc phải từ chức
hơn là tự nguyện từ chức. Cuộc nói chuyện này chỉ ông Phu và ông Diệm biết nên
không thể coi là chứng cớ khả tín.
Trang
58, “Làm sao có thể buộc tội Thủ Tướng Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, gạt bỏ sự
hợp tác của Hòa Hảo và Cao Đài?”
Ít
có sách vở nghiêm chỉnh nào nói là ông Diệm kỳ thị tôn giáo mà phần đông đều
nói là ông Diệm dung dưỡng cho những hành động lấn lướt của ông Ngô Đình Thục
và bà Nhu dành cho Ki-tô giáo dễ dẫn đến sự hiểu lầm là kỳ thị tôn giáo. Vấn đề
này sẽ được đặt ra ở mục khác vì đi ra ngoài trọng tâm của việc Pháp xúi dục
các nhân sĩ tẩy chay, bất hợp tác với nội các này qua trung gian Bình Xuyên.
Trang
59, “Tuy bị ép buộc từ chức nhưng các nhân vật Hòa Hảo và Cao Đài bất mãn vì
thái độ của Pháp và Bình Xuyên.”
Điều
này mâu thuẫn với ý kiến là ông Diệm chấp nhận sự hợp tác của Cao Đài, Hòa Hảo
mà ông Phu đã viết và cũng là sự biện hộ hàm hồ vì các nhân vật Cao Đài, Hòa Hảo
bị ông Diệm gạt ra chứ không phải Bình Xuyên hay Pháp thì họ phải giận ông Diệm
mới đúng.
Đặt
vấn đề: Bị ông Diệm buộc phải từ chức, không cho tham gia chính phủ mà chính phủ
này không phải của người Pháp hay Bình Xuyên lập ra thì người bị gạt ra khỏi
chính phủ bất mãn ông Diệm hay là bất mãn với Pháp và Bình Xuyên?
Ông
Phu chứng minh kết luận đúng bằng cách đưa ra giả thiết (có thể đúng hoặc sai)
rồi lại quả quyết là kết luận đúng. Lý luận ông đưa ra thế này:
A:
các nhân sĩ bị Pháp xúi dục ( A’: các nhân sĩ không bị Pháp xúi dục)
B:
các nhân sĩ từ chức.
A
=> B (A dẫn đến B)
A
v A’ (giả thiết A bị triệt tiêu vì A có thể đúng hoặc có thể sai)
B
(A đúng hay sai không cần biết, B vẫn đúng)
Cách
chứng minh “nhị đoạn luận” này là lý luận hai xu, là lối “cãi vặt” chẳng chứng
minh điều gì cả.
Trang
59, ông Phu lại viết rằng những người trong nhóm Tinh Thần đã rút lui khỏi nội
các của ông Diệm vì Bình Xuyên gây áp lực phải từ chức nhưng không có bằng chứng
cụ thể là họ bị Bình Xuyên gây áp lực thế nào hoặc là sợ là chính quyền ông Diệm
không đứng vững.
Trang
60, về ông Trần Văn Hương, ngoài việc châm biếm ông Hương đi xe đạp làm việc,
ông Phu chêm thêm bằng cớ là bạn bè ông Hương “nói cho tôi biết ông quen giả đạo
đức và giả nhân gỉa nghĩa (tiếng Pháp họ dùng là hypoctite không biết có đúng
hay không.)”
Dù
ông Trần Văn Hương có thể là người đạo đức giả, việc ông Hương dùng xe đạp đi
làm có thể là điều lập dị đối với một số cá nhân nào đó nhưng không thể dẫn đến
kết luận là ông ấy đạo đứa giả. Giả đạo đức và giả nhân giả nghĩa có khác nhau
lắm không mà phải chêm tiếng Pháp vào? Ông Phu có lối trưng bằng cớ là những
người bạn, người quen, người thân mà ông không nêu tên là ai hoặc dùng những
người đã chết không còn tiếng nói để làm nhân chứng.
Trang
60, ông Phu phỉ báng những người từ chức không tham gia chính quyền ông Diệm là
“Ra làm việc giúp dân giúp nước mà khi dân nước hữu sự lại tìm đường tránh né,
cái thái độ ấy có gọi là chính nhân quân tử không?”
Không
có bằng chứng là những người này bị Bình Xuyên làm áo lực mà dù có bị áp lực đi
nữa, chưa hẳn những người này đều sợ Bình Xuyên mà phải từ chức. Việc từ chức
tham gia nội các có nhiều lý do mà người ngoại cuộc không thể biết trừ phi có
tài liệu khả tín. Hay là những người này bị ông Diệm gạt tên ra khỏi nội các? Nếu
đã bị gạt tên, bị buộc phải từ chức mà còn bị những kẻ không biết kết tội là sợ
sệt, tìm đường tránh né thì thật oan cho họ. Nếu đúng như vậy thì cách viết này
là hành động côn đồ, “vừa la làng vừa ăn cướp.”
Đặt
vấn đề: Vì những lý do ẩn khuất nào mà các nhân sĩ đã từ chức? Ông Diệm có buợc
các nhân sĩ phải từ chức trong chính phủ cải tổ không?
Pháp
xúi dục quân đội quốc gia bất tuân thượng lệnh, chống lại chính quyền của Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm
Trang
60 – 63, để chứng minh quan điểm “Pháp xúi dục quân đội quốc gia bất tuân thượng
lệnh, chống lại chính quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm”, ông Phu nêu lên việc
tranh chấp quyền lực giữa Nguyễn Văn Hinh và Ngô Đình Diệm.
Việc
chính yếu ở đây là Nguyễn Văn Hinh là người “thân Pháp” lúc bấy giờ là Tổng
Tham Mưu Trưởng dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, tranh chấp quyền lực với ông Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm mới nhậm chức nhưng ông Phu viết không rõ ràng. Ông Phu
cũng không nêu ra là ông Nguyễn Văn Hinh đã không tuân lệnh gì và Pháp xúi thế
nào. Những việc ông trình bày là những hành động bất tuân thượng cấp, đầu óc bè
phái của những sĩ quan ông nêu tên. Thượng lệnh và thượng cấp là hai ý niệm
hoàn toàn khác nhau.
Đặt
vấn đề: Việc tranh chấp quyền lực giữa Nguyễn Văn Hinh và Ngô Đình Diệm có thể
nói rằng Pháp xúi quân đội quốc gia bất tuân thượng lệnh không?
Vụ
phiến loạn Bình Xuyên kết hợp với thiểu số Cao Đài và Hòa Hảo trong “Mặt Trận
Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia”
Trang
63-65, Ông Phu bắt đầu việc Paul Ely qua Việt Nam với ý đồ thao túng các giáo
phái để “làm áp lực lật đổ chính quyền Việt Nam” rồi việc các tướng lãnh Cao
Đài, Hòa Hảo tham gia chính quyền ông Diệm “vô điều kiện” lại xoay qua Mặt Trận
Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia do Giáo Chủ Cao Đài Phạm Công Tắc thành lập với sự
tham gia của Hòa Hảo và Bình Xuyên do “Bình Xuyên lãnh đạo” chống đối chính quyền
Ngô Đình Diệm.
Có
nhiều điều không đúng sự thật vì Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia do Giáo
chủ Cao Đài Phạm Công Tắc thành lập ngày 22-2-1955 (5) mà thành phần chính yếu
là Cao Đài với Hòa Hảo. Sự tham gia của Bình Xuyên chỉ là các giáo phái muốn lợi
dụng Bình Xuyên để hư trương thanh thế và có thêm phương tiện liên lạc. Ngày
24-3-1955, ông Ngô Đình Diệm tuyên bố rằng các giáo phái gới tối hậu thư, hẹn
trong 5 ngày phải cải tổ chính phủ theo đường lối của các nhóm (6). Ông Diệm với
sự giúp đỡ của ông Lansdale đã dùng tiền của Mỹ mua chuộc các tướng Cao Đài,
Hoà Hảo như Nguyễn Thành Phương 3.6 triệu, Trình Minh Thế 2 triệu, Trần Văn
Soái 3 triệu để họ ủng hộ ông Diệm (7), tránh đi những cuộc tranh chấp quyền lực
trong bước khởi đầu.
Đặt
vấn đề: Có phải quân đội Cao Đài và Hòa Hảo đã tham gia chính phủ vô điều kiện
hay do một số điều kiện nào đó? Tại sao Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia với
sự tham gia đông đảo của các giáo phái làm áp lực buộc ông Diệm phải cải tổ
chính phủ? Sau khi cải tổ, tại sao ông Diệm ép buộc các thành viên trong các
giáo phái này từ chức? Bình Xuyên có thực sự nắm quyền lãnh đạo các giáo phái
Cao Đài, Hòa Hảo không?
Trang
71, về việc Bình Xuyên chống đối ông Diệm, ông Phu đổ tội là “dù sao Cao Đài và
Hòa Hảo đều có phần trách nhiệm trong vụ phiến loạn Bình Xuyên” và cho là ông
Phạm Công Tắc vì“áy náy lo lắng, nhất là vì áp lực tranh chấp trong nộ bộ Cao
Đài, Hộ Pháp Phạm Công Tắc rời bỏ Tòa Thánh Tây Ninh ngày 19-2-1956 để lẫn [lẩn]
tránh sang Cao Miên. ”
Bình
Xuyên là một nhóm do các tay anh chị “dao búa” được người Pháp dùng trong mục
đích chia để trị, đã gây ra những hậu quả không tốt trong xã hội nhưng các giáo
phái không phải là những thế lực hoàn toàn làm tay sai cho Pháp. Cao Đài, Hòa Hảo
đặt căn bản trên niềm tin tôn giáo và quân đội Cao Đài và Hòa Hảo cũng đã từng
chống Pháp và chống Việt Minh. Vì nhu cầu kinh tài, việc quân đội các nhóm này
có đứng đường thu thuế cũng chưa phải là những chuyện tàn bạo. Chính vì thế,
ông Lansdale đã tìm cách mua chuộc các giáo phái và làm áp lực với ông Diệm để
ông chấp nhận cho họ tham gia chính phủ.
Ngày
30-04-1955 ông Diệm cho Quân Đội Quốc Gia tấn công nhóm Bình Xuyên. Sau khi
Bình Xuyên thất bại và bỏ chạy về Rừng Sát, ông Diệm tiếp tục cho lệnh càn quét
và làm chủ được tình hình. Ngày 10-06-1955 ông Diệm tiến thêm bước nữa là đặt
Tướng Trần Văn Soái (Năm Lửa) và Lê Quang Vinh (Ba Cụt) ra ngoài vòng pháp luật
với dụ số 43. Ngày 19-6-1955, ông Diệm cho Quân Đội Quôc Gia tấn công Hòa Hảo
(8). Trong suốt thời gian quân đội quốc gia đụng độ với nhóm Bình Xuyên và trước
khi bị tấn công, quân đội Cao Đài và Hòa Hảo vẫn án binh bất động mà không giúp
đỡ cho nhóm Bình Xuyên chứng tỏ là không có sự kết hợp nào.
Về
việc ông Phạm Công Tắc phải bỏ chạy sang Cao Miên vì ngày 19-2-1056 Quân đội Quốc
Gia vây Toà Thánh Tây Ninh, Hộ Pháp Phạm Công Tắc lo sợ bị chính phủ ông Diệm bắt.
Nếu vì “lo lắng, áy náy hay tranh chấp nội bộ” tôn giáo thì ông Phạm Công Tắc
phải ở lại Việt Nam để dàn xếp, giải quyết chứ không phải bỏ trốn qua Cao Miên.
Vì vậy, những kết luận mà ông Phu đưa ra là hoàn toàn sai sự thật.
Đặt
vấn đề: Khi gán ghép chung Cao Đài, Hòa Hảo vào nhóm Bình Xuyên, ông Phu có hàm
ý các giáo phái này cũng là những đám xã hội đen hay không?
Trang
72, ông Phu nhắc sơ qua việc ông Lê Quang Vinh (Ba Cụt) đã bị ông “Nguyễn Ngọc
Thơ gài bẩy bắt được tại Chắc Cà Đao”.
Chiến
dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1 tháng 1 năm 1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn
không thanh toán được. Sau đó Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho Nguyễn Ngọc Thơ âm mưu
giả vờ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong
thiếu tướng, rồi vào phút cuối trở mặt, bắt ông. (Nguyễn Ngọc Thơ quen với ông
giáo Hoành - cậu ruột Ba Cụt, người đã dạy Ba Cụt học tiểu học và rất được Ba Cụt
kính trọng.) Nguồn: wikipedia.org
Chiến
dịch Nguyễn Huệ (mở ngày 1 tháng 1 năm 1956) để tiêu diệt quân Ba Cụt nhưng vẫn
không thanh toán được. Sau đó Ngô Đình Diệm chỉ đạo cho Nguyễn Ngọc Thơ âm mưu
giả vờ thương thuyết, chấp nhận cho Ba Cụt về hợp tác với chính quyền, phong
thiếu tướng, rồi vào phút cuối trở mặt, bắt ông. (Nguyễn Ngọc Thơ quen với ông
giáo Hoành – cậu ruột Ba Cụt, người đã dạy Ba Cụt học tiểu học và rất được Ba Cụt
kính trọng.)
Nguồn:
wikipedia.org
Vụ
án Lê Quang Vinh là một vết nhơ của chính quyền ông Diệm. Vụ án kéo dài từ
13-4-1956 đến 13-7-1956. Ông Diệm biết rõ lắm nhưng vẫn để cho ông Nguyễn Ngọc
Thơ (?) hoặc là những kẻ “bầy tôi” của ông muốn làm thế nào tùy ý. Điều đáng
nói ở đây là việc sau khi xin ân xá không được, luật sư Lê Ngọc Chấn đại diện
thân chủ xin Tổng Thống ban cho ân huệ cuối cùng được xử bắn thay vì xử chém vì
tử tội cũng là một trung tá trừ bị trong lực lượng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
nhưng ông Diệm cũng không cho. Sau khi chết còn bị đối xử tàn tệ, xác còn bị chặt
ra nhiều khúc (9).
Có
thể là ông Ba Cụt đã có những đòi hỏi hay hành động quá đáng hoặc muốn giải quyết
tư thù cho ông Nguyễn Ngọc Thơ nên ông Diệm không tha cho ông Ba Cụt nhưng cái
ân huệ cuối cùng này có quá đáng không? Những người từng xử án ông Ba Cụt như
ông Chánh Án Huỳnh Hiệp Thành, ông Biện Lý Lâm Lễ Trinh (Bộ Trưởng Nội Vụ thay
thế ông Nguyễn Hữu Châu) nghĩ thế nào về cái ân huệ tối thiểu này khi các ông
thi hành luật pháp của chính phủ ông Diệm? Nghĩa tử là nghĩa tận, kẻ có ít nhiều
tinh thần Nho học có thấy được sự bất nhân của ông Diệm hay không? Cũng vì vụ
án bất nhân này, nhiều thành viên của Hòa Hảo thân tín của ông Ba Cụt dù đã từng
chống Việt Minh đã phải nuốt căm hờn theo Việt Cộng để chống lại chính quyền
Ngô Đình Diệm.
Đặt
vấn đề: Tại sao ông Diệm nhất quyết đem Ba Cụt ra xử chém? Cái ân huệ cuối cùng
của người tử tù có quá đáng không mà ông Diệm không cho?
Phối
hợp bạo động của Đại Việt Quốc Dân Đảng tại khu Ba Lòng tỉnh Quảng Trị
Trang
72, Ông Phu dùng chữ “phối hợp” vì “Đại Việt Miền Trung đã phụ họa với Bình
Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo ở Miền Nam để gây rối ở Miền Trung, tạo thêm khó khăn
cho chính quyền trung ương” mà ở trang 83, với “Chiến khu Ba Lòng lại hữu danh
vô thực, vì chỉ có cái võ [vỏ] bên ngoài mà không có ruột bên trong.”
Đến
nay, chưa có tài liệu khả tín nào chứng minh là Đại Việt kết hợp với Bình
Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo trước tháng 3-1955 để chống đối chính quyền Ngô Đình
Diệm. Ngày 14-3-1955, quân đội Quốc Gia kết liễu chiến dịch càn quét chiến khu
Ba Lòng, Quảng Trị (10) dưới sự chỉ đạo của ông Ngô Đình Cẩn trước khi chính
quyền ông Diệm cho khai hỏa tấn công nhóm Bình Xuyên vào ngày 30-04-1955.
Điều
cần nói ở đây là đến ngày 31-5-1955 Quân Đội Quốc Gia mới kết liễu Chiến Dịch
“Giải Phóng” tiếp thu Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi (11). Có thể là Đảng Đại
Việt muốn lợi dụng cơ hội trong thời gian chuyển tiếp này với Việt Minh rút dần
vào bóng tối và người Pháp mất dần quyền hành để tạo thực lực và để trả thù Việt
Cộng đã bắt tay với thực dân Pháp tiêu diệt các chánh đảng vào những năm
1945-1947 cũng hợp lý. Việc tảo thanh chiến khu Ba Lòng xảy ra nhiều tháng trước
khi ông Diệm cho quân đội tấn công Bình Xuyên. Hai sự kiện này xảy ra cách nhau
nhiều tháng, không có gì liên can và việc phối hợp mà chỉ là kết luậm lừa bịp.
Trang
73, để mạ lỵ những người thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Phu cố tình dịch chữ
Résidus tiếng Pháp thành chữ “cặn bã” rồi “tôi đã tự động thay đổi chữ nghĩa của
ông, cặn bã thành tàn dư.”
Trong
tác phẩm “Le Livre Noir du Colonialisme”, Alain Ruscio muốn nói là “những thành
viên còn lại” của Việt Nam Quốc Dân Đảng mà không có ý thóa mạ như ông Phu đã cố
tình dịch ra như vậy. Chữ résidus tiếng Pháp dùng để chỉ thành phần còn lại sau
một phản ứng hoặc biến cố nào đó. Nếu dùng cho vật chất thì có thể dịch là
thành phần còn lại, cặn bã nếu đúng vì thành phần còn lại không có nghĩa là cặn
bã, nhưng nếu cho người thì những thành viên còn lại hay những người còn lại. Sự
lộng ngôn, nếu không nói là hiếp dâm ngôn ngữ này, không phải là sự dốt nát mà
còn là sự cố tình lăng mạ những người Việt yêu nước từng xả thân vì độc lập, tự
do cho tổ quốc.
Đặt
vấn đề: Để tăng mức độ khả tín, khi phê bình, đánh giá một sự kiện hay một nhân
vật lịch sử, chúng ta có nên lộng ngôn, lạm dụng loại từ ngữ thô bỉ quá đáng
không?
Trang
74, nhằm để khinh thị chữ Quốc Dân Đảng, ông Phu viết lan man đến việc người
bác ông đã qua đời mà ông Phu không biết là bác ông đã tham gia đảng phái nào:
Việt Nam Quốc Dang Đảng hay Đại Việt Quốc Dân Đảng? Điều này không có gì khó hiểu,
nếu sách không viết sai thì bác ông Phu thuộc loại đi hàng hai, khi theo đảng
này, lúc đầu đảng nọ hoặc có thể cả hai đảng cùng một lúc cũng đâu có gì là lạ.
Trang
75, trong việc bôi bác tác phẩm Đại Việt Quốc Dân Đảng của Quang Minh, ông Phu
vặn vẹo
“Tôi
không hiểu được chữ nghĩa của Quang Minh. Nội tổ hay cụ nội đều chỉ chung một
thế hệ gọi nôm na là ông nội.” và “ông [Trương Tử Anh] bị bắt cóc, bị thủ tiêu
hay thanh toán nội bộ? Mà kẻ đối lập là ai? Thanh toán nội bộ lúc nào? Vì lý do
gì? Đảng Đại Việt cần làm sáng tỏ để đời sau vinh danh cho ông.”
Từ
Hán Việt nội tổ có nghĩa là tổ tiên phía nội hay ngoại tổ là tổ tiên phía ngoại
khi không cần xác định là ông nội, ông cố, ông cao, ông tằng, ông tổ. Nội tổ
hay ngoại tổ không phải là ông nội hay ông ngoại. Điều ông Quang Minh viết
không có gì sai cả mà dù có sai đi nữa cũng không phải là điều đáng bắt bẻ. Việc
bắt bẻ từ ngữ để khinh bỉ là điều không cần thiết đã để lộ ra bản chất dốt nát
mà còn lên mặt dạy đời.
Trang
76, “Quang Minh không nói rõ Trương Tử Anh ra Hà Nội theo học ở trường nào và
năm nào. Nếu có bằng Thành Chung ít nhất Trương Tử Anh phải ghi danh vào một
trường cao đẳng.”
Theo
nhiều tài liệu khả tín thì ông Trương Tử Anh là một sinh viên Luật Khoa ở Đại Học
Hà Nội nhưng chuyện học hành của ông Trương Tử Anh, ông Quang Minh không viết
rõ ràng vì điều đó không phải là điểm quan trọng trong tác phẩm của ông ấy và
không phải ai cũng thích khoe khoang bằng cấp như ông Phu nghĩ. Về việc ông
Trương Tử Anh mất tích, chúng ta nên xét lại bối cảnh lịch sử: Sau 1945, thực
dân Pháp bắt tay với Việt Minh tàn sát các đảng phái Quốc Gia thì việc ông
Trương Tử Anh mất tích năm 1947 là do Pháp thanh toán hay Cộng Sản thủ tiêu
chưa được rõ cũng không có gì lạ. Không có chứng từ rõ ràng thì không đổ oan
cho người như những kẻ đụng đâu chụp mũ đó theo cách Việt Công hay làm. Những cố
gắng làm sáng tỏ cái chết của ông Trương Tử Anh là việc của đảng Đại Việt mà
không phải là việc của những kẻ đứng bên ngoài không rõ được nội bô mà phê
phán. Ông Phu cố tình viết mấy chữ “thanh toán nội bộ” ở đây có hàm ý gì không?
Đặt
vấn đề: Việc dài dòng bới móc chuyện học hành, châm biếm khả năng của ông
Trương Tử Anh và gia đình ông nhằm để chê bai có biểu lộ cho chúng ta thấy tâm
tính và khả năng người viết quyển sách này thuộc loại nào không?
Trang
77-79, Để tiếp tục thóa mạ đảng Đại Việt, ông Phu nêu tên những người tham gia
Đại Việt bằng loại ngôn ngữ khá bẩn thỉu. Ông viết về Nguyễn Ngọc Huy “sự toan
tính ra Ba Lòng về sau bị bại lộ, Nguyễn Ngọc Huy nhờ có quốc tịch Pháp, được
Pháp “hồi hương về cố quốc”, được nuôi dưỡng học hành gần 10 năm trời” và sau
này “nhận tiền của Nguyễn Văn Thiệu lập đảng Quốc Gia Cấp Tiến làm đối lập cuội.”
Nguyễn
Ngọc Huy là đảng viên đảng Đại Việt thi việc muốn tham gia vào vụ Ba Lòng cũng
không có gì đáng nói hay đáng xấu hổ. Điều đáng nói ở đây là việc bại lộ xảy ra
như thế nào? Ai phát giác được? Tang chứng ở đâu?
Đạt
vấn đề: Ông Nguyễn Ngọc Huy được Pháp nuôi ăn học hay tự nuôi thân và phải trả
tiền học? Ông Nguyễn Ngọc Huy nhận bao nhiêu tiền từ ông Thiệu khi nào và ai biết?
Trang
79, ông Phu lấy tài liệu từ sách của ông Nguyễn Văn Minh và cho là: “Việt Nam
Quốc Dân Đảng được trao quyền quản trị hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Đại Việt
Quốc Dân Đảng chịu trách nhiệm về tủnh Quảng Trị.”
Điều
này nếu có chỉ là một sự đồng ý ngầm vì không một chính quyền nào trao một tỉnh
cho một đảng phái nào đó cai trị cả. Điều này mâu thuẫn với chính ông Phu viết
là “Ngô Đình Diệm chủ trương thống nhất hành chính.” Có thể nói là trong tỉnh ấy
có nhiều đảng viên Đại Việt hay Việt Nam Quốc Dân Đảng nắm các chức vụ quan trọng
thì được.
Sự
việc Ba Lòng có thể nói là ông Trần Điền làm sai nhưng ông Ngô Đình Cẩn lấy quyền
gì mà tha ông Trần Điền? Ông Phu nói là ông Cẩn “không nhận chức vị của chính
phủ và không ăn lương.” Nhiều hình phạt khổ sai dành cho những người cộng sự với
ông Trần Điền nhưng ông Trần Điền là kẻ chủ mưu thì tại sao không bị tù? Luật
pháp thời ông Diệm áp dụng thế nào và cho ai?
Cũng
cần nhắc lại việc tàn sát Đại Việt Quốc Dân Đảng ở Phú Yên mà nhiều người còn
nhớ những hành động dã man mà chính quyền đối xử với đồng bào lúc ấy. Vụ án ấy
đã được báo chí Sài Gòn gọi là vụ án chính trị lớn nhất với kết quả “137 người
bị đưa ra tòa và 54 người bị truy tố với tội danh phá rối trị an” (12) và 54
người này chỉ đưọc một luật sư biện hộ. Đại Việt ở Quảng Trị, Phú Yên cũng như
Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum và nhiều
nơi khác cũng chịu hậu quả nặng nề do bàn tay của ông Ngô Đình Cẩn (13) với sự
đồng ý của chính quyền ông Diệm.
Đặt
vấn đề: Đảng Đại Việt có phối hợp với Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo trước
tháng ba năm 1955 hay không? Nếu có xin dẫn chứng ? Nếu không, đây có phải là sự
lừa bịp không?
(Còn
tiếp phần II, III, Kết)
©
2010-2015 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Những
chữ trong ngoặc vuông […] là do người viết bài này thêm vào để sửa lại lỗi
chánh tả từ nguyên bản. Chữ in nghiêng được trích từ sách “Trong Bóng Tối Lịch
Sử”.
(1)
Chính Đạo, Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, Văn Hóa, 2004, trang 12.
(2)
Bernard B. Fall, The Two VietNams: A Political and Military Analysis, Frederick
A. Praeger, Publishers, 1967, trang 239.
(3)
Stanley Karnow, Vietnam A History, The Viking Press 1983, trang 215.
(4)
Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, Thư Lâm Ấn Quán, 1960, Đại Nam tái bản tại Hoa
Kỳ không đề năm, trang 700-703.
(5)
Đoànn Thêm, Hai Mươi Năm Qua Việc Từng Ngày (1945-1964), Xuân Thu tái bản không
ghi năm, trang 164.
(6)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 166.
(7)
Bernard B. Fall, Sđd, trang 246.
(8)
Đoàn Thêm, Sđd, trand 178.
(9)
Trịnh Bá Lộc, Xác Chết của Tướng Lê Quang Vinh tức Ba Cụt Giờ Ở Đâu?
http://www.take2tango.com/?display=4594
(10)
Đoàn Thêm, Sđd, tang 165.
(11)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 177.
(12)
Quang Minh, Cách Mạng Việt Nam Thời Cận Kim, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Văn Nghệ,
Hoa Kỳ 2000, trang 227-232.
(13)
Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1955, Tập I, Tiên Rồng, 2004, trang 437.
Trong
đống rác lịch sử (II)
Posted
on April 21, 2015 by editor — 0 Comments
Nguyễn
Hữu
Nếu
nói như ông Phu là chính phủ ông Diệm không dùng những kẻ thiếu tài đức thì Bà
Dân biểu Trần Lệ Xuân có tài đức gì?
Đặt
vấn đề về trước những sự kiện lịch sử
Từ
vụ Bảo Đại thọc gậy bánh xe vào chính quyền Quốc Gia đến vụ truất phế Bảo Đại
và thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa
Trang
85, Việc truất phế Bảo Đại “Có tất cả 18 chính đảng tham dự trong số đó quan trọng
nhất là Dân Xã Đảng của Nguyễn Bảo Toàn đại diện, Việt Nam Phục Quốc Hội của Hồ
Hán Sơn đại diện và Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến do Nhị Lang đại diện.”Ông Phu
lôi ở đâu ra được 18 chánh đảng vào thời ông Diệm? Ông lấy tài liệu với 18 đoàn
thể chứ không phải là chánh đảng rồi cố tình thay chữ. Có phải sự thay đổi chữ
nghĩa này với hậu ý là các đảng phái đối lập ủng hộ ông Diệm và ông Diệm không
hề đàn áp đảng phái? Ngay với khả năng của một học sinh chưa xong bậc trung học
cũng đã phân biệt thế nào là đoàn thể và thế nào là chánh đảng đừng nói là “luật
sư”.
Đặt
vấn đề: Sự cầm nhầm tài liệu, thay đổi chữ nghĩa này có phải là điều gian dối
trắng trợn không? Mục đích của sự gian dối này có hàm ý để biện minh là ông Diệm
được các đảng phái đối lập hậu thuẫn cũng như ông Diệm không đàn áp đảng phái
không?
Việc
trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại được tổ chức quá nhanh, dù ông Bảo Đại ở
Pháp có về Việt Nam ngay lúc ấy cũng chẳng còn thời gian và cơ hội để trình bày
trường hợp của ông trước dân chúng. Hơn nữa, sự gian lận diễn ra khắp nơi. Ví dụ,
ở Sài Gòn-Chợ Lớn chỉ có 450.000 cử tri ghi danh nhưng số người đi bầu ủng hộ
ông Diệm là 605.025 (14). Việc gian lận quá mức này còn xảy ra hơn nhiều tại
các làng quê, tỉnh lỵ nhỏ nơi mà phần lớn dân chúng vùng thôn quê ít người biết
ông Diệm là ông nào hoặc có thành tích gì.
Vua
Bảo Đại bị truất phế Nguồn: LIFE
Vua
Bảo Đại bị truất phế
Nguồn:
LIFE
Chúng
ta cũng cần có một nhận xét công bằng về ông Bảo Đại: Ông bị thực dân Pháp bắt
đem qua Pháp đào tạo nếu không nói là tẩy não. Khi ông về lại Việt Nam chấp
chính, bước đầu ông muốn xây dựng quốc gia với những người người có khả năng
nhưng ông bị Pháp ép buộc, bắt ông phải làm những điều bọn thực dân đòi hỏi. Bảo
Đại nản chí rồi tuyệt vọng. Trong thời gian ông làm Quốc Trưởng ông đã có ít
nhiều tranh đấu nhưng thực dân Pháp không hề có thực tâm muốn trao trả độc lập
cho Việt Nam. Sau khi Nhật thất trận, ông cũng đã từng gởi thư kêu gọi người Mỹ,
Pháp, Tàu, Anh giúp đỡ và nhìn nhận độc lập cho Việt Nam nhưng không ai muốn đếm
xỉa tới ông (15). Đồng ý là ông ham chơi và hoang phí quá nhiều công quỹ nhưng
đặt vào hoàn cảnh của ông, chúng ta nên có ít nhiều thông cảm. Ông Bảo Đại
không bán đứng tổ quốc cho Tàu, cho Pháp, cho Nhật và là người có lòng nhân vì
trong suốt thời gian ông làm vua, ông không lợi dụng quyền lực để hại chết ai.
Nếu được sanh ra trong thời buổi khác, chung quanh là những người có tài đức,
ông có thể là một minh quân. Chúng ta có đòi hỏi quá nhiều về ông Bảo Đại không
khi ông không phải là nhà cách mạng? Đồng ý là việc truất phế ông Bảo Đại là điều
đúng trong bối cảnh chính trị lúc ấy vì thực dân Pháp muốn dùng ông làm con bài
để gỡ gạc nhưng trong việc truất phế, chính quyền ông Diệm đem hình ông Bảo Đại
bêu rếu khắp nơi với những lời thóa mạ thô bỉ có xứng đáng với chữ Lễ không?
Đặt
vấn đề: Dù hoàn cảnh chính trị buộc ông Diệm phải truất phế ông Bảo Đại, chính
phủ ông Diệm có gian xảo và có nhiều hành vi bất lễ hay không?
Chương III: Những Thành Quả Của Chính
Quyền Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Trang
90, Ông Diệm có “thứ đức hạnh của nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Khổng Mạnh gồm đủ
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, tức là tứ đoan.”
Đức
hạnh của người quân tử Đông phương theo tư tưởng Khổng Mạnh bao gồm Tam Cương
(Quân, Sư, Phụ) và Ngũ Thường (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí và Tín). Ông Phu tự hào là
con nhà Nho, tinh thâm Hán học, vậy tại sao ông chặt bớt đi một đức để chỉ còn
là tứ đoan?
Đăt
vấn đề: Phải chăng có quá nhiều tài liệu chứng minh là không thể đặt niềm tin
vào ông Diệm nên ông Phu đã bỏ đi chự Tín vì không đủ bằng chứng để biện hộ?
Tiết I – Phát triển và bình định nông
thôn qua các vấn đề di cư định cư với các chương trình dinh điền, Khu Trù Mật
và Quốc Sách Ấp Chiến Lược
Trang
94-101, ông Phu ca tụng sự thành công việc định cư, chương trình dinh điền, xây
dựng khu trù mật và ấp chiến lược.
Chương
trình định cư dân tỵ nạn Cộng Sản có thể nói là khá thành công nhờ vào sự giúp
đỡ phương tiện và tài chánh tận tình của Mỹ, Pháp và các quốc gia trong khối Tự
do nhưng điều quan trọng là nhờ vào sự tham gia của mọi tầng lớp dân chúng miền
Nam, sẵn sàng giúp đỡ người tỵ nạn Cộng sản miền Bắc.
Chương
trình cải cách điền địa là ý hướng tốt nhưng kết quả nhiều hay ít tùy vào địa
phương. Ở miền Trung, vì đồng ruộng không nhiều nên chương trình này được tiến
hành khá tốt đẹp. Ở miền Nam, chính phủ mua lại ruộng đất của địa chủ có nhiều
ruộng (trên 100 mẫu tây) để bán lại với giá phải chăng cho tá điền, tạo có cơ hội
cho họ làm chủ ruộng đất. Tuy nhiên, trong thời kháng chiến chống Pháp, ruộng đất
ở vùng quê bị bỏ hoang, Việt Minh đã lấy phát không cho tá điền. Do đó, nhiều
tá điền cảm thấy bị thiệt thòi hơn là sống với Cộng sản nên dễ bị Cộng sản lung
lạc, chưa kể đến những sự phiền toái mà cán bộ thừa hành địa phương đã gây ra
trong việc làm giấy tờ, thủ tục.
Việc
xây dựng những Khu Trù Mật từ năm 1959 là ý kiến hay nhưng phải bỏ luôn vào năm
1962 vì thành quả quá ít ỏi. Ở một vài nơi do địa thế thuận lợi Việt Cộng không
tấn công được, Khu Trù Mật phát triển khá tốt nhưng đại đa số những Khu Trù Mật
được lập ra kết quả không như ý. Dù ông Phu có biện hộ là do sự làm việc tắc
trách của những người thừa hành nhưng điều chính là do chính sách đui mù, không
hữu hiệu. Xây dựng được mà không bảo vệ được để Việt Cộng quậy phá những Khu
Trù Mật này, dùng những nơi này làm ổ phục kích quân đội miền Nam đưa đến kết
quả quá tồi tệ nên đến tháng ba năm 1962 Khu Trù Mật không còn được xây dựng nữa
mà được thay thế bằng Ấp Chiến Lược. Vậy thì có thể coi là thành công hay
không? Nếu thành công thì tại sao lại bỏ?
Về
Ấp Chiến Lược, một số tài liệu cho là phỏng theo chương trình tiêu diệt Cộng sản
tại Mã Lai do ông Robert Thompson thực hiện nhưng có lẽ cũng phỏng theo cách tổ
chức làng xã mà Việt Minh thực hành trong những năm chống Pháp. Chính quyền Ngô
Đình Diệm tán thành và đem dùng như Quốc Sách. Có nhiều ý kiến cho Ấp Chiến Lược
là một sự thất bại lớn vì chính quyền từ trung ương đến địa phương đã cùng nhau
ăn bớt của công, bắt dân chúng góp cả công lẫn của, làm việc quá nhiều mà kết
quả chẳng tới đâu (16). Tuy vậy, theo những cán bộ Việt Cộng tiết lộ sau 1975, chương
trình này đã làm cho đám Cộng Sản nằm vùng khốn đốn, nhiều cán bộ Việt Cộng bị
bắt hoặc ra đầu thú vì cạn đường tiếp tế. Dù có nơi thành công, có nơi thất bại,
chưa đủ thời gian để đánh giá và kiểm chứng kết quả của Ấp Chiến Lược vì chính
quyền sau thời Ngô Đình Diệm bãi bỏ chương trình này.
Đặt
vấn đề: Trong bối cảnh đất nước được sự giúp đỡ tận tình của khối Tự do lúc ấy,
một chính quyền khác chính quyền Ngô Đình Diệm có làm được những việc mà chính
quyền ông Diệm đã làm hay không?
Tiết II: Thống Nhất Quân Đội
Trong
một quốc gia độc lập, quân đội phải đứng chung và phục vụ cho quyền lợi quốc
gia. Công bằng mà nói, ông Diệm đã hoàn thành việc thống nhất quân đội. Tuy
nhiên, qua nhiều tài liệu được phơi bày, cách làm việc của chính quyền ông Diệm
thiếu uyển chuyển nếu không nói là khá độc đoán. Ở miền Trung, quân đội quốc
gia dưới sự hướng dẫn của Ngô Đình Cẩn tàn sát các lực lượng Đại Việt, Việt Nam
Quốc Dân Đảng để củng cố quyền hành. Ở miền Nam, sau vụ Bình Xuyên, ông Diệm
cho Quân Đội Quốc Gia tấn công quân đội Cao Đài, Hòa Hảo dù nhiều thành viên
trong các giáo phái này đã về hợp tác với chính phủ ông Diệm. Dù thống nhất được
quân đội nhưng những việc chính phủ ông Diệm đã làm gây công phẫn trong dân
chúng đã làm lợi cho Việt Cộng xách động tâm lý quần chúng.
Tiết III – Thống Nhất Hành Chính Tài
Chính và Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia
1-Thống Nhất về Hành Chính và Tài Chính
II – Vấn đề Phát Triển Kinh Tế
A – Về Nông Nghiệp
Trang
115, nói về sự phát triển nông nghiệp của chính phủ ông Diệm, ông Phu viết “Đập
nước Đồng Cam ở Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên là một bằng chứng cụ thể. Đập nước
này được khánh thành ngày 17-9-1955, tích trử thủy lượng cần thiết để tưới nhuần
23,000 mẫu tây ruộng thiếu nước, biến vùng Đồng Cam thành khu vực có hoa màu
phong thịnh.”
Có
lẽ ông Phu rút tài liệu từ sách của ông Đoàn Thêm ở trang 183 mà không kiểm chứng
kỹ là khánh thành việc sửa sang chứ không phải là việc xây dựng vì Đập Đồng Cam
do Pháp thực hiện chứ không phải mới có thời Ngô Đình Diệm. Thời gian thực hiện
kéo dài từ năm 1923 đến năm 1932 mới hoàn thành với tổng số kinh phí dùng để
xây dựng hệ thống dẫn thủy nhập điền đập Đồng Cam lên tới 3 triệu 650 ngàn đồng
tiền Đông Dương, chưa kể các chi phí linh tinh ngoài dự tính cũng đến hàng trăm
ngàn. Tổng số nhân mạng bị chết vì mìn đá, vì bất cẩn, vì bệnh tật, vì thú rừng…
lên đến cả trăm người. Đó là chưa kể hàng ngàn người bị thương tật sau khi đi
làm công ích tại đập. “Lễ khánh thành đập tổ chức ngày 7 tháng 9 năm 1932, với
sự hiện diện của Toàn quyền Đông Dương M.P. Pasquier.” (17). Thời ông Diệm, đập
Đồng Cam được sửa sang ít nhiều sau 9 năm kháng chiến bị hư hại nhưng hệ thống
dẫn thủy nhập điền này không phải là do chính quyền ông Diệm xây dựng.
Đặt
vấn đề: Ông Phu chụp một dự án quá lớn để tâng công chính phủ ông Diệm mà không
kiểm chứng tài liệu. Vậy những sự kiện được trình bày trong sách có đáng tin
không?
Tiết IV – Chấn Hưng Văn Hóa Và Đạo Đức
A – Chấn Hưng Văn Hóa
Trang
124, bên cạnh viện đại học vừa thu hồi chính phủ Ngô Đình diệm còn lập thêm
“Trung Tâm Cao Đẳng Kỹ Thuật Phú Thọ.”
Theo
Giáo Sư Lê Sĩ Ngạc, Trường Cao Đẳng Công Chánh tiền thân của Trung Tâm Kỹ Thuật
Phú Thọ ra đời năm 1902, trải qua nhiều thay đổi. Trong thời ông Diệm, chính
quyền cũng tái tổ chức ngày 30-04-1963 như những thời trước hay sau này (18).
Đặt
vấn đề: Những thành quả mà quyển sách này nêu ra có nên được xét lại không khi
nhiều sự kiện chính yếu sai lạc hay cố tình thêm thắt.
B – Chấn Hưng Đạo Đức
Trang
127, “Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, cũng không theo Phật Giáo, nhất là từ khi
bàn thờ Phật bị Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu và nhiều vị họ Thích khác hạ bệ,
đem vất giữa đường bụi bặm rác rến nên tôi càng thấy Tổng Thống Ngô Đình Diệm
có đạo đức cao hơn nhiều vị linh mục hay sư tăng mà tôi ngẫu nhiên gặp trên đường
đời đầy tội lỗi.”
Nếu
ông Phu không có niềm tin vào Phật Giáo hay Kitô giáo, điều ấy không có gì đáng
nói vì mỗi người đều có đức tin khác nhau nhưng chỉ vì thấy hành động sai trái
của một số cá nhân muốn lợi dụng tôn giáo nào đó làm bậy rồi lấy điều đó đưa tới
kết luận kiểu vơ đũa cả nắm là tôn giáo ấy có nhiều người thiếu đạo đức thì đầu
óc quá hẹp hòi, suy nghĩ thật nông cạn.
Trang
128-129, để biện minh cho việc “lành mạnh hóa xã hội” của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, ông Phu nêu ra những đạo luật bài trừ tệ đoan xã hội.
Luật
Bảo Vệ Gia Đình của bà dân biểu Trần Thị Lệ Xuân được ban hành 26-5-1958 (còn
được gọi là Luật Cấm Ly Dị) trừ phi được Tổng Thống cứu xét và cho phép. Năm
1962, Luật Bảo Vệ Luân Lý ra đời (còn được gọi là luật Cấm Nhảy Đầm) dù ở tư
gia. Việc cấm nhảy đầm ở các phòng khiêu vũ, bài trừ tệ đoan xã hội là điều
đáng hoan nghênh trong một quốc gia với hoàn cảnh chiến tranh nhưng trên thực tế
luật này cấm ngừa thai, phá thai, cấm đấu quyền Anh, đá gà… Thêm vào đó sắc lệnh
10/62 do Tổng Thống ban hành ngày 16-5-1962 hạn chế quyền tự do cá nhân đến độ
dù là những cuộc hội họp trong gia đình cũng phải có giấy phép của Cảnh Sát địa
phương. Sắc lệnh số 11/62 thiết lập Tòa Án Quân Sự Mặt Trận tại ba Vùng Chiến
Thuật với thẩm quyền kết án chung thân mà người bị kết tội không được phép
kháng cáo (19).
Người
Việt từ ngàn xưa cho đến khi ông Diệm cầm quyền, việc ly dị nhau là việc mà
luân lý không tán thành trừ trường hợp chẳng đặng đừng. Với quan niệm “con cái
là của trời ban”, việc phá thai, ngừa thai cũng không mấy ai lưu tâm trừ những
trường hợp quá đặc biệt. Sắc lệnh 10/62 gây công phẫn cho quần chúng thôn quê
vì đại đa số dân chúng hằng năm gia đình nào cũng đều có ngày giỗ, ngày kỵ, bà
con, anh em tập trung đông đảo lại phải xin phép làng xã là điều không ai muốn.
Với những luật pháp khắt khe nhằm mục đích ổn định xã hội và tận diệt Việt Cộng
mà ông Diệm ban ra, kết quả thật là trái ngược. Dân chúng cảm thấy bó buộc, khó
thở và càng cảm thấy bất mãn chính quyền hơn. Những luật pháp nêu trên để chấn
hưng đạo đức thì ít mà để củng cố quyền hành và đặt ý thức hệ Kitô giáo lên đầu
dân Việt thì nhiều hơn.
Đặt
vấn đề: Những luật pháp thời ông Diệm nhằm để chấn hưng đạo đức hay còn những mục
đích khác?
Chương IV: Những Năm Tháng Bình Trị Đệ
Nhất Cộng Hòa
Trang
133-137, ông Phu viết là đời sống sung túc, sự “thái bình, thịnh vượng cho toàn
dân, thì đối ngoại phải được sự thừa nhận và ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế
giới. ” trong thời đầu ông Ngô Đình Diệm nắm quyền và được chính quyền Mỹ cùng
các quốc gia trong khối Tự do thì nhau “mời làm quốc khách”.
Phải
nhìn nhận là sau Hiệp định Geneva, thoát khỏi sự kềm kẹp của thực dân Pháp,
phát xít Nhật và sự khủng bố của Việt Cộng chưa phát triển rộng, dân chúng miền
Nam sống tương đối yên bình. Với sự ủng hộ của những quốc gia chung quanh và sự
viện trợ tài chánh dồi dào của Mỹ, miền Nam đã được chính phủ ông Diệm phát triển
nhiều mặt. Tuy vậy, sự yên bình tạm thời này cũng không có gì đáng ngạc nhiên
vì trước năm 1960 Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với những con chốt của Cộng Sản
Hà Nội chưa ra đời và những phong trào “Đồng Khởi” của Việt Cộng cũng chưa làm
được gì. Tháng 1-1961, Hà Nội cho tăng cường đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang nên tình hình miền Nam từ đầu năm 1961 không còn yên bình nữa.
Vấn
đề ông Diệm được mới làm quốc khách của Mỹ cũng như nhiều quốc gia trong khối Tự
do cũng không có gì lạ. Sau khi Liên Xô áp đặt chế độ Cộng Sản lên nhiều nước
châu Âu, Mao nhuộm đỏ đất Tàu, Tưởng Giới Thạch bỏ chạy ra Đài Loan và chiến
tranh Triều Tiên do Tàu Cộng giật dây mà hậu quả đất nước này bị chia hai, các
nước trên thế giới đều sợ hãi. Miền Nam Việt Nam được coi như tiền đồn chống Cộng
thì không cần là người có khả năng ngoại giao giỏi, ông Diệm lúc đó được sự hậu
thuẫn của khối Tự do và được nhiều nước mời làm quốc khách cũng dễ hiểu.
Đặt
vấn đề: Thời ông Diệm cầm quyền, miền Nam Việt Nam có thật sự sống trong yên
bình hay chỉ là sự yên lặng trước khi cơn hồng thủy tràn đến?
Chương V: Những Vụ Biến Động Thời Đệ Nhất
Cộng Hòa
Vụ
ném bom dinh Độc Lập (27-2-1962)
Trang
142, vì vụ ném bom Dinh Độc Lập, ông Phu mang cả tên họ anh em trong gia đình
Nguyễn Văn Cử để thóa mạ và chửi ông Nguyễn Văn Lực, cha ông Cử, thậm tệ. Ông
Phu viết“Tôi không biết tài năng học vấn của Nguyễn Văn Lực ở trình độ nào,
nhưng theo tôi thiển nghĩ y là một người huyênh hoang tự cao, tự đại .”
Có
tài năng, học vấn hay không, kẻ huyênh hoang vẫn huyênh hoang. Lối viết của ông
Phu hàm ý là nếu có tài năng, học vấn thì việc huyênh hoang, tự cao tự đại được
chấp nhận hay sao? Ông Nguyễn Văn Lực không bị đi “học tập cải tạo”, nhiều cán
bộ cao cấp trong chính quyền Cộng Sản liên lạc với gia đình ông Lực như “Nguyễn
Văn Linh, Võ Văn Kiệt tới nhà y thăm viếng ” (?) và ông Phu kết luận là “cán bộ
hai mang, nằm vùng ”.
Việc
ông Nguyễn Văn Lực, đảng viên nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng không bị bắt
nhốt vào các “trại tập trung cải tạo” hoặc việc các ông “Nguyễn Văn Linh, Võ
Văn Kiệt tới nhà thăm viếng” ông Lực , nếu đúng, là điều ông Phu có thể đặt
nghi vấn ông Nguyễn Văn Lực là “cán bộ hai mang”. Tuy nhiên, nếu ông Nguyễn Văn
Lực là “cán bộ hai mang”, được “Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt tới nhà thăm viếng”
nhưng ông Nguyễn Văn Cử bị Việt Cộng nhốt tù đến năm 1985 cũng là điều hơi lạ?
Theo
cách lý luận này, những người từng bị Việt Cộng tống vào các “trại cải tạo”
cũng có thể đặt vấn đề với ông Lê Nguyên Phu, Giám Đốc Hiến Binh thời ông Diệm
mà Việt Cộng vô cùng thù ghét, là tại sao ông không bị nhốt vào tù sau
30-04-1975 trong khi đại đa số quân nhân, công chức dù không còn tại chức khi
Việt Cộng chiếm miền Nam vẫn bị bắt vào những trại lao động khổ sai và nhiều
người đã bị hành hạ đến chết. Điều này chỉ là cách lý luận ông Phu thường dùng
mà không phải là câu hỏi.
Đặt
vấn đề: Vì sao ông Nguyễn Văn Cử ném bom vào Dinh Độc Lập? Có phải ông Cử ném
bom vì uất ức, bất mãn chính phủ ông Diệm hay là còn những lý do khác?
Vụ Binh Biến 11-11-1960
Trang
158, ông Phu phán: “Tố cộng là tố cộng và đối lập trong hàng ngũ quốc gia đâu
phải là Cộng sản, trừ phi Cộng sản trá hình làm đối lập.”
Đây
là lối tung hỏa mù của Việt Cộng mà nhiều người từng nghe: “Phản Cách Mạng là
Phản Cách Mạng và trí thức trong nhân dân không phải là Việt Gian, trừ phi Việt
Gian trá hình trí thức” để thanh trừng trí thức không đi theo “đường lối của Đảng”.
Nhiều người thời ông Diệm cầm quyền bị bắt do chương trình Tố Cộng này mà họ
không phải là Việt Cộng nhưng có tham gia đảng phái chống Pháp như Đại Việt Quốc
Dân Đảng hoặc Việt Nam Quốc Dân Đảng. Theo nhiều tài liệu thì chương trình “Tố
Cộng” đã đẩy không ít những thành phần kháng chiến cũ nhưng không phải là Cộng
Sản gộc vào con đường phải hợp tác với Việt Cộng. Nhiều cán bộ địa phương đã
dùng chương trình này để làm tiền dân chúng. Những việc này làm dân chúng công
phẫn và nảy sinh cảm tình với những người chống đối chính quyền ông Diệm.
Đặt
vấn đề: Cán bộ địa phương có lạm dụng chương trình Tố Cộng của chính phủ ông Diệm
để làm tiền và bắt oan nhiều người không? Chương trình này có gây khó khăn cho những
phần tử quốc gia và đẩy một số người này vế phía Việt Cộng không?
Trang
160-180, nhiều trang sách được dùng để bới móc đời tư các ông Vương Văn Đông và
những đảng viên Cần Lao như Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Hữu Dương, Nguyễn Quang
Sanh, Huỳnh Văn Lang…, khinh khi là “ít học”, “dốt nát”, “bộ hạ trung tín của
Pháp”, “hống hách”, “khéo lừa gạt”… để chứng minh là “chính quyền thực sự không
có kỳ thị đảng phái”.
Có
thể những kẻ mà ông Phu nêu tên thuộc loại “vô tài, vô đức”. Vậy thì tại sao được
ông Nhu kết nạp vào đảng Cần Lao và nắm các chức vụ quan trọng trong chính quyền
ông Diệm? Vậy thì chính phủ ông Diệm có phải thích được loại xu nịnh làm tay
sai hay không? Đảng Cần Lao ấy có phải là chỗ để tập hợp những kẻ xu nịnh “núp
bóng” không?
Đặt
vấn đề: Trong bối cảnh chính trị, xã hội của trước năm 1963, những người chống
lại chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là để thỏa mãn tham vọng cá nhân hay là do sự
bất mãn với chính quyền ông Diệm trong việc đàn áp đối lập hơn là chống Cộng?
Những
nhân vật quận sự cũng như dân sự đã liên can với Vương Văn Đông trong vụ Binh
Biến 11-11-1960
Về phía quân sự
Trang
180-181, các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Phạm
Xuân Chiểu đều biết nhưng không tham gia vì “mặc cảm tự tôn, không tham gia vào
một vụ đảo chính do đàm em cầm đầu.”
Điều
này có thể đúng nhưng không chỉ là do mặc cảm tự tôn mà thôi mà phải nói là họ
thấy chưa có hậu thuẫn, sợ bị thất bại thì đúng hơn. Nếu các “ông tướng” này đồng
ý với ông Vương Văn Đông thì việc ai lãnh đạo có thể dàn xếp mà.
Về phía dân sự
Trang
185, những người trong nhóm Tinh Thần đều “là những người nhút nhát, không có lập
trường vững chắc, nên sau đó đã ly khai với Ngô Đình Diệm bằng cách xin từ chức,
vì sợ thế lực của Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo và vì không tin tưởng rằng sự
thông nhất quân đội của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm sẽ thành công ”. và “từ khi từ
chức họ thường hội họp ăn nhậu tại nhà hàng Caravelle”.
Luận
điệu này được ông Phu lập đi lập lại nhiều lần nhằm bôi nhọ những người trong
nhóm Caravelle. Có lẽ không phải vì họ rút lui hoặc bị buộc từ chức khỏi nội
các ông Diệm năm 1954 mà vì Bảng Tuyên Cáo họ gới cho ông Diệm làm cho cả trong
nước lẫn ngoài nước để ý đến những việc làm của chính phủ ông Diệm. Ngày
26-04-1960, nhóm Caravelle ra tuyên cáo kêu gọi ông Diệm hãy khẩn cấp thay đổi
chính sách, ban hành các quyền tự do dân chủ để có thể cứu vãn tình thề và đưa
đất nước ra khỏi cơn nguy biến trước hiểm họa Cộng Sản vì “những vụ bắt bớ liên
tục tiếp diễn làm cho nhà giam và khám đường đầy đến tận nóc như hiện nay đang
xảy ra; dư luận quần chúng và báo chí phải câm lặng. Cũng thế, ý dân bị khinh
nhục và chà đạp trong những cuộc đầu phiếu (ví dụ trường hợp xảy ra trong cuộc
bầu cử nhiệm kỳ 2 mới đây). Tất cả những điều này đã gây ra sự nản chí và bất
mãn của dân chúng.” (20) nhưng ông Diệm không để mắt tới. Một số người trong
nhóm Caravelle đã bị chính quyền ông Diệm bỏ tù vì nghi ngờ có dính líu đến vụ
binh biến 11-11-1960.
Điều
đáng để ý ở đây là trong mục viết về vụ đụng độ với Bình Xuyên, ông Phu cho là
những người này bị áp lực của Pháp và Bình Xuyên mà từ chức. Trong mục này, ông
Phu lại bịa thêm là Cao Đài và Hòa Hảo nữa. Chữ “ăn nhậu” mà ông Phu viết ở đây
đã để lộ sự ghen ghét rõ ràng vì ông không có chứng cớ là họ say sưa, ăn nói bậy
bạ kiểu “tửu nhập, ngôn xuất”. Qua cách viết, cách lý luận và chứng cớ không
minh bạch khi viết về nhóm Caravelle, ông Phu đã để lộ sự sự thêu dệt rõ ràng.
Trang
186, ông Phu bôi nhọ ông Phan Quang Đán, Nghiêm Xuân Thiện là “có quá khứ không
sáng sủa” và “thân Pháp”. Về ông Hoàng Cơ Thụy, ông Phu đem chuyện tình cảm gia
đình ông Thụy là “Thụy đã cố ý để cho vợ mình “giao du thân mật” với một ông
tòa ở tòa án hỗn hợp thời Quốc Trưởng Bảo Đại, lợi dụng ông nầy trong các vụ kiện
mà Hoàng Cơ Thụy đứng tên biện hộ”để nhục mạ và cho là ông Hoàng Cơ Thụy “vì
quá nhơ bẩn như trên nên không được mọi người tin tưởng.”
Dù
có là chính “ông tòa ở tòa án hỗn hợp” ấy, ông Phu cũng chưa chắc biết được đích
xác là ông Thụy “cố tình để cho vợ mình “giao du thân mật” với ông hay là bị “cắm
sừng” hoặc có những lý do khác? Điều này chưa chắc đã đúng qua những lời đồn
đãi kiểu chuyện bé xé ra to của những kẻ tự cho mình thanh cao và cũng là thủ
đoạn bôi nhọ của những kẻ làm “chính trị xôi thịt”. Huống chi, dù chuyện này có
thật sự xảy ra, đây là vấn đề tình cảm riêng tư mà những người ngoài không hiểu
được nguyên nhân và hoàn cảnh. Ai là người không có những lỗi lầm? Nếu chỉ vì
những lời đàm tiếu từ những kẻ ngồi lê đôi mách mà không có chứng cớ rõ ràng,
chúng ta có nên đem ra phóng đại trong những tác phẩm “Khảo luận Lịch Sử” đứng
đắn hay không?
Đặt
vấn đề: Vì sao ông Phu luôn luôn tìm cách thóa mạ những người trong nhóm
Caravelle? Có phải vì những người này đã ký tên vào Bản Tuyên Cáo ngày
26-04-1960 kêu gọi ông Diệm hãy thay đổi chính sách để người dân miền nam Việt
Nam có thể tham gia vào mục đích xây dựng quốc gia trước hiểm họa Cộng sản hay
không? Vì sao ông Hoàng Cơ Thụy chống đối chính quyền ông Diệm?
Về
cái chết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Trang
190, viết về cái chết của nhà văn Nhất Linh, ông Phu cho là ông Nguyễn Tường
Tam“không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất trước tòa, vì đó là một điều
sỉ nhục, mất thể diện trọng đại”. Ông Nguyễn Tường Tam đã để lại mảnh giấy cho
biết là “không muốn bị xét xử trước tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin
để lịch sử phán xét ông về sau”. Do mảnh giấy ấy, ông Phu đưa ra kết luận là
“đã chắc chắn hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung
ông vẫn còn chưa đạt, vì chưa dứt bỏ được tham vọng lợi danh của mình, chưa
giác ngộ được hành vi tốt hay xấu của mình đối với anh em đồng chí, mà vẫn còn
hynh [huyênh] hoang tiếp tục dối trá người đời”.
Trang
191, ông Phu phán thêm ông Nguyễn Tường Tam “nói không muốn để tòa án chính quyền
Ngô Đình Diệm xét xử ông, nhưng thực sự khi ông ra khai tại Phòng Dự Thẩm Tòa
Án Quân Sự Đặc Biệt thì ông đã bị tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử rồi,
vì trong cơ chế pháp lý, Dự Thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt, có
quyền định danh của can phạm, cải tội danh, ra lệnh miễn tố hay truy tố ra tòa
khi tội danh đã được xác định.”
Có
nghi vấn cho là nhà văn Nhất Linh tự tử do bệnh thần kinh suy nhược nhưng vấn đề
ở đây là mảnh giấy mà nhà văn Nhất Linh để lại. Dù có âm mưu chống đối chế độ
ông Diệm hay không, ông Nguyễn Tường Tam chọn cái chết thay vì ra tòa có phải
là để bảo toàn danh lợi hay không? Lợi gì nữa khi con người đã chết? Hành vi xấu
tốt đối với anh em, “đồng chí” thì để những người này phán xét, ông Phu là kẻ
ngoại cuộc biết gì mà xía vô. Ông Phu không nêu rõ là ông Nguyễn Tường Tam
huyênh hoang dối trá điều gì và với ai? Việc ông Nguyễn Tường Tam khai báo thế
nào không ai biết rõ nhưng việc ông Nguyễn Tường Tam để lại mảnh giấy không chấp
nhận tòa án của chế độ Ngô Đình Diệm là sự thật.
Bị
Tòa án Quân Sự Đặc Biệt kêu hỏi khẩu cung là một việc nhưng chấp nhận để cái
Tòa án mà nhiều người cho là của lũ côn đồ, chó săn xử án theo chỉ thị của chế
độ ấy xét xử là một việc khác nữa. Huống chi, cái “cơ chế pháp lý” thời ông Diệm
với luật pháp dành cho các thành phần đối lập là “phá rối trị an” cũng chẳng
khác gì luật pháp của Việt Cộng. Nhiều người Việt tỵ nạn Cộng Sản cũng từng bị
chính quyền Việt Cộng kêu ra những “Ủy Ban Nhân Dân” để thẩm vấn là một việc và
sự liều chết để lánh xa cái chính quyền khốn kiếp ấy là một việc khác nữa. Đối
với nhiều người, hành động tự xử của ông Nguyễn Tường Tam là hành động can trường,
bất khuất mà đối với những kẻ nịnh bợ, hèn nhát làm sao hiểu được. Chúng ta hãy
để lịch sử phán xét ông như lời ông để lại.
Đặt
vấn đề: Dù căm hận chế độ Việt Cộng, đại đa số chúng ta có đủ can đảm đứng lên
chống đối hoặc lấy cái chết để tự xử hay không? Mảnh giấy nhà văn Nhất Linh để
lại có tố cáo chế độ ông Diệm không? Cái chết của ông Nguyễn Tường Tam có góp
phần vào việc làm sụp đổ chế độ ông Diệm hay không?
Phần II – Ngô Đình Diệm Từ Thành Công Đến
Sụp Đổ Vì Vụ Đảo Chánh 1-11-1963
Trang
199, vu đảo chính 1-11-1963 “bắt nguồn từ quyền lợi của đế quốc Mỹ xung đột trực
diện với quyền lợi Quốc Gia Việt Nam” rồi ở trang 200 ông Phu cho là “Mỹ muốn
đưa vào vòng lệ thuộc Mỹ một cách hoàn toàn, từ quân sự, chính trị, ngoại giao,
đến kinh tế, xã hội… ”
Trong
bối cảnh khi đệ nhị thế chiến đã kết thúc, người Mỹ cần sự hậu thuẫn của Pháp
trên mặt trận chống Cộng ở châu Âu nên thay thế vai trò của Pháp, dùng miền Nam
như tiền đồn để chặn làn sóng đỏ tràn ngập khắp Á châu mà không phải là quyền lợi
kinh tế. Trong giai đọan này, chính quyền Mỹ không phải là muốn miền Nam Việt
Nam hoàn toàn lệ thuộc vào chính quyền họ nhất là về mặt kinh tế vì không quốc
gia nào muốn mang gánh nặng kinh tế, tài chánh đài thọ cho một quốc gia khác trừ
trường hợp bất đắc dĩ.
Khi
bỏ tiền ra viện trợ cho miền Nam trong chiến lược mà người Mỹ nghĩ là sẽ đem lại
an ninh chung cho cả khu vực, chính quyền Mỹ cũng cần phải xem số tiền họ bỏ ra
đạt được thành quả nào không. Với những tài liệu đã được phơi bày, chúng ta thấy
là từ khoảng năm 1960 trở đi, người Mỹ nghĩ rằng ông Diệm đã không hoàn toàn hợp
tác với họ trong chiến lược chống Cộng mà chỉ yêu cầu họ làm những điều có lợi
cho chính phủ ông. Hơn nữa, thái độ của ông quan trong buổi hoàng hôn của chế độ
phong kiến vẫn còn đầy ắp trong đầu ông Diệm, người Mỹ quen với kiểu dân chủ
Tây phương cho rằng ông độc tài, độc đoán.
Từ
năm 1961, dù có những báo cáo sai lầm, chính quyền Mỹ vẫn thấy rằng tình hình mất
an ninh xảy ra khắp nơi, dân chúng vùng thôn quê sống trong cảnh phập phòng vì
những cuộc tấn công đốt làng, phá xóm, giết người để uy hiếp tinh thần của Việt
Cộng càng ngày càng lan rộng mà chính phủ ông Diệm không đối phó hữu hiệu được.
Bên cạnh đó, sự đàn áp đảng phái dẫn đến việc tầng lớp trí thức xa lánh chính
phủ ông Diệm và Cộng Sản Hà Nội qua đám chim mồi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
rêu rao, khích động những kẻ ngây thơ nhưng hám danh. Trong khi đó, những đòi hỏi
ngân khoản viện trợ cho chiến tranh ngày càng tăng cao. Nhân biến cố Phật Giáo
1963 xảy ra gây dư luận không tốt cho chính quyền Mỹ khắp thế giới, người Mỹ
quyết định thay thế ông Diệm bằng một chính quyền khác mà họ nghĩ là có thể điều
khiển theo chiến lược chống Cộng từng giai đoạn. Vì vậy, nói rằng nguyên nhân đảo
chánh bắt nguồn “từ quyền lợi của đế quốc Mỹ xung đột trực diện với quyền lợi
Quốc Gia Việt Nam” mà không trìng bày là quyền lợi gì và “Mỹ muốn đưa vào vòng
lệ thuộc Mỹ một cách hoàn toàn, từ quân sự, chính trị, ngoại giao, đến kinh tế,
xã hội… ” là những phán đoán vu vơ, kết luận ngốc nghếch mà không dựa vào bối cảnh
lịch sử.
Đặt
vấn đề: Chính quyền Mỹ đặt vấn đề kinh tế hay là chiến lược khi thay thế vai
trò người Pháp tại miền Nam Việt Nam? Những lý do nào dẫn đến cuộc đảo chánh
1-11-1963?
Trang
200, Chính quyền Ngô Đình Diệm là “một chính quyền ổn định, được sự ủng hộ của
đa số dân chúng, nhất là dân chúng miền thôn quê.”
Sự
ủng hộ ông Diệm của đa số dân chúng miền thôn quê là điều hoàn toàn khác như
ông Phu nghĩ. Vào những năm trước 1963, đối với đa số dân chúng các vùng thôn
quê đời sống bình dị gắn liền với mảnh đất, ai “làm quan làm tướng” họ cũng ít
để ý, ít người chịu tìm hiểu người cầm quyền tối cao thế nào thì sự ủng hộ hay
không ủng hộ ông Diệm cũng chỉ là trên hình thức. Thời ấy, hỏi tên ông xã trưởng
thì dân quê biết rõ vì có ít nhiều liên hệ trực tiếp và biết mặt biết tên, quận
trưởng thì ít hơn nhiều còn tỉnh trưởng thì không bao nhiêu. Nhớ lại cuộc bầu cử
năm 1961 ở làng quê, khi bầu xong có người hỏi là bầu cho ai thì nhiều người
nói là “ông xã Tư dặn là bầu cho ông Ngô Đình Điếm đấy!”
Trang
200 – 201 Ông Phu ví ông Diệm là cha mẹ còn dân chúng là con cái. Ông Phu so
sánh những ý kiến của dân chúng về ông Diệm như thái độ của con cái là “sự bất
mãn, ganh tỵ, thương ghét, không thể nào né tránh được”.
Cái
ý tưởng của đám khuyển Nho coi việc nắm chức vụ hay làm quan là đóng vai trò
“dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân), muốn hành xử thế nào cũng được mà quên là
“dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân mới quý, đất nước kế theo, vua
chỉ là thứ yếu), đặc biệt là đám khuyển Nho có chút cặn bã do Pháp nhét vào đầu
lại càng nguy hại. Người Pháp đã đi nhưng để lại hậu quả là trong đầu óc nhiều
người Việt Nam là quá xem trọng bằng cấp và chức vụ đến nỗi nhiều người ngoại
quốc cho rằng “trong đầu óc mỗi người Việt Nam đều có một ông quan”. Điều này
cũng là một trong những yếu tố ngăn trở sự tiến bộ cho xã hội Việt Nam ngày
nay.
Trang
201, “Ngô Đình Diệm không dùng những chính trị gia xôi thịt, dễ bị mua chuộc,
đã bị lấm bùn từ những triều đại trước, và loại bỏ những người thiếu tài đức
chuyên làm tay sai cho ngoại bang nên bị chỉ trích là độc tài, độc đoán, không
dung nạp đảng phái đội lập.”
Nhìn
lại đám tướng lãnh như Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Lê Văn Kim, Mai Hữu
Xuân, Trần Văn Đôn, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Xuân Chiểu… và một số
những kẻ “bầy tôi” thân tín của ông Diệm, ông Nhu mà chính ông Phu nêu tên
trong sách của ông đều là những kẻ được anh em ông Diệm “ban ân huệ ” và bao
che. Nhiều người trong đám tướng lãnh và “bầy tôi” của ông Diệm đã bị mua chuộc,
bán đứng anh em ông Diệm qua nhiều hình thức như báo cáo, rỉ tai với người Mỹ
hoặc hùa vào việc phỉ báng ông Diệm, ông Nhu sau 1-11-1963. Vậy thì những người
hợp tác lâu dài với chính phủ Ngô Đình Diệm là bọn xôi thịt, dễ bị mua chuộc
hay là những người không hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm là bọn xôi thịt?
Bà Trần Lệ Xuân (1956) Nguồn: LIFE
Bà
Trần Lệ Xuân (1956)
Nguồn:
LIFE
Đặt
vấn đề: Những chính khách không hợp tác với chính phủ ông Diệm hay là những người
nịnh bợ anh em ông Diệm là đám xôi thịt? Nếu nói như ông Phu là chính phủ ông
Diệm không dùng những kẻ thiếu tài đức thì Bà Dân biểu Trần Lệ Xuân có tài đức
gì?
(Còn
tiếp phần III, Kết)
©
2010-2015 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
(14)
Bernard B. Fall, Sđd, trang 257.
(15)
Bernard B. Fall, Sđd, trang 206-207.
(16)
Lê Xuân Khoa, Sđd tranng 447-448.
(17)
Phan Long Yên, Đập Đồng Cam,
http://saigontimesusa.com/bai/gtqm/dapdongcam.shtml
(18)
Trường Kỹ Thuật Phú Thọ,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_%C4%91%E1%BA%B3ng_C%C3%B4ng_Ch%C3%ADnh
(19)
Lê Xuân Khoa, Sđd, trang 435.
(20)
Benard B. Fall, Sđd, Manifesto of the Eighteên, trang 435.
Trong
đống rác lịch sử (III)
Posted
on April 22, 2015 by editor — 0 Comments
Nguyễn
Hữu
ttdiemNhững
lời lẽ ngạo mạn, hỗn láo, chửi cha (Trần Văn Chương) mắng chú (Trần Văn Đỗ),
xem thường Phật Giáo và dân chúng đã gây công phẫn cả trong cả nước lẫn ngoài
nước.
Đặt
vấn đề về trước những sự kiện lịch sử
Chương I Lịch sử đế quốc Thực Dân Mỹ với
chính sách “Cây Gậy Lớn và Đồng Dollar” để thống trị các nước nhược tiểu trên
thế giới
(Tiếp theo phần II)
Trang
203-216, Ông Phu cóp nhặt tài liệu về chính sách của Mỹ trong việc muốn thôn
tính Cuba vì “người Mỹ nghĩ rằng Mỹ Châu là của người Mỹ ” (trang 208) và
Panama để “ “cưỡng chiếm kinh đào Panama ” (trang 215) qua những cuộc đảo chánh
để thao túng và củng cố quyền lợi kinh tế tại Cuba và Panama.
Trong
phạm vi bài này, vấn đề Cuba hay Panama không cần phải phân tích mà cứ tạm thời
cho là ông Phu viết đúng nhưng đặt vào bối cảnh lịch sử sau đệ nhị thế chiến,
người Mỹ cần đồng minh Việt Nam trên mặt trận chống Cộng ở châu Á mà không phải
là quyền lợi kinh tế hay thôn tính đất Việt. Vì vậy so sánh việc Mỹ nhảy vào Việt
Nam với Cuba hay Panama là sự so sánh quá gượng ép.
Đặt
vấn đề: Người Mỹ nhảy vào Việt Nam có đặt quyền lợi kinh tế hay có ý muốn biến
Việt Nam thành thuộc địa của họ như thực dân Pháp hay không?
Chương II Cây Gậy Lớn và Đồng Dollar Mỹ
tại Việt Nam: Từ Viện Trợ rồi vi phạm chủ quyền Việt Nam đến các đối sách của
chính quyền Ngô Đình Diệm
Dân
di cư ở Đồng Tháp chào mừng TT Diệm (1955) Nguồn: LIFE
Dân
di cư ở Đồng Tháp chào mừng TT Diệm (1955)
Nguồn:
LIFE
Viện
trợ của bất cứ quốc gia nào cũng không phải là không có điều kiện. Bang giao quốc
tế là sự lợi dụng và củng cố quyền lời cho nhau, ít có khoản viện trợ nào mà
không có những mục đích được lớp son phấn giả tạo bên ngoài che dấu. Hơn nữa,
chính quyền Mỹ hay nói rõ hơn chính khách Mỹ là những cánh tay nối dài của những
thế lực tư bản Mỹ nên trong những khoản viện trợ đều có bàn tay tư bản nhúng
vào như việc bán một số quân trang, quân dụng, vũ khí, máy bay, tàu thủy…cũng
không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Tiết
I – Mưu toan vi phạm chủ quyền Quốc Gia trong lĩnh vực quân sự
Trang
226-231, Để trình bày việc người Mỹ “mưu toan vi phạm chủ quyền quốc gia trong
lĩnh vực quân sự”, ông Phu nêu lên việc Mỹ muốn đặt thêm cố vấn, tăng cường
quân nhân thiện chiến Mỹ, xin sử dụng hải cảng Cam Ranh, muốn loại bỏ ngành Hiến
Binh mà họ cho là cồng kềnh, không cần thiết vì đã có Cảnh Sát và một số cố vấn
xen vào quyền hạn của những sĩ quan quân đội Việt Nam mà ông Diệm không đồng ý.
Việc
xin đặt cố vấn, tăng cường quân nhân thiện chiến vào các hoạt động quân sự
không phải vì Mỹ muốn nắm toàn bộ những hoạt động quân sự lúc bấy giờ nhưng lý
do chính là tình hình mất an ninh ngày càng trở nên trầm trọng làm người Mỹ mất
dần niềm tin vào khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam, dù niềm tin này là ý
kiến chủ quan cộng vào sự thiếu kiến thức về chiến tranh du kích. Việc một số cố
vấn Mỹ xen vào việc chỉ huy không phải là chủ trương chung mà là do tâm lý của
kẻ cả của kẻ chi tiền muốn nắm quyền lãnh đạo. Thái độ trịch thượng của một số
sĩ quan Mỹ cho là sĩ quan Quân Đội Việt Nam kém tài cũng đã xảy ra những va chạm.
Với những sự việc nêu trên, kết luận mà ông Phu đưa ra là “Mỹ mưu toan xâm phạm
chủ quyền Quốc Gia trong lĩnh vực quân sự” chưa xác đáng vì cần chứng cớ cụ thể
hơn.
Đặt
vấn đề: Đặt vai trò miền Nam Việt Nam như chính quyền Mỹ viện trợ cho chính phủ
Cao Miên để cùng nhau chống Cộng nhưng khi thấy những báo cáo không đạt như ý,
chính quyền Việt Nam sẽ làm gì? Nếu chính quyền ông Diệm chống Cộng hữu hiệu,
người Mỹ có đòi tham gia vào các hoạt động quân sự không ?
Tiết
II – Mưu toan vi phạm chủ quyền Quốc Gia trong lĩnh vực chính trị nội bộ
Trang
232, Trong việc Bảo Đại lựa chọn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, ông Phu viết “Lúc bấy
giờ các bộ mặt chính trị gia quá quen thuộc, từng đã múa rối trên chính trường
và được mọi người biết đều là những lá bài cũ rúch, bẩn thỉu, tiêu tùng, đốt
cháy cả rồi. Chỉ còn duy nhất một Ngô Đình Diệm chưa bị tiêu tùng.”
Điều
này không hẳn như vậy. Việc lựa chọn ông Ngô Đình Diệm thay vì các người khác
không có nghĩa là trí thức Việt Nam và nhiều người quốc gia đã tiêu tùng mà là
ông Bảo Đại từng biết Ngô Đình Diệm khi còn là Lại Bộ Thượng Thư. Hơn nữa, theo
ông Phu, ông Bảo Đại biết ông Ngô Đình Luyện, em của Ngô Đình Diệm, thì việc
liên lạc và nói chuyện dễ dàng hơn.
Người
Mỹ nhảy vào Việt Nam lúc ấy trong tư thế chần chờ vì thiếu hiểu biết về lịch sử,
văn hóa Việt Nam. Đối với chính quyền Mỹ lúc bấy gờ, Ngô Đình Diệm, Phan Huy
Quát hay Nguyễn Văn Hinh đều là người Việt thì việc ủng hộ cá nhân này hay cá
nhân kia không phải chỉ là khả năng mà là có thích hợp với chính sách của Mỹ
trong giai đoạn ấy hay không. Hơn nữa, những người Mỹ tham gia vào vấn đề Việt
Nam lúc ấy đều có cách hành xử, thái độ khác nhau. Ông Lansdale cũng là một
trong những người Mỹ đã gúp ông Diệm trong việc mua chuộc các giáo phái để họ ủng
hộ ông Diệm bước đầu, trình bày âm mưu đảo chánh của Nguyễn Văn Hinh khiến ông
Bảo Đại phải kêu Nguyễn Văn Hinh qua Pháp và cất chức. Vì vậy, nói rằng “mưu
toan vi phạm chủ quyền quốc Gia trong lĩnh vực chính trị nội bộ” này có ích lợi
cho ông Diệm và chính quyền Việt Nam lúc ấy hay không?
Đặt
vấn đề: Việc xen vào nội bộ chính trị Việt Nam của ông Lansdale có giúp cho ông
Diệm thống nhất quân đội hay không?
Trang
236, sau vụ binh biến 11-11-1960, “Chính Elbridge Durbrow là người sau đó đã đề
nghị Hoa Thịnh Đốn phải thay thế Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì không chấp hành
các đề nghị của Mỹ.”
Chính
quyền Mỹ muốn thay thế ông Diệm không phải chỉ vì những chính sách mà Mỹ yêu cầu
không được chấp hành hoặc những nhân vật được Mỹ nâng đỡ và đề nghị không được
ông Diệm đồng ý mà vì những việc khác quan trọng hơn như: mâu thuẫn trong vấn đề
viện trợ, kết quả của sự viện trợ để chống Cộng. Theo những tài liệu được phơi
bày, với tình hình an ninh càng ngày càng tồi tệ cùng uy tín của chính phủ ông
Diệm đối với dân chúng Việt Nam lúc ấy, chính quyền Mỹ cho rằng chính phủ ông
Diệm nỗ lực đàn áp đảng phái và trí thức đối lập hơn là chống Cộng.
Điều
đáng nói là ngay cả chính sách của Mỹ đối với phe Cộng Sản của Mỹ cũng có quá
nhiều sai lầm, ngần ngại không dám đánh mạnh Bắc Việt vì sợ đụng độ lớn với phe
Nga, Tàu có thể dẫn đến chiến tranh lớn hơn. Thêm vào đó, thái độ kẻ cả cố hữu
của người Mỹ nên họ thích dùng đám tay sai chỉ biết nghe lời cũng là một trong
những yếu tố chính. Qua những tài liệu lịch sử khả tín, có thể nói rằng Mỹ bắt
đầu có ý định thay thế ông Diệm bằng một chính quyền khác mà họ nghĩ rằng có thể
thực hiện theo sách lược chống Cộng kiểu Mỹ hữu hiệu hơn dù rằng sách lược này
trước sau gì cũng bỏ chạy.
Đặt
vấn đề: Nếu ông Diệm thay đổi chánh sách, mở rộng quyền hành để các đảng phái,
tôn giáo và dân chúng cùng tham gia vào việc chống Cộng thì người Mỹ có xen vào
nội bộ chính trị Việt Nam dễ dàng được không?
Tiết
III – Mưu toan vi phạm chủ quyền Quốc Gia trong lĩnh vực noại giao, qua việc
Trung Lập Hóa Lào Quốc
Việc
trung lập hóa Lào quốc là một trong những khuyết điểm, một sự thất bại lớn của
chính quyền Kennedy về cả hai mặt chính trị lẫn ngoại giao vì kém hiểu biết về
cách làm việc chứa đầy sự dối trá của khối Cộng Sản. Chính quyền Kennedy không
thấy những nguy hại có thể xảy ra cho miền Nam Việt Nam nhưng nếu ông Diệm thấy
và thẳng thắn từ chối là đúng. Vậy tại sao ông Diệm phải ký vào thỏa ước theo
yêu cầu của Averell Harriman. Có sự hứa hẹn hoặc uy hiếp nào không?
Đặt
vấn đề: Tại sao ông Diệm thấy nguy hiểm cho miền Nam Việt Nam mà vẫn ký vào Thỏa
Uớc về sự trung lập hóa Lào quốc?
Chương III Những lý do được Mỹ và bè lũ
nô tài của Mỹ viện dẫn để lật đổ chính quyền bất khuất của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm
Tiết
I Gia đình trị
Trang
242, Để biện hộ cho chính quyền ông Diệm, ông Phu so sánh khi John F. Kennedy đắc
cử Tổng Thống và “em ruột Kennedy được cất nhắc làm Bộ Trưởng Tư Pháp…. Dân
chúng Mỹ có ai trách Kennedy là gia đình trị không? Chắc chắn là không!”
Điều
so sánh quá thiển cận vì kiến thức eo hẹp. Robert F. Kennedy không phải chỉ do
Tổng Thống Kennedy đề nghị mà còn phải được cả đảng Dân Chủ Hoa Kỳ chấp nhận
(Điều 2, đoạn 2 của Hiến pháp Hoa Kỳ ghi, Tổng thống “shall nominate, and by
and with the Advice and Consent of the Senate” (đề nghị người vào trách nhiệmĐại
sứ, Bộ trưởng, v.v… phải được ý kiến và chấp thuận của Thượng viện –
DCVOnline). Sự nghiệp chính trị của Robert Kennedy kéo dài từ 1951, trải qua
nhiều chức vụ trên chính trường và được dân chúng Mỹ biết đến trước khi trở
thành Bộ Trưởng Tư Pháp thời John F. Kennedy (21), không phải như ông Ngô Đình
Nhu chỉ ló mặt ra từ khi Ngô Đình Diệm trở thành Thủ Tướng. Đồng thời, ông
Robert F. Kennedy không lạm dụng chức vụ lập thêm một đảng phái để củng cố địa
vị của John F. Kennedy.
Đặt
vấn đề: Việc Robert F. Kennedy làm Bộ Trưởng Tư Pháp thời John F. Kennedy có thể
đem so sánh với trường hợp ông Ngô Đình Nhu thời Ngô Đình Diệm hay không?
Trang
242, Ông Phu khẳng định ông Ngô Đình Thục “là nhà tu hành, không thể tham gia
chính trị”.
Điều
này có phải giả vờ ngây thơ không? Tu hành là một việc và có ý muốn tham gia
chính trị, dù với ý tốt hay xấu, là vấn đề khác. Những kẻ mặc áo thầy tu như
Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan đã từng kêu gọi con chiên hãy “mở rộng vòng tay chào
đón người anh em” trước khi Cộng Sản tấn công Sài Gòn từng được báo chí Sài Gòn
đăng tải, còn rành rành trong Tù Binh và Hoà Bình của nhà văn Phan Nhật Nam. Và
những ông như Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh không phải là thầy tu đó sao?
Tên Thực dân Thierry d’Argenlieu là linh mục đấy! Ai dám khẳng định là Tòa
Thánh Vatican không có những hoạt động chính trị?
Chính
việc ông Thục khuyến khích dân chúng Huế treo cờ Kitô giáo vào dịp lễ Ngân
Khánh của ông nhưng sau đó khi cờ Phật giáo được treo lên vào dịp lễ Phật đản lại
sinh lòng đố kỵ và gọi cho ông Diệm phàn nàn là nguyên nhân vụ bùng nổ Phật
Giáo năm 1963.
Đặt
Vấn đề: Ông Ngô Đình Thục có lợi dụng ảnh hưởng của chính quyền Ngô Đình Diệm để
phát triển Kitô giáo không?
Trang
242, Ông Phu ca tụng ông Ngô Đình Nhu là “người có kiến thức uyên bác, học vấn
cao thâm, tốt nghiệp trường “Ecole des Charles” ở Ba lê (Paris), một trường
danh tiếng nhất của Pháp, thông kim bác cổ, rất ít người được vào học và thi đậu
ra trường, vì đa số đều không nỗi [nổi] phải bỏ học nửa chừng.” (Tên đúng của
trường ông Ngô Đình Nhu đã theo học là “École Nationale des Chartes”, một học viện
đào tạo Chuyên viên lưu trữ (archivist) và Quản thủ thư viện (librarian), thuộc
Đại học Paris – DCVOnline).
Trường
Chartes tại Paris hiện nay Nguồn: Google Maps
Trường
Chartes tại Paris hiện nay
Nguồn:
Google Maps
Việc
học hành và đỗ đạt là điều quý nhưng học giỏi không có nghĩa là làm giỏi. Trên
thế giới này, nhiều ông bà tiến sĩ, thạc sĩ có kiến thức và học vấn uyên thâm,
tốt nghiệp từ các trường danh tiếng nhưng khi đụng vào thực tế trong một việc
nào đó cũng thua xa những người không có bằng cấp cao. Bằng cấp chỉ là tờ giấy
xác nhận là một người đã hoàn thành một chương trình học nào đó đạt theo tiêu
chuẩn đã đặt ra mà không phải là thước đo tài năng, đức độ hay cách ứng biến
trước cuộc đời muôn mặt. Học thức và bằng cáp là hai việc khác nhau. Bằng cấp
là thứ yếu, không phải là điều ắt có và đủ để thành công, nhất là về mặt chính
trị. Điều tốt nhất khi đánh giá con người là đừng giở bằng cấp ra để lòe!
Trường
hợp ông Nhu đáng nói vì ông là người Việt, viết tiếng Pháp lưu loát nhưng viết
tiếng Việt không rành lắm, ăn nói vụng về, đầu óc thiếu thực tế và tự cao tự đại
(22). Sự “thông kim bác cổ” của ông Nhu, nếu có, chỉ là mớ kiến thức sách vở
gom góp ở nhà trường mà thực tế thì ông chẳng giải quyết được việc gì ra hồn. Bằng
chứng là ông lợi dụng địa vị để lập đảng Cần Lao Nhân Vị mà ngay cả những thành
phần nòng cốt cũng chẳng mấy người thông hiểu lý thuyết Cần Lao, Nhân Vị là gì.
Sự kết nạp đảng viên phần đông là phường nịnh hót nên khi có biến thì các ông
“Cần Lao theo” trốn biệt để “Cào Lân”.
Ông
Nhu tự hào về Chương Trình Phát Triển Cộng Đồng và Thanh Niên Cộng Hòa nhưng đến
ngày 1-11-1963, Chương Trình Phát Triển Cộng Đồng đã phát triển và xây dựng được
gì? Cũng chẳng có nhóm Thanh Niên Công Hòa nào lên tiếng ủng hộ ông Nhu, ông Diệm
khi cuộc đảo chánh xảy ra dù chỉ trên hình thức. Chương Trình Ấp Chiến Lược được
ông Nhu xem như là con đẻ của ông nhưng thực tế là dựa vào những cách tổ chức
làng xã chống Pháp lúc trước. Khi đem ra thực hành thì, chương trình này được
làm cho có lượng mà không có phẩm. Tại nhiều địa phương, việc thực hiện chỉ có
lệ vì chính quyền ép buộc.
Là
Cố Vấn Chính Trị, ông Nhu phải hiểu rằng việc đi ngoại giao đòi hỏi khả năng ăn
nói, có kiến thức và biết ứng biến nhưng ông Nhu đã để bà vợ kém kiến thức,
không có khả năng ngoại giao, ăn nói cao ngạo, lỗ mãng và tiếng Anh “ù ù cạc cạc”
đi “giải độc” ở Mỹ thì ai nghe. Thật là quá thất sách! Vậy thì kiến thức uyên
bác, thông thái lắm sao?
[“What
… have… What did he done (do) comparatively? The only thing they have done…
They have barbequed one of the monk(s) whom they have intoxicated… whom they
have abused the confidence. Even that barbequing was done … not even with
sufficient means because they used imported gaseoline…” – D.B. Trần Lệ Xuân
(August 14, 1963: Madame Nhu Calls Self-Immolating Buddhists a “Monk Barbecue”,
Great Events from History: Modern Scandals, Editor: Carl L. Bankston III,
Tulane University) – DCVOnline].
Trong
việc củng cố chính quyền ông Diệm, những người như các ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa
Hảo), Hồ Hán Sơn (Cao Đài), Tạ Chí Diệp, Vũ Tam Anh, Trương Tử An (em ruột
Trương Tử Anh)… và nhiều trí thức, đảng phái đối lập đã bị ông Nhu cho đám mật
vụ thủ tiêu. Ngay cả ông Trình Minh Thế (Cao Đài) cũng đã bị ông Nhu giết vì sợ
uy tín ông Thế quá lớn. Sau khi thanh toán ông Thế, chính phủ Ngô Đình Diệm cho
làm lễ quốc táng kiểu “nước mắt cá sấu” mà ngày nay thân nhân ông Thế cho phanh
phui sự việc (23). Ông Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) đã phải xin thẳng với ông Diệm
cho đi ngoại quốc vì nếu ở lại Việt Nam sẽ bị chế độ ông Diệm thủ tiêu (24).
Vậy
thì những kẻ “kiến thức uyên bác”, “thông kim bác cổ” như ông Nhu dùng được vào
việc gì ngoài việc ám toán đối lập? Tàn hại thành phần trí thức để độc quyền
làm lãnh tụ là tiêu hủy tiềm lực quốc gia, gián tiếp đưa đất nước, dân tộc vào
tay Việt Cộng. Cái tội này có phải do những kẻ “hữu tài, bất đức” như ông Nhu
gây ra hay không?
Đặt
vấn đề: Trừ việc củng cố quyền hành cho ông Diệm, ông Nhu đã thực sự góp công
gì trong việc xây dựng và ổn định miền Nam trước hiểm họa Cộng Sản? Bằng cấp
hay học giỏi có phải là yếu tố quyết định sự thành công của chính khách hay
không?
Trang
242, Về ông Ngô Đình Cẩn, ông Phu chạy tội là “cư trú thường xuyên tại Huế, xuất
thân từ chủng viện Thiên Chúa Giáo, ở nhà phụng dưỡng mẹ già, có danh xưng là
“Cố vấn các đoàn thể chính trị miền Trung”, một chức vị không do chính phủ bổ
nhiệm, không ăn lương bỗng của chính phủ, không có nhà ở…”
Cách
chạy tội cho ông Cẩn thế này mâu thuẫn với những điều ông Phu viết ở các chương
khác khi nới về ông Cẩn hằng tháng đài thọ cho Thích Trí Quang 30.000 đồng để
lo hương khói cho chùa Từ Đàm (trang 288). Với giá gạo là 5.85 đồng Việt Nam1
ký vào khoảng tháng 8 năm 1962 (25) thì không phải là số tiền nhỏ. Ngoài tiền
hương khói, ông Cẩn còn cho xi măng, gạch ngói, vật liệu xây dựng… Ông Cẩn
không chỉ cho chùa Từ Đàm mà còn các chùa khác và đám tay sai bu quanh ông.
Không có lương chính phủ, không có chức vụ, không nhà ở thì lấy tiền đâu và quyền
gì để đài thọ cho nhóm này nhóm nọ? Tiền đâu mà nhiều thế! Ông Cẩn không có chức
vụ thì lấy uy thề gì để tha ông Tỉnh Trưởng Trần Điền trong vụ diệt trừ đảng Đại
Việt ở Ba Lòng như ông Phu đã viết (trang 84). Cái tự xưng, chính phủ không bổ
nhiệm nhưng quyền hành to lớn như vậy có phải là dựa thế anh em không? Ông Cẩn
nổi danh là “Lãnh Chúa Miền Trung” vì có nhiều hoạt động chính trị lắm.
Trang
243, Ông Phu vơ đũa cả nắm là các đại biểu chính phủ, các tướng tá lớn nhỏ
“tự
mình đến qụy lụy Ngô Đình Cẩn, trong khi Ngô Đình Cẩn không bổ nhiệm họ và họ
cũng không phải là thuộc cấp của Ngô Đình Cẩn. Vậy nếu có gia đình trị thì tại
ai đã tạo ra tình trạng này? Tôi nghĩ đâu phải là Ngô Đình Cẩn, mà là những
công chức, quân nhân cao cấp không biết tự trọng, không có liêm sỉ, đã tìm đấn
Ngô Đình Cẩn như tìm chỗ dựa lưng núp bóng.”
Vì
sao nhiều người ông Phu nêu tên (dù chưa chắc ông Phu đã nêu đúng) đã tìm đến
chỗ ông Cẩn để tìm chỗ núp bóng? Có thể vì nhân cách họ hèn kém, có thể vì sợ
ghen ghét trả thù vì họ đã từng thấy thủ đoạn của ông Cẩn đối với những người
ông Cẩn không ưa và cũng có thể vì muốn tâng công với chính phủ ông Diệm. Nếu
ông Cẩn không có sự bao che của chính quyền ông Diệm và không có quyền hành gì
thì chắc chắn là không ai tìm tới ông ấy để “núp bóng”. Không có bóng thì lấy
gì để núp?
Nếu
các ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn không dung dưỡng cho thái độ nịnh bợ thì kẻ xu nịnh
dám đến cầu lụy các ông ấy không? Đừng trách là tại sao kẻ dưới là bọn nịnh bợ
mà nên hỏi người trên có dung dưỡng, khuyến khích cho thói xu nịnh và thích được
nịnh bợ hay không. Dòi bọ sanh nở ở những nơi bẩn thỉu, hôi hám chứ nếu có đầy
đủ ánh sáng sạch sẽ, chúng sẽ tự động giãy chết. Chính quyền ông Diệm có phải
là cái bong tối dơ bẩn ấy không? Ông Phu xuất thân từ gia đình thâm Nho chắc
cũng hiểu: “Thượng bất chính hạ tắc loạn”!
Đặt
vấn đề: Ông Ngô Đình Cẩn có lợi dụng quyền thế để làm những việc ám muội không?
Ông Cẩn có tiêu diệt những người không cùng phe phái để củng cố quyền hành cho
chính phủ ông Diệm không?
Ngoài
ông Thục, ông Nhu, ông Cẩn còn phải kể đến bà dân biểu Trần Thị Lệ Xuân tức bà
Ngô Đình Nhu. Bà là kẻ đã góp phần làm sụp đổ chính quyền ông Diệm. Những lời lẽ
ngạo mạn, hỗn láo, chửi cha (Trần Văn Chương) mắng chú (Trần Văn Đỗ), xem thường
Phật Giáo và dân chúng đã gây công phẫn cả trong cả nước lẫn ngoài nước. Bà đại
diện chính quyền đi “giải độc” nhưng đi tới đâu cũng bị đả đảo đến nỗi chính
ông bà Trần Văn Chương cảm thấy xấu hổ với bạn bè và người thân quen nên phải
công khai từ con. Nhiều người nói rằng sau 1-11-1963, cái mà dân chúng ở Sài
Gòn phá trước nhất là tượng Hai Bà Trưng vì được tạc giống như bà Nhu. Câu nói
của bà Trần Văn Chương thổ lộ với ông Hà Thúc Ký là “gia đình tôi vô phước sanh
ra con quỷ cái, nó hại cả gia đình” có thể dùng để thay lời phê phán (26). Độc
giả có thể tìm hiểu bà Nhu với giấc mộng chính trường qua nhiều tài liệu khác
(27).
Đặt
Vấn đề: Nhiều người cho rằng chế độ ông Ngô Đình Diệm là chế độ gia đình trị có
quá lắm không?
Tiết
II Độc tài, độc đoán
Trang
246-254, để chứng minh ông Diệm không độc tài, độc đoán, ông Phu dùng những
chuyện mà chỉ có riêng ông và ông Ngô Đình Diệm biết. Điều này chỉ là ý kiến cá
nhân, không chứng minh được điều gì cả. Một người dù độc tài, độc đoán vẫn đối
xử với tay sai dễ dàng nếu bọn tay sai nịnh bợ giỏi.
Chính
bản thân “ông Diệm cũng không chối cãi là ông trị nước với bàn tay độc tài.
Nhưng ông bện minh là nếu không có cách cai trị cứng rắn này, với tình trạng xã
hội bất ổn và nạn bè phái, sẽ làm cho xã hội đổ vỡ trước những trường hợp nguy
cấp.“ (28)
Ông
Edward G.Lansdale, người rất quý mến ông Diệm, cũng từng khuyên ông Diệm nên
“nâng cao tinh thần đồng bào”, “chính phủ hoan nghênh sự giúp đỡ của mọi người
dân”, “đàn áp đối lập bằng cách bắt giam hay đóng cửa báo chí sẽ làm cho những
lời chỉ trích biến thành những cảm xúc thù hận đưa dến sự thành lập các tổ chức
bí mật” (29). Ông Diệm có làm theo những điều ông Lansdale đề nghị không? Rõ
rang là không!
Một
chuyện sau đây mà nhiều người biết có thể nói lên cách làm việc của ông Diệm:
“Tại
Cần Thơ trong một cuộc mít tinh do Tỉnh Trưởng Đỗ Văn Phước tổ chức dưới quyền
chủ tọa của Tổng Thống Diệm, một kỳ lão đọc diễn văn xin hoãn việc lập Khu Trù
Mật lại một thời gian ngắn đợi cho dân chúng gặt lúa xong sẽ làm.“Kính thưa Tổng
Thống” ông nói, “nhờ ơn mưa móc của Tổng Thống, trong mười năm nay lần này là lần
đầu tiên dân chúng tôi mới được mùa. Kính xin Tổng Thống cho phép dân chúng tôi
thu hoạch để lấy hên rồi dân chúng tôi sẽ làm Khu Trù Mật sau.”
Không
trả lời cho dân chúng, ông Tổng Thống xoay qua hỏi Thiếu Tá Hoàng Văn Thường,
Quận Trưởng Châu Thành: “Anh có làm được không?” Thường trả lời “Dạ được.” Thế
là trong ngày sau có công điện của Tổng Thống phủ chỉ định Thiếu Tá Thường làm
Tỉnh Trưởng thay thế ông Đỗ Văn Phước bị rút về Sài gòn.” (30)
Trang
251, Việc Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là làm giàu trong việc bắt nhiều thương gia
đóng tiền quảng cáo rồi bị ông Phu cho Hiến Binh điều tra, ông viết là “Thiếu
Tướng Là không dám chỉa mũi dùi vào tôi vì mọi người đều biết tôi liêm
chính”.Khi một người, nhất là những kẻ hèn hạ nhưng có địa vị, không dám chỉa
mũi dùi tấn công người khác không phải là vì người kia liêm chính hay không mà
vì người kia có thế lực hơn hoặc có khả năng chống lại sẽ bị thiệt thòi hơn nên
không dám tấn công. Trong trường hợp này, Tướng Là biết ông Lê Nguyên Phu là
Giám Đốc Hiến Binh, Ủy Viên Chính Phủ và là tay chân thân tín của ông Diệm thì
đúng hơn.
Đặt
Vấn đề: Ông Diệm có độc tài và độc đoán như nhiều người từng nói không? Nếu có,
sự độc tài này có cần thiết trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh không? Nếu
không thì tại sao có quá ít tái liệu khả tín biện hộ cho chính phủ ấy?
(Còn
tiếp phần Kêt)
©
2010-2015 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net
(21)
Robert F. Kennedy, http://www.answers.com/topic/robert-f-kennedy
(22)
Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những ngày cuối cùng của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, Hoa Kỳ 2001, trang
165.
(23)
Giải tỏa bí mật về Cái Chết của tướng Trịnh Minh Thế,
http://www.dongduongthoibao.net/view.php?storyid=336
(24)
Nguyễn Văn Canh, Đọc cuốn hồi ký của Hà Thúc Ký,
http://www.calitoday.com/news/view_article.html?article_id=c427e6ab4ea94198960d497eeb8348ab
(25)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 326.
(26)
Vĩnh Phúc, Những Huyền Thoại và Sự Thật về Chế Độ Ngô Đình Diệm, Tam Vĩnh,
England 2006, trang 234.
(27)
Phan Thứ Lang, Trần Lệ Xuân Giấc Mộng Chính Trường, Á Châu, Hoa Kỳ 1998.
(28)
Marguerite Higgins, Our Vietnam Nightmare, Harper & Row, Pub., 1965 trang
171.
(29)
Foreign Relations of the United States 1961-1963, I:22-23.
(30)
Nguyễn Trân, Công Và Tội Hồi Ký Lịch Sử Chính Quyền Miền Nam Việt Nam
1945-1975, Xuân Thu, 1992, trang 331-332.
Trong
đống rác lịch sử (Kết)
Posted
on April 23, 2015 by editor — 1 Comment
Nguyễn
Hữu
ndnhuTác
giả Lê Nguyên Phu đã dựa vào bóng tối lịch sử, cố tình giả mạo chứng cớ không hợp
lý chứng tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra câu chuyện khả
tín.
Đặt
vấn đề về trước những sự kiện lịch sử
(Tiếp
theo phần III)
Tiết III Không dung nạp đảng phái và đàn áp đối
lập
Trang
257, Về Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Phu viết là “theo chân quân đội Trung Quốc
trở về Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai. Lần trở về này vì thiếu ý thức chính trị,
chẳng những đã để mất chính quyền vào tay Việt Minh, mà còn chịu tai kiếp thứ
hai là bị Việt Minh đánh bại vào năm 1946, phải cuốn cờ chạy sang Trung Quốc một
lần nữa.”
Sự
thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như các đảng phái quốc gia khác không
phải là thiếu ý thức chính trị mà do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Những
yếu tố khách quan như: Sự lật lọng của Tướng Lãnh Quốc Quân Tàu, sự thờ ơ của
quân phiệt Nhật đối với các phần tử quốc gia Việt Nam và sự tráo trở của thực
dân Pháp tạm thời bắt tay với Việt Minh để thanh trừng các thành phần ái quốc.
Những yếu tố chủ quan như: Bộ máy tuyên truyền và tổ chức của Việt Minh lúc ấy
được sự hậu thuẫn của đa số dân chúng hơn các đảng phái quốc gia, sự thiếu kiên
quyết của các đảng phái chính trị đối với phe Việt Minh và căn bệnh trầm kha
thiếu đoàn kết của người Việt là những yếu tố đã dẫn đến sự thất bại của các đảng
phái quốc gia. Việc chính quyền rơi vào tay Việt Minh là do Việt Minh giành trước
bằng nhiều thủ đoạn chứ không phải là các đảng phái quốc gia để mất. Có thì mới
mất chứ chưa có thì làm sao mà mất? Lý luận bá vơ này là sự thù ghét những người
không cùng phe phái, đổ tội lên đầu phe quốc gia mà không cần tìm hiểu lý do.
Trang
258-279, Về tình trạng đảng phái Việt Nam, ông Phu dựa vào tin tức “xe cán chó,
chó cán xe” hoặc do ông bịa ra để bêu xấu những đảng phái quốc gia. Phần lớn những
người như Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Địch, Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Xuân Tiếu, Nguyễn
Tường Tam, Lý Đông A, Hoàng Xuân Tửu, Phan Huy Quát, Hồ Nhật Tân, Hà Thúc Ký, Hồ
Hữu Tường, Trần Văn Ân… đều bị ông Phu bôi nhọ bằng nhiều ngôn từ rủa sả. Ngay
cả học giả Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Đặng Văn Ký cũng bị xỏ bằng những lời
lẽ rất bất nhã “ăn chực nằm chờ” khi các ông này được Nhật giúp đỡ tránh khỏi
nanh vuốt của thực dân Pháp tại đảo Chiêu Nam (trang 14). Chuyện này chưa dứt,
chuyện kia được nhét vào với cách tung hỏa mù để chứng minh ông Diệm không độc
đoán, độc tài mà vì những người này “ít học”, “bất tài”, “không trong sạch”,
“có quá khứ lem luốc”, “không có thành tích đáng kề”, “thân Nga”, “thân Nhật”,
“tôn Nhật bài Pháp”, “Nho học bất đạt, Tây học nan thông”…
Đồng
ý là trong số những người ông Phu nêu tên cũng có thể có những người kém tài đức
nhưng đặt vào bối cảnh khi thực dân Pháp còn đè đầu cưỡi cổ dân Việt, nếu không
phải là kẻ điên khùng, phải có tấm lòng yêu nước nồng nàn những người này mới
dám dính vào “chuyện quốc sự”, tham gia vào những hoạt động chính trị chống
Pháp, không những nguy hiểm cho bản thân mà còn liên lụy cho gia đình mà hình ảnh
Nguyễn Thái Học và những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp đưa lên đoạn
đầu đài vẫn còn ám ảnh nhiều người. Dù những người này có thiếu tài đức, cá
nhân tôi vẫn cúi đầu vá cảm phục lòng yêu nước của họ.
Về
ông Diệm, trừ việc ông Diệm làm quan cho Pháp nhiều năm, thành tích tranh đấu
vì độc lập, tự do cho đất nước trước khi cầm quyền miền Nam Việt Nam của ông
còn thua xa các lãnh tụ đảng phái nhưng ông gặp thời, được ông Bảo Đại trao quyền
trong bối cảnh người Mỹ nhảy vào Việt Nam nên ông có điều kiện thành công hơn
người khác chứ ông Diệm chưa chắc có tài đức hơn nhiều người mà ông Phu nêu
tên.
Trang
261, mũi dùi được ông Phu chỉa vào Phạm Văn Liễu, Hoàng Cơ Minh
“lợi
dụng lòng yêu nước của đồng bào tỵ nạn Cộng sản, thâu góp tiền bạc nói rằng để
đồ binh diệt cọng, mà kỳ thực là để bỏ đầy túi tham, nhưng rồi ăn chia không đều,
gây gỗ nhau đến nỗi câu chuyện lường gạt bị đổ bể, cúi mặt không dám nhìn đời.”
Về
Võ Đại Tôn, cũng với luận điệu trên ông Phu viết là
“cũng
như Phạm Văn Liễu, lợi dụng lòng yêu nước chống cộng của đồng bào tỵ nạn, Võ Đại
Tôn đi khắp Âu Mỹ thâu tiền góp bạc của bà con dễ tin “vì tai tiếng đồn đãi,
cũng như Hoàng Cơ Minh, y phải làm một chuyến du hành về Ai Lao. Nhưng không
may cho y, y bị Cộng sản Việt Nam bắt tại đây, đem về Sài Gòn giam cầm một thời
gian rồi phóng thích cho y trở về Úc Châu.”
Là
kẻ ngoại cuộc, không biết rõ những việc lủng củng nội bộ của “Mặt Trận Kháng
Chiến Hoàng Cơ Minh” hay trường hợp Võ Đại Tôn nên người viết bài này không dám
đưa ra kết luận vội vàng. Xưa nay, tin tức từ những tờ báo lá cải được những kẻ
thù ghét, ganh tỵ rỉ tai và phóng đại để bôi nhọ nhưng phần đông đều không biết
rõ nguyên nhân sâu xa. Chúng ta nên cẩn thận trong việc phán xét một người hay
một sự kiện nào đó với lương tâm công chính hơn là từ tin vịt. Độc giả tự tìm
hiểu, suy gẫm và đánh giá Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Võ Đại Tôn. Hơn nữa,
việc này không dính dáng gì đến việc ông Diệm có dung nạp đảng phái và đối lập
hay không nên người viết không phân tích việc này.
Đặt
vấn đề: Việc đem các ông Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Võ Đại Tôn ra xỏ xiên
có dính dáng với việc ông Diệm không đán áp đảng phái và đối lập hay không? Điều
này có biểu lộ thói ba que, đụng đâu chửi đó không?
Trang
267, Về Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên, ông Phu viết là “Bình Xuyên của Bảy Viễn,
cũng như Cao Đài và Hòa Hảo đều đứng chung trong một mặt trậncó tên gọi là Mặt
Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập ngày
24-4-1946.”
Điều
này có phải là sự cố tình giả mạo lịch sử không? Trước năm 1954, người Pháp cù
cưa tráo trở trong việc trao trả độc lập cho Việt Nam, Mặt Trận Quốc Gia Liên
Hiệp được thành lập vào ngày 20-04-1946 với mục đích chống Pháp mà Chủ tịch là
Thầy Huỳnh Phú Sổ với sự tham gia của Cao Đài, Bình Xuyên, Quốc Dân đảng (31).
Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp được sự tham gia đông đảo của các thành phần không
phải là Cộng Sản để ủng hộ Bảo Đại trong cuộc thương nghị với Pháp giành độc lập,
thống nhất và hòa bình cho Việt Nam. Trong khi đó, Hồ Chí Minh, dưới sự cố vấn
của Tàu Cộng, cũng cần điều đình với Pháp, muốn ngăn chặn những thành phần yêu
nước không Cộng Sản nên đã cho lệnh ám sát các phần tử không Cộng Sản như Nguyễn
Văn Sâm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Đình Tri… (32). Sau khi ông Huỳnh Phú Sổ bị Việt
Minh thủ tiêu, quân đội Hòa Hảo ngã về phía thực dân Pháp để chống Cộng quyết
liệt nhưng không có nghĩa là tay sai của Pháp.
Đặt
vấn đề: “Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập”
hay là do ông Huỳnh Phú Sổ thành lập? Nếu do Thierry d’Argenlieu thành lập thì
theo tài liệu nào?
Trang
270, Ông Phu khẳng định “còn Cao Đài, Hòa Hảo nguyên chỉ toàn cán bộ võ biền
đâu còn có ai để tham gia các chính quyền về sau. Chính họ đã tự loại mình khỏi
sân khấu chính trị, chứ đâu phải vì Ngô Đình Diệm độc tài, độc đoán.”
Võ
biền trong chiến tranh cần lắm chứ! Nhờ vào những người võ biền như Trình Minh
Thế, Nguyễn Thành Phương (Cao Đài), Nguyễn Giác Ngộ (Hòa Hảo)… mà ông Diệm có
thể thống nhất quân đội. Hơn nữa, trong các nhóm Cao Đài, Hòa Hảo không chỉ có
võ biền mà còn nhiều hạng người khác nữa. Ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo, Dân Xã
Đảng), Hồ Hán Sơn (Cao Đài, Việt Nam Phục Quốc Hội) là những người có nhiều uy
tín lúc bấy giờ, đã củng cố địa vị cho ông Diệm trong việc truất phế ông Bảo Đại.
Ông Diệm đã giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng ngày 15-1-1956 loại trừ những
người này. Có thể là do việc này mà ông Hoàng Cơ Thụy (thành viên trong Hội Đồng
Nhân Dân Cách Mạng) sinh ác cảm với chính quyền ông Diệm và tham gia vào vụ đảo
chánh 11-11-1960.
Trang
270, Ông Phu tiếp tục mạ lỵ nhóm Tinh Thần là
“có
khoảng trên dưới 10 nhân vật… ủng hộ lập trường của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình
Diệm cũng coi họ như đồng chí .. nhưng khi có tranh chấp giữa Ngô Đình Diệm và
Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia, nhóm Tinh Thần mất tinh thần, một mặt sợ
đụng chạm với Pháp, một mặt e ngại sự hăm dọa của Bình Xuyên, nên bỏ rơi Ngô
Đình Diệm trong giờ phút nguy hiểm nhất và rút chân ra khỏi chính quyền…. Chính
họ đã phụ rẩy [rẫy], bỏ rơi Ngô Đình Diệm, chứ không phải Ngô Đình Diệm đã ly
khai với họ.”
Bảng
Tuyên Cáo Caravelle gồm 18 người ký. Nhiều người trong nhóm này từng tham gia
chính phủ ông Diệm khi ông mới về chấp chánh. Họ tự nguyện rút tên ra (hoặc bị
buộc phải từ chức) sau những lần cải tổ nội các mà không có chứng cớ là họ sợ đụng
độ với Pháp hay e ngại Bình Xuyên.
Trang
277, Để nói chuyện dân chủ, ông Phu nêu lên bằng chứng là đất Mỹ cũng chẳng có
dân chủ với câu chuyện là:
“Tôi
có vài người quen hành nghề bác sĩ tại vùng còn dân da đỏ cho biết là được chỉ
thị lúc trị bệnh cho người da đỏ phải cho tiêm thuốc không sinh đẻ để dân tộc nầy
sẽ không còn người thừa kế, vì chỉ có tử mà không có sinh. Thật là tối ư dã
man, độc ác có khác gì độc tài đảng trị của Nga và Trung Cộng?”
Sự
độc ác, dã man của Việt Cộng cũng chẳng kém gì Nga và Trung Cộng. Những vụ chặt
người bừa bãi bằng rựa thành khúc, phơi bày trước dân chúng để uy hiếp tinh thần
đồng bào ở thôn quê biểu lộ sự man rợ khủng khiếp không bút nào tả xiết. Người
viết bài này có cảm giác là “tác giả” cố tình tránh né chữ Việt Cộng vì trong
suốt tác phẩm chữ Cộng Sản chung chung được dùng thay cho chữ Việt Cộng. Cộng Sản
là lý thuyết, người, phe nhóm, quốc gia theo lý thuyết ấy mà Việt Cộng, Tàu Cộng
hay Nga Cộng mới xác định rõ rang là thành phần nào.
Điều
ông Phu nêu trên, cách đây hơn 100 năm thì còn có thể lừa gạt được những kẻ ngờ
nghệch nhưng không phải hiện thời. Ai là người quen ông Phu vậy để mọi người
xem thử là người quen của ông Phu thuộc loại nói láo hay nói thật? Chỉ thị của
ai, tại đâu và vào khi nào? Thuốc không sinh đẻ là thuốc gì vì nếu thuốc ảnh hưởng
đến việc không sinh đẻ thì thuốc ấy cũng có thể giết dần con người? Nếu có những
việc này xảy ra trong thế giới hôm nay, chúng ta nên thông tin cho người da đỏ
để chấm dứt việc làm phi nhân này.
Ông
Phu nên biết rằng ở Mỹ, y sĩ không chữa bệnh theo chỉ thị như những ông Chánh
Án, Biện Lý, Thẩm Phán thi hành luật pháp của ông Diệm mà có toàn quyền trong
việc tham khảo và chữa trị bệnh nhân theo luật pháp ấn định. Xã hội Mỹ là nơi
thiên hạ đưa nhau ra tòa kiện tụng dễ dàng, nên nếu bác sĩ trị bệnh ẩu tả, người
bệnh hay thân nhân của họ có thể kiện bác sĩ hay bệnh viện ra tòa. Việc kiện
cáo có thể dẫn đến việc bác sĩ phải bồi thường hay tù tội nặng nề khi liên quan
đến sanh mạng. Việc này không phải là những việc nói chơi. Ông Phu là “luật sư”
nên biết tội “phao tin thất thiệt để phỉ báng chính quyền Mỹ” sẽ xảy ra điều gi
nếu không có bằng chứng và nhân chứng.
Về
vấn đề chính phủ ông Diệm có dung nạp đảng phái và đàn áp đối lập hay không,
người đọc có thể xem lại những sự kiện xảy ra trước 1-11-1963. Một vài sự kiện
tiêu biểu sau đây có thể chứng minh là ông Diệm đã xem thường trí thức, loại trừ
đối lập và đàn áp đảng phái:
•
Đầu năm 1955, Ngô Đình Cẩn với sự đồng ý của chính phủ ông Diệm đã bao vây, tàn
sát nhóm Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền Trung.
•
Ông Diệm tìm cách loại bỏ các ông Phan Quang Đán, Nguyễn Trân dù họ đắc cử dân
biểu bằng cách đổ cho họ tội “gian lận”.
•
Ngày 15-1-1956 ông Diệm giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, loại trừ những
người đã củng cố quyền hành cho ông như các ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo), Hồ
Hán Sơn (Cao Đài) … rồi sau này những người này đều bị đám mật vụ của ông Nhu
thủ tiêu.
•
Ngày 19-2-1956, ông Diệm cho quân đội Quốc Gia bao vây Tòa Thánh Tây Ninh, Hộ
Pháp Cao Đài Phạm Công Tắc phải trốn tránh sang Cao Miên vì sợ chính quyền ông
Diệm bắt và kết tội “phá rối trị an”.
•
Ngày 15-03-1958, ông Nghiêm Xuân Thiện viết bài “Gởi ông Dân Biểu” trong đó so
sánh việc bầu cử thời Pháp thuộc “còn khá hơn là những cuộc bầu cử của quý vị
vì không có ai được dùng xe cam nhông chở lính vào Sài Gòn để giúp “việc bỏ phiếu”.
Hậu quả là ông Nghiêm Xuân Thiện bị nhốt vào tù và báo Thời Luận bị đóng cửa.
•
Các lãnh tụ của các đảng phái quốc gia như Vũ Hồng Khanh (VNQĐD), Hà Thúc Ký (Đại
Việt) bị chính quyền ông Diệm bắt giam nhiều năm không xét xử đến khi chế độ
ông Diệm sụp đổ mới được chế độ mới thả ra.
•
Ngày 26-04-1960, nhóm Caravelle ra Tuyên Cáo kêu gọi chính phủ hãy mở rông các
quyền tự do, tránh bắt bớ và giam giữ thành phần đối lập nhưng ông Diệm đã
không để ý. Nhân vụ binh biến 11-11-1960, ông Diệm cho bắt một số người đã ký
tên vào bảng tuyên cáo như các ông: Trần Văn Văn, Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu…
cùng những thành viên của các đảng phái quốc gia vì tình nghi tham gia đảo
chánh.
•
Đảng Đại Việt Quốc Xã của ông Nguyễn Xuân Tiếu ngưng hoạt động vì chính quyền
ông Diệm theo dõi, phá rối và bắt ông Tiếu vào tù khoảng năm 1962. Ông Nguyễn
Xuân Tiếu từng giúp đỡ tiền bạc, vật chất cho ông Diệm khi ông Diệm bị Việt Cộng
bắt giam ở rừng núi Thái Nguyên, Bắc Việt. Chính ông Diệm đã từng mỉa mai những
đảng viên Đại Việt Quốc Xã là “chuyên viên thất nghiệp” (33).
Đặt
vấn đề: Ông Ngô Đình Diệm có dung nạp đối lập và đảng phái hay không? Nếu
không, vì lý do gì ông Diệm không chấp nhận các đảng phái đối lập?
Tiết
IV Chính quyền Ngô Đình Diệm có phải đã bắt tay với Cộng Sản Bắc Việt?
Trang
279-286, ông Phu biện hộ là ông Diệm không bắt tay với Cộng Sản và “lý do này
do chính người Mỹ tung ra đầu tiên” mà đám tướng lãnh thường viện dẫn.
Người
viết bài này đồng ý là ông Diệm không bắt tay với Cộng Sản nhưng không phải do
cách biện luận hay chứng cớ mà ông Phu nêu ra mà vì những lý do sau đây:
•
Ông Diệm là người Kitô giáo và có hận thù sâu đậm với Việt Cộng vì họ đã thanh
toán thân nhân ông (ông Ngô Đình Khôi và ông Ngô Đình Huân, con ông Khôi).
•
Ông Diệm đặt tình nhà hơn nợ nước qua việc dù ông có thấy sự sai trái của người
thân trong gia đình ông như ông Thục, ông Cẩn, ông bà Nhu hay tay chân thân
tín, ông vẫn bao che.
•
Ông Diệm là người mang nặng trong đầu cách trị dân của quan lại thời phong kiến,
kiểu “dân chi phụ mẫu” thì việc bắt tay với Việt Cộng không thể thực hiện được.
Nếu
ông Diệm, ông Nhu có tìm cách nói chuyện với Cộng Sản miền Bắc cũng chỉ là để
dò la tin tức với mục đích đối phó, bắt bí chính quyền Mỹ sau khi ông Diệm nhận
ra là họ không còn ủng hộ ông nữa.
Đặt
vấn đề: Tại sao ông Diệm, ông Nhu cho người thăm dò tin tức Việt Cộng?
Về Ông Võ Văn Hải
Trang
283-285: ông Phu trình bày là ông Diệm đã dự trữ một số tiền kếch sù qua những
khoản tiền viện trợ có thể chi dụng cho cả miền Nam Việt Nam trong nhiều năm,
phòng hờ nếu bị Mỹ cúp viện trợ. Điều này không ai biết mà theo ông Phu thì chỉ
có Ông Diệm, ông Nhu và ông Võ Văn Hải biết. Tất cả những người trong cuộc đều
đã về bên kia thế giới, muốn tìm nhân chứng phải cầu hồn người chết. Điều này
hơi vô lý vì ông Nhu biết thì bà Nhu phải biết. Dù không có tính “ăn không được
thì phá”, bà Nhu cũng không thể để yên cho ông Võ Văn Hải sau 1-11-1963 nhưng từ
sau vụ đảo chánh 1963 đến 30-04-1975, không ai đề cập đến số tiền này.
Điều
vô lý hơn nữa là nếu có khoản tiền kếch sù như vậy, chắc chắn ông Võ Văn Hải
không dại gì mà chỉ để trong những ngân hàng Việt Nam mà phải có phần lớn ở những
ngân hàng ngoại quốc. Ông Võ Văn Hải cũng thừa biết Việt Cộng sẽ làm gì với những
kẻ giàu có và đã từng cộng tác trong chính phủ ông Diệm. Nếu có số tiền kếch sù
như vậy, ông Võ Văn Hải phải có thừa phương tiện để rời Việt Nam trước khi Việt
Cộng chiếm Sài Gòn.
Điều
ông Phu viết nghe không thuận lý, còn khó tin hơn là việc “ông Thiệu lấy 16 tấn
vàng” của những kẻ thích phao tin thất thiệt trong khi đám đầu lãnh Việt Cộng
chia nhau ăn mà còn cười là “Tụi Ngụy cứ phá nhau đi!” Ông Phu đưa ra kết luận
là “Võ Văn Hải đã sang đoạt ngân khỏan Quốc Gia mà không ai biết rõ”. Điều này
sự vu khống đối người đã mất nếu không có chứng minh cụ thể. Ông Phu là người
tinh thâm Hán học chắc còn nhớ câu: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (ngậm
máu phun người dơ miệng mình trước).
Đặt
vấn đề: Tại sao ông Lê Nguyên Phu chỉa mũi dùi vào ông Võ Văn Hải? Có phải vì
ông Võ Văn Hải đã có những báo cáo không thuận lợi cho chính quyền ông Diệm với
người Mỹ và đã có hành động ủng hộ Phật Giáo năm 1963?
Tiết V – Lý do thứ năm và cũng là lý do
sau cùng: Ký thị Phật Giáo
Nhiều
sử liệu khả tín khác đều cho là ông Ngô Đình Diệm không kỳ thị Phật Giáo nhưng
đã dung dưỡng cho ông Ngô Đình Thục và bà Nhu lợi dụng quyền thế quá quắt để đặt
niềm tin Kitô giáo vào đầu óc người Việt.
Về
Ông Thích Hộ Giác
Trang
290, để bài xích Phật Giáo qua ông Thích Hộ Giác, ông Phu viết theo báo cáo của
Cảnh Sát rồi bịa ra: “Chiều chú nhật rãnh [rảnh] rang Phật sự, Thích ta áo quần
là lượt, lái xe mới tinh, chở vợ con đi hứng mát trên xa lộ. Người đẹp kề bên,
con thơ ở cạnh, Thích cao hứng lái xe nhanh, lại vui chuyện với vợ con, sơ ý lạc
tay lái đụng phải nạn nhân đi bộ trên lề đường.”
Nếu
là báo cáo của cảnh sát thì chắc chắn là cảnh sát không ghi áo quần lượt là,
không ghi là xe mới tinh hay xe cũ mèm và chắc chắn là không ghi là hứng mát
trên xa lộ. Trong những biên bản của cảnh sát giao thông, cảnh sát không có thì
giờ hay lý do để ghi là người bên cạnh tài xế đẹp hay xấu và tài xế cao hứng
lái xe nhanh mà chỉ ghi ước lượng tốc độ nếu cần thiết. Lái xe trên xa lộ thì tốc
độ phải nhanh cần gì phải cao hứng? Lạc tay lái trên xa lộ thì tính mạng người
lái xe chắc dễ đi đời lắm? Và xa lộ nào mà có người đi bộ trên lề đường? Có chết
chóc hay bị tổn thương gì mà đòi bồi thường? Luận điệu này là những sự bịp bợm,
thói ngụy tạo chứng cớ của những tên “luật sư” không cần biết phải quấy mà chỉ
biết kiện tụng để có ăn.
Điều
này có xảy ra thực không hay là một sự gian trá? Với giọng điệu xuyên tạc đầy
láo khoét này chứng tỏ một điều rõ rang: Đầu óc gian manh nhưng không đủ khôn
ngoan để tạo ra một sự việc có thể gọi là khả tín.
Đặt
vấn đề: Tại sao Việt Cộng lợi dụng được phong trào Phật giáo trong việc tranh đấu
lật đổ chính quyền ông Diệm? Hành động của Ông Thục và ông bà Nhu có làm cho
dân chúng chán ghét không?
Diễn biến vụ Phật Giáo
Trang
286-313 Để trình bày diễn tiến vụ “tranh đấu bạo động” của Phật Giáo, ông Phu
khẳng định hết điều này đến điều khác, sự kiện lộn xộn gian trá với cách lý luận
cù nhầy rồi đưa ra kết luận là bàn tay người Mỹ qua Đại Úy James Scott đã gây
ra huyết án 8-5-1963.
Theo
những liệu khả tín thì sự việc có thể tóm tắt như sau.
Ông
Ngô Đình Thục thấy nhiều cờ Phật Giáo treo vào dịp lễ Phật đản, cảm thấy khó chịu
hay ganh ghét nên đã gọi ông Hồ Đắc Khương, trách là tại sao không thi hành lệnh
cấm treo cờ tôn giáo và gọi vào Phủ Tổng Thống phàn nàn với ông Diệm. Có lẽ nể
lời ông Thục, ông Diệm cho cái lệnh miệng là “cứ như cũ mà làm”. Do cái lệnh miệng
này, ông Quách Tòng Đức theo lệnh cũ cấm treo cờ tôn giáo. Đám thừa hành địa
phương sốt sắng ra lệnh dẹp. Khối Phật Giáo cho rằng bị chính phủ ép. Việc đến
tai ông Ngô Đình Cẩn, ông ra lệnh cho ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng cho xe
phát thanh khắp nơi nói rằng sẽ không có việc hạ cờ Phật Giáo để trấn an dân
chúng nhưng rồi một số cờ vẫn bị đám thừa hành hạ xuống. Việt Cộng hoặc người Mỹ
(?) lợi dụng cảnh rối ren, ồn ào tại Đài Phát Thanh Huế ném bom gây tử thương
cho 8 em. Thế là sinh chuyện lớn.
Qua
sự dàn xếp của các ông Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Trương
Khuê Quang…việc dàn xếp sắp xong để ông Diệm ký vào văn bản đòi hỏi của khối Phật
Giáo. Bà Nhu nói xốc vô với ý là những tăng sĩ này là cái thá gì mà Tổng Thống
ký ngang hàng với họ nên ông Diệm lại phê vào văn bản với giọng kẻ cả là “Những
điều này là những điều chính phủ vẫn thi hành với Phật Giáo”. Những người đứng
ra dàn xếp lại phải đến thuyết phục, năn nỉ ông Thích Thiện Minh. Nội vụ gần
như được giải quyết xong.
Sáng
hôm sau, bảng Thông Cáo chung chưa được đưa lên đài phát thanh đọc thì bà Nhu họp
Phụ Nữ Liên Đới, ra một tuyên ngôn với giọng điệu mạ lỵ Phật Giáo và đưa qua Việt
Tấn Xã bắt phải đăng ngay, đồng thời bà Nhu gọi ông Tổng Giám Đốc Thông Tin
Phan Văn Tạo la lối. Ông Diệm lại lừng khừng vì thấy sự việc ngoài ý muốn đã xảy
ra nên cho lệnh Thông Tin ngưng lại việc đọc bàng Thông Cáo chung. Bà Nhu còn xốc
thêm vào ông Diệm làm cho ông trở thành kẻ nuốt lời.
Sau
đó, ông Nhu cho lệnh tấn công chùa Xá Lợi, Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát thi
nhau “vét chùa”, lùng bắt sư sãi (34). Từ đó, Phong Trào tranh đấu Phật Giáo
ngày càng bùng lên mà nhiều nơi có thể có Việt Cộng xúi dục. Nhiều cuộc biểu
tình, tự thiêu vì đạo pháp xảy ra khắp nơi phản đối chế độ Ngô Đình Diệm, gây
công phẫn khắp thế giới.
Theo
tài liệu tổng hợp của ông Nguyễn Văn Lục về biến cố Phật Giáo năm 1963 tại Huế
thì cho đến nay, thủ phạm vụ ném bom ngày 8-5-1963 vẫn còn nằm trong bóng tối
vì không ai chịu nhận trách nhiệm huyết án này (35). Những tài liệu mà ông Lê
Nguyên Phu đưa ra để chỉ danh thủ phạm vẫn là những dấu hỏi, có nhiều nghi vấn
chưa được làm sáng tỏ. Chúng ta vẫn chưa thể xác quyết là chính Đại Úy James
Scott, nhân viên của CIA nhúng tay vào hay do Việt Cộng khơi mào xách động vì
chưa đủ tài liệu khả tín. Vụ Phật Giáo 8-5-1963 chỉ là “giọt nước cuối cùng làm
tràn ly” mà hậu quả là người Mỹ mua chuộc và xúi dại đám tướng lãnh làm cuộc đảo
chánh 1-11-1963.
Đặt
vấn đề: Qua diễn biến Phật Giáo ở Huế năm 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm có thái
độ và phản ứng thế nào? Những phản ứng của chính phủ ông Diệm có xoa dịu Phật
Giáo hay là gây thêm phẫn uất, làm cho Việt Cộng lợi dụng để gây rối miền Nam?
Chương
IV Từ vụ đảo chính ngày 1-11-1963 đến cái chết bất khuất can trường của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Trang
360, ông Phu cho là ông Diệm không đồng ý với kế hoạch của ông Nguyễn Hữu Duệ
“đem
toàn lực của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, ba đại đội thiện chiến
có thiết giáp yễm [yểm] trợ tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu, bắt trọn ổ tướng tá
phản loạn. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chấp thuận kế sách này vì tấm
lòng Nhân của Tổng Thống không muốn có cảnh huynh đệ tương tàn, giết hại lẫn
nhau, làm tiêu hao tiềm lực chống Cộng về sau và làm sứt mẻ tinh thần đoàn kết
của quân đội.”
Kế
hoạch tấn công bộ Tổng Tam Mưu có thể thành công (?) nhưng ông Diệm không cho
thực hiện. Nói rằng ông Diệm không cho tấn công Bộ Tổng Tham Mưu vì tấm lòng
nhân, vì nghĩ đến việc huynh đệ tương tàn chỉ là sự ngụy biệm.
Ông
Diệm từng cho Quân Đội Quốc Gia tấn công quân đội Hòa Hảo, Cao Đài dù nhiều người
trong quân đội các giáo phái này đã theo ông, gây nhiều đau thương cho giáo
chúng. Khi để mặc cho ông Cẩn tàn sát các lực lượng các đảng phái như Đại Việt,
Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Diệm có nghĩ đến việc làm tiêu hao lực lượng chống
Cộng không? Trong vụ binh biến 11-11-1960, ông Diệm hòa hoãn với phe đảo chánh
nhưng khi có viện binh đến thì cho lệnh tấn công tới tấp, huynh đệ tương tàn
làm mất tình đoàn kết quân đội cũng đã xảy ra. Cảnh giết hại lẫn nhau bất kể đến
sự thiệt hại nhân mạng dân chúng hay lính tráng với con số 214 quân nhân, 54
thường dân bị thương và 23 quân nhân, 24 thường dân bị thiệt mạng trong vụ binh
biến 11-11-1960 (36) vẫn còn sờ sờ đấy.
Ông
Diệm tới bước đường cùng, không lựa chọn việc tấn công vào Bộ Tổng Tam Mưu vì
những lý do như:
•
Không biết rõ thực lực phe đảo chánh, ông Diệm nghĩ rằng kế hoạch của ông Nguyễn
Hữu Duệ chưa chắc đem lại sự thành công.
•
Với đầu óc quan liêu, có thể ông Diệm nghĩ rằng ông sẽ điều đình, thuyết phục
nhóm tướng lãnh đảo chánh, nếu không thuyết phục được thì tạm thời chấp nhận
yêu cầu của họ rồi sau này ông sẽ tìm cách trừ khử.
•
Phó mặc số phận như ý chúa và chúa sẽ che chở cho anh em ông.
Đặt
vấn đề: Dù có dẹp được vụ đảo chánh ngày 1-11-1963, với sự thất bại của ông Diệm
cả trong và ngoài nước trong khi tình hình đất nước đầy dẫy những cuộc tấn công
của Việt Cộng, các cuộc đảo chánh khác sẽ xảy ra không nếu ông Diệm không thay
đổi chính sách?
Trang
372, Về cái chết của ông Diệm và ông Nhu “lấy công tâm mà xét, chính là một cái
chết quật cường đối với Thực Dân Mỹ, một cái chết bi tráng đối với quốc dân
trong nước. Tráng vì tay không, không một tấc sắt để giữ mình mà vẫn sẵn sàng
đi tìm phản loạn, vì danh dự của người quốc gia, vì chính nghĩa của bản thân,
không thèm nhờ vả vào sự che chở của ngoại bang.”
Khi
ông Diệm quyết định gặp nhóm tướng lãnh đảo chánh, ông không biết là họ sẽ làm
gì ông và ông Nhu. Vì ông không còn được người Mỹ ủng hộ và đối với quốc dân
trong nước, đặc biệt là thành phần trí thức, cũng lánh xa ông, dù các tướng
lãnh không giết ông Diệm, cơ hội cầm quyền trở lại cũng quá mỏng manh. Tuy
nhiên, có thể nói là nhóm đảo chánh từng thấy chế độ ông Diệm đã hành xử với
các đảng phái và trí thức đối lập trong nước thế nào nên họ giết ông để trừ hậu
họa. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cái chết của ông Diệm, ông Nhu
và ông Cẩn sau này cũng là cái chết của những người cầm quyền trong lịch sử Việt
Nam đầy dẫy những oán thù. Can trường, bất khuất hay không, người đọc lịch sử cần
suy gẫm hai chữ “nhân quả” và tự tìm câu trả lời.
Đặt
vấn đề: Tại sao các tướng lãnh đảo chánh phải giết ông Diệm và ông Nhu? Người Mỹ
có cố tình để nhóm đảo chánh giết ông Diệm không? Là người quốc gia với ý hướng
tranh đấu cho dân tộc, chúng ta có đặt niềm tin vào một thế lực ngoại bang nào
đó mà không đề phòng là có lúc họ sẽ đâm sau lưng chúng ta không?
Phần
III Thời Kỳ Sau Ngô Đình Diệm Từ 11-11-1963 đến 30-04-1975
Những
sự kiện lịch sử được trình bày không có gì mới lạ so với những sử liệu đã có
ngoại trừ những sự xấc láo, ngụy biện và sự kiện sai lạc nên tôi không muốn đặt
vấn đề nữa.
Đôi
điều nhận xét về tác phẩm và tác giả
Viết
khảo luận về lịch sử là để ghi lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra, tìm hiểu
nguyên nhân và rút ra bài học. Dù khó tránh khỏi định kiến khi phê phán, trong
việc biên khảo lịch sử ngoài việc nêu sự kiện chính xác còn phải có chút ít
công tâm khi phán đoán chớ không phải bịa đặt lịch sử để thỏa mãn ý kiến cá
nhân và biện hộ quành xiên cho phe đảng. Những tác phẩm biên khảo có giá trị
đòi hỏi cái nhìn sáng suốt, phóng khoáng và ít nhiều tính vô tư khi nhận định,
đánh giá một cá nhân hay sự kiện.
Quyển
sách Trong Bóng Tối Lịch Sử có quá nhiều sự kiện giả trá, chứng cớ bịa đặt nhằm
để phỉ báng, lời lẽ xấc láo không kể người trên, kẻ dưới nên người viết bài này
dù không muốn chê trách nhưng bất đắc dĩ xin đưa ra đôi lời nhận xét thẳng thắn.
Nội
dung: Qua những trang sách, ngay cả nhân danh, địa danh nhiều người biết như
Bùi Kiến Tín thành Bùi Kiện Tín, Rừng Sát viết thành rừng Sặt chứng tỏ tác giả
có kiến thức lịch sử hạn hẹp nhưng không chịu kiểm chứng tài liệu. Tác giả dẫn
chứng sách vở bao gồm đông, tây, kim cổ để phô trương, so sánh nhưng sự so sánh
quá gượng ép vì không hiểu sự việc đến nơi đến chốn hoặc cố tình gán ghép. Nhiều
sự kiện sai lạc hay cố tình “xào nấu” rồi dùng cách biện minh ấu trĩ để đưa ra
kết luận ẩu tả phù hợp cho sự thóa mạ. Do lòng thù hận và tâm địa hẹp hòi, tác
giả Lê Nguyên Phu đã dựa vào bóng tối lịch sử, cố tình giả mạo chứng cớ không hợp
lý chứng tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra câu chuyện khả
tín.
Hình
thức: Sách có quá nhiều lỗi chánh tả sơ đẳng không phải là lỗi đánh máy mà là
do khả năng tiếng Việt quá kém không phân biệt được dấu hỏi, dấu ngã như: vỏ,
võ; rể, rễ; nể, nễ; nổ, nỗi; rảnh rang, rãnh rang; trải; trãi; lẩn, lẫn; ngu xuẩn,
ngu xuẫn… mà những học sinh chưa xong lớp 9 cũng có thể tránh được. Việc sử dụng
một số từ ngữ lạ tai, được dùng sau năm 1975, dù có thể không sai nhưng đối với
những người từng ngồi ghế nhà trường trước năm 1975 cảm thấy khó nghe như: đi tập
thể (đi chung, trang 41), bồi dưỡng (nghỉ ngơi hay ăn uống? trang 289), đồng
chí (trang 191, trang 270)… Điều tệ hại rõ ràng nhất là sự học đòi theo đám văn
nô miền bắc dùng chữ Người viết hoa khi viết về “Cha già dâm tặc” Hồ Chí Minh.
Ông Phu cũng viết hoa cho ông Diệm làm người đọc có cảm tưởng như quyển sách
này do “cán bộ viết văn” trong đám “Trí Thức Xã Hội Chủ Nghĩa” chế biến. Chỉ trừ
trong Kinh Thánh, chữ Người viết hoa dùng để chỉ Thiên Chúa, còn đụng đâu viết
hoa đó chỉ để làm tăng sự dốt nát, nịnh bợ hèn hạ mà cá nhân tôi nghĩ là viết
hoa chữ Người là để phân biệt là thú vật đội lớp người vì nếu là người thật thì
cần gì phải viết hoa.
Sự
so sánh tầm phào vì hiểu sai chữ nghĩa làm người đọc cảm thấy đáng cười. Ví dụ
như ông Phu đem hình ảnh của các cô gái thích đi chơi rông. ban đêm lái xe
riêng đưa bạn bè đi chơi từ Sài Gòn ra Vũng Tàu gây ra tai nạn trong “khung cảnh
yên bình thời Ngô Đình Diệm” để so sánh với hình ảnh “thân gái dặm trường” của
nàng Kiều mang trong lòng nỗi thê lương, chiếc thân phiêu bạt không biết ngày về
thì Thi hào Nguyễn Du dù có điềm đạm mấy đi nữa cũng phải phê là “dốt quá!”.
Tương tự, “tác giả” dùng chữ “bảng phong thần” để chỉ việc ông Diệm xóa tên ông
Lê Ngọc Chấn ra khỏi nội các. Ông Phu so sánh ông Diệm như là tiên và những người
cộng tác với ông Diệm như thần nhưng “bảng phong thần” là bảng ghi tên những
người đã mất chớ không phải để cho những người còn sống.
Vì
đụng đâu chửi đó, chuyện nọ, xọ chuyện kia nên văn bất thành cú, ý tứ lủng củng,
bố cục luộm thuộm, tạp nhạp làm người đọc khó theo dõi thích hợp với lối “già
hàm” chửi bậy chứ không phải là cách luận tội của những kẻ có học.
Lê
Nguyên Phu là ai?
Qua
những điều ông khoe khoang trong sách thì ông sanh trưởng trong gia đình quan lại
thời Pháp thuộc và tốt nghiệp luật khoa. Ông luật sư từng làm Giám Đốc Hiến
Binh, tay chân của ông Diệm nhưng khi mở đầu sách ông lại che dấu là ông “không
quyền cao, chức trọng”. Là một Ủy Viên Chính Phủ, gặp ông Diệm thường xuyên,
ngay cả những Bộ Trưởng đều phải úy kỵ ông thì hỏi quyền nào mới cao chức nào mới
trọng? Đây là thói “đạo đức giả” mà ông hay dùng để phê phán người khác.
Trong
những năm phò tá “chí sĩ” Ngô Đình Diệm, có lẽ công ông khá to tác trong việc củng
cố quyền hành cho anh em ông Diệm. Ông tự xưng là liêm chính nhưng những vụ án
hay những việc làm bậy bạ của nhóm tướng lãnh không rõ là ông có giải quyết thế
nào? Sau 1963, khi không còn nắm quyền nữa, ông “luật sư” đi biện hộ cho tụi
lưu manh du đãng thời ông Nguyễn Cao Kỳ mà không ai muốn dính vào. Nhờ sự quen
biết với các luật sư và ông toà Chánh Thẩm Đại Tá Hoàng Văn Tỷ, ông thành công
và tự hào với việc ông làm là “riêng tôi có niềm an ủi vô biên, vì nhờ bản án
hy hữu này, các tòng phạm đã lãnh án tử hình tuần trước không bị đem ra pháp
trường thọ hình” (trang 397) Trong một đất nước mà những người lính đêm ngày đối
diện với tử thần trước họng súng Việt Cộng, đám du đãng có tội rõ ráng này có
nên đem bắn bỏ không? Và cái loại luật sư biện hộ cho du đãng này có khác gì loại
bọ hung góp phần phá nát xã hội miền Nam trong bối cảnh chiến tranh.
Ông
Phu là kẻ ghen tài, tâm địa hẹp hòi để lộ qua việc ông dài dòng bới móc việc học
hành của nhiều người như Trương Tử Anh, Huỳnh Văn Lang, Phan Quang Đán …nhằm để
châm biếm, khi dễ là những người này ít học, thiếu khả năng. Ngay cả việc ông
Trịnh Xuân Ngạn đậu bằng tiến sĩ kinh tế với luận án được sửa chữa ông cũng
mang ra, dù điều này không có gì đáng phải thắc mắc vì nếu sửa chữa đúng thì
đâu có gì sai trái. Ông Phu chế nhạo ông Phùng Bá Tú là “không biết có mang
súng vào trường thi? ” (trang 396).
Là
con nhà Nho nhưng ông coi những người theo đòi “cửa Khổng, sân Trình” để học ít
“chữ nghĩa thánh hiền” là thứ cỏ rác mà chỉ có những người nổi tiếng như “thất
thập nhị hiền” (72 đồ đệ của Khổng Tử) mới trọng (trang 397) dù rằng đa số những
ông Tàu này cũng “chỉ có tiếng mà không có miếng”. Với lối suy nghĩ phản Nho học
này, ông Phu không hiểu dược “danh lợi chỉ là phù vân” trong tinh thần Khổng Mạnh
mà chính ông đã dùng để khinh bỉ người khác là “Nho học bất đạt, Tây học nan
thông ”. Cái thói hám danh này nằm sâu trong đầu ông Phu nên ông quen theo thói
“mục hạ vô nhân” chửi bới, khinh khi, chê bai thích chí. Kẻ ít học, ông cho
là“dốt nát”, “ngu xuẫn [xuẩn] ” người có bằng cấp thì ông phê là “không trong sạch”,
“gian xảo”, “quỷ quyệt”, “khéo lường gạt”, …Người ông không ưa là “ruồi nhặng”,
kẻ ông thù ghét là “hung thần ác sát”….
Là
kẻ không những thích khoe khoang hợm hĩnh, ông còn ưa được nịnh bợ qua việc ông
“nhà báo lão thành Trần Tấn Quốc trên tờ báo Tiếng Dội” khen là “Từ hơn ba mươi
năm nay (nghĩa là từ thời Pháp thuộc cho tới bây giờ) chưa có một lời buộc tội
nhân hậu và khoan hòa, như lời buộc tội của tôi, khiến nghười nghe phải cảm xúc
kính nễ [nể] ” (trang 195). Báo chí thời ông Diệm là cái loa của chế độ mà! Vụ
án liên can đến binh biến 11-11-1960 được xử vào ngày 8-7-1963, Tòa Án Quân Sự
Đặc Biệt tuyên 13 án tù khổ sai dành cho quân nhân, ngày 11-7-1963, 20 án cấm cố
cho các nhân sĩ và ngày 12-7-1963 tử hình khiếm diện 9 người (37) mà ông Phu
cho là: “Ngoài những bản án tử hình khuyết tịch… những cái án khổ sai, cấm cố
hoặc ở tù thường, nhưng đều rất nhẹ” (trang 195). Án khổ sai, cấm cố mà nhẹ à?
Thật là may mắn cho những người oan ức không bị loại “chuyên môn làm Thẩm Phán
” nhưng không có công tâm này xét xử.
Thay lời kết
Trong
môi trường sách vở Việt ngữ bát nháo hiện nay, sách vở lịch sử nghiêm túc thật
khó đoán. Ở trong nước, loại “sử phi sử” không còn mức độ khả tín nào vì chứa đầy
sự láo koét, nịnh bợ và gian dối nhằm biện hộ cho việc làm tay sai cho Cộng Sản
Quốc Tế và che dấu những hành động phi nhân, bán nước, phản dân tộc để tiếp tục
đè đầu cưỡi cổ dân chúng. Ở hải ngoại, nhiều người viết khảo luận, hồi ký lịch
sử nhằm khoe khoang, chạy tội hay bênh vực lỗi lầm trong quá khứ cho cá nhân hoặc
phe phái cũng đã cố tình dấu giếm và giả mạo lịch sử. Vì vậy, đối với những người
không nghiên cứu lịch sử, lâu lâu mới đụng đến một quyển sách như cá nhân tôi,
tài liệu lịch sử khả tín trở nên “vàng thau lẫn lộn” thật không biết đâu mà gạn
lọc.
Qua
việc đối chiếu với một ít tài liệu, nhận xét cách biện minh và những sự kiện được
trình bày, quyển sách này làm lộ rõ những khuyết điểm và lỗi lầm quá lớn của
chính phủ ông Diệm hơn là bênh vực cho chính phủ này. Để bênh vực cho chính phủ
ông Diệm, người viết lịch sử cần đưa ra những sự kiện chính xác, chấp nhận lỗi
lầm và không bịa đặt và biết đẵt sự kiện vào bối cảnh chiến tranh để biện minh
cho hành động của chính phủ ông Diệm với cái nhìn sáng suốt, sắc sảo chớ không
phải là lối chửi rủa.
Trong
Bóng Tối Lịch Sử của ông Mai Thạch Lê Nguyên Phu là kết tinh của sự dồn nén, uất
ức qua bao năm bị thất sủng được phát tiết ra thành cái “quái thai khảo luận”
do tính khí ti tiện, đầu óc hẹp hòi bệnh hoạn, tự tôn nhưng kiến thức quá nông
cạn. Vì khinh thường độc giả nên ông cầm nhầm chữ nghĩa, lộng ngôn và bẻ cong sự
thật. Với kiểu xuyên tạc trắng trợn, ông Phu vô tình hay hữu ý tiếp tay với Việt
Cộng trong việc phá rối và gây nghi kỵ, mâu thuẫn giữa những người Việt trong mục
đích chống phá sự đoàn kết của những người còn nặng lòng với đất nước.
Tương
lai, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có em tìm hiểu về lịch sử đất nước thời ông Diệm. Vớ
phải cuốn sách này, chúng sẽ chỉ thấy những sự kiện giả trá, biện luận nhảm
nhí, lời lẽ bất nhã, ngôn ngữ bẩn thỉu thô tục, kiến thức ráp nối kiểu “đầu gà,
đít vịt”, chúng sẽ nghĩ thế nào về khả năng và tư cách của người Việt cầm bút.
Chúng có đặt câu hỏi là những “ông lớn” của chính phủ Ngô Đình Diệm có khả năng
và tài đức như người viết quyển sách Trong Bóng Tối Lịch Sử thì chúng có ngạc
nhiên là tại sao chế độ ấy chẳng sụp đổ sớm hơn trước áp lực của khối Cộng Sản
không?
Tóm
lại, quyển sách này chỉ là một thứ ngụy thư rác rưởi, một tuyển tập từ ngữ dùng
để rủa sả và cãi vặt chứ không phải là sách. Dù không thích loại thơ thất ngôn
bát cú lắm nhưng nhớ đến bài “Ông Vỗ Ngực” của một tác giả vô danh nào đó (38),
người viết bài này xin hoạ lại như là lời tổng luận về tác giả và tác phẩm.
Cháu
“Ông Vỗ Ngực”
Thất
sủng bao năm chợt ngứa nghề
Bày
trò khảo luận để khen chê
Khuông
phò chí sĩ, công to tát?
Biện
hộ lưu manh, tội nặng nề!
Lịch
sử, thối tha như rác rưởi ;
Văn
chương, khét lẹt tựa cơm khê.
Hỏi
ông chứng cớ từ đâu vậy?
Chức
Thẩm ông trưng để chực lòe!
Nhân
đây, người viết xin ghi đôi dòng nhớ về con dân đất Việt đã hiến thân vì tổ quốc.
Trong những năm bị giặc Tàu đô hộ, những người Việt đứng lên giành độc lập từng
bị những kẻ dựa thế giặc Minh như Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân… tàn
sát và gọi là “loạn tặc”. Nhiều người Việt từng đứng lên chống thực dân Pháp bị
những kẻ như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân… thủ tiêu còn bị kết tội “phỉ đồ”. Lớp
thanh niên thế hệ 1945 đã xếp bút nghiên lên đường theo kháng chiến, sau khi bị
Việt Cộng lợi dụng còn bị kết them tội “Việt Gian”. Những thanh niên hy sinh tuổi
thanh xuân, từ bắc vô nam đi “Giải Phóng Miền Nam” vì bị “Đảng và Nhà Nước” lừa
phỉnh trong nhiệm vụ làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế dám nói lên sự thật đã bị
kết them tội “ôm chân đế quốc”. Ngày nay, người dân trong nước dám nói lên việc
Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam bán đứng tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp của
dân Việt, phải vào tù ra khám với tội danh “chống phá Nhà Nước”. Và sau hết,
xin đốt nén hương lòng cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh xương
máu, chiến đấu cô đơn trong cam go để cho những kẻ ăn trên ngồi trốc được sống
yên thân gọi họ là “hèn nhát”, “nô tài của Mỹ”…
Mong
anh linh những người đã khuất hãy tha thứ cho những kẻ ngu xuẩn, vô ơn đã bôi
nhọ họ.
Houston,
Texas 01/2010
©
2010-2015 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
(31)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 22.
(32)
Lê Xuân Khoa, Sđd, trang 417.
(33)
Xem bài trả lời của ông Chính Đạo trả lời ông Nguyễn Vĩnh Châu
http://www.chuyenluan.net/2004/200404/0404_20.htm
(34)
Vĩnh Phúc, Sđd, trang 331-352.
(35)
Nguyễn Văn Lục, Lịch Sử Còn Đó, Tân Văn xuất bản, Hoa Kỳ, 2008, trang 244-293.
(36)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 283
(37)
Đoàn Thêm, Sđd, trang 354.
(38)
Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn 1959,
trang 28.
Ông
“Vỗ Ngực”
Học
thuật văn chương chửa sạch nghề
Tập
tòe lên lớp cũng khen chê
Giáo
điều khó nuốt lên thơ bạo
Lý
luận không tiêu kéo nặng nề
Tình
cảm khó khăn như củi gộc
Phê
bình nồng nặc tựa cơm khê
Anh
em vặn lại cùng kỳ lý
Vỗ
ngực, ông giơ Đảng chực loè!
Comments
Post a Comment