Vụ
án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông năm 1931
BÙI
QUANG MINH
Câu
chuyện lịch sử năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Anh bắt tại Hồng Kông, định
dẫn độ cho nhà cầm quyền Pháp để lấy tiền, nhưng sau đó đã bị thất bại thảm hại
trước sự giúp đỡ vô tư đầy lòng nhân ái của bạn bè quốc tế. Xin đăng tải một số
thông tin về việc bắt giữ, việc xét xử và bào chữa cho Nguyễn Ái Quốc để thấy
được công lao của gia đình vị ân nhân - luật sư Loseby, cộng sự của ông đối với
một người nước ngoài không quen biết, không tiền để trả thù lao và việc xét xử
tại tòa của thực dân Anh 80 năm trước...
Mùa
xuân năm 1930, sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị thống nhất các
tổ chức Đảng tại Cửu Long, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đi Xiêm, Malaysia,
Singapore rồi quay lại Thượng Hải hoạt động cách mạng. Ông ở tại ngôi nhà 186
phố Tam Lung, Cửu Long - Hương Cảng, và nơi đó trở thành trụ sở liên lạc bí mật
giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí khác.
Ngày
30/4/1931, mật thám Pháp tại Sài Gòn bắt được một số người "tình nghi cộng
sản" trong đó có Nguyễn Thái, sau này được biết là "Thư ký Công hội
Nam kỳ", Xứ ủy viên. Khám trong người Thái, chúng bắt được thư của Nguyễn
Ái Quốc viết ngày 24/4/1931. Tiếp đó, mật thám Anh tại Singapore đã bắt được
Serge Lefranc, phái viên Quốc tế Cộng sản đi công tác Đông Nam Á. Trong giấy tờ
của Serge Lefranc có địa chỉ "186 Tam Lung - Hongkong". Mật thám Pháp
ở Đông Dương và mật thám Anh ở Hồng Kông đã mặc cả những điều kiện có lợi cho cả
hai bên để vây ráp, bắt lén Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ ở địa chỉ trên ngày
6/6/1931. Lúc đó, chúng chưa nắm chắc đó là ai và chỉ biết theo logic đó phải
là người quan trọng chống lại nước Pháp. Nếu bắt được Nguyễn Ái Quốc thì Pháp sẽ
cử tàu Angiê sang áp giải ông Nguyễn về Đông Dương, nơi một án tử hình vắng mặt
ông của toà Đại hình Vinh theo phán quyết số 115 (10-10-1929).
Thường
lệ, ở HongKong nếu có việc bắt bớ thì báo chí sẽ "săn" tin và đưa
ngay lên báo. Nhưng chính quyền HongKong trong lần bắt này đã cấm phương tiện
thông tin báo chí đưa tin. Cảnh sát Anh sau khi đưa ảnh đối chiếu, đã điện cho
Toàn quyền Đông Dương biết "Một người mang tên Tống Văn Sơ - chắc là Nguyễn
Ái Quốc đã bị bắt sáng ngày 6/6".
Tống
Văn Sơ được giam tại nhà tù ở Victoria, thủ phủ của Hồng Kông. Nhà giam có ba tầng,
mỗi tầng hai dãy xà lim... bề cao ba thước tây, bề ngang chỉ hơn một thước, bề
dọc không đầy hai thước... chỉ vừa một người nằm xiên xiên. Cao chót vót trên đầu
tường chỉ có một cửa sổ nhỏ hình nửa mặt trăng, xung quanh bịt song sắt và lưới
sắt bưng bít. Cửa xà lim bằng ván gồ dày độ một gang tay và bọc sắt. Trong ngày
bị bắt đưa vào Sở cảnh sát, Tống Văn Sơ đã gặp Hồ Tùng Mậu vừa từ tù bước ra,
được thả và trục xuất và đã kịp đưa mắt ra hiệu. Nhờ ngày đó, Hồ Tùng Mậu, qua
Liên đoàn Quốc tế Cứu tế đỏ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản đã đến gặp luật
sư Loseby (Francis Henry Loseby) - một luật sư tiến bộ người Anh ở Hồng Kông nhờ
giúp đỡ. Việc bắt lén người trái pháp luật đã bị bại lộ, Sở cảnh sát HongKong
buộc phải đồng ý để luật sư vào gặp Tống Văn Sơ (24-6-1931). Luật sư đã tìm
cách bào chữa và ngăn cản âm mưu của chính quyền Hồng Kông giao nộp Nguyễn Ái
Quốc cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương.
Ông
Loseby chưa quen biết Tống Văn Sơ nhưng với lương tâm nghề nghiệp, ông tự coi
mình có nghĩa vụ bảo vệ người Cách mạng Đông Dương này. Do kiên trì đề nghị nhiều
lần, luật sư mới gặp được và hỏi chuyện Tống Văn Sơ ở nhà lao. Sau khi tiếp xúc
và trả lời những câu hỏi liên quan đến vụ án mà luật sư nêu ra, người tù Tống
Văn Sơ cảm ơn sự quan tâm của luật sư đối với mình, và tỏ ý băn khoăn vì không
có tiền để trả công cho ông. Trước một người thanh niên Việt Nam gầy, xanh,
song vẻ cương nghị, sự thông minh trong từng câu nói bằng tiếng Anh và đôi mắt
sáng đã làm luật sư xúc động. Luật sư chân tình nói: "Tôi nhận giúp vì
danh dự chứ không phải vì tiền". Luật sư nói: "Tôi sẽ ra sức cứu giúp,
mong người tù hãy tin tưởng và hãy nói, cung cấp cho luật sư những điều gì có
thể giúp trong việc bênh vực…và rằng ông biết mỗi người cách mạng đều có bí mật
riêng của họ, nên đã không muốn hỏi thêm nhiều nữa…"
Khi
hỏi những điều cần thiết tối thiểu để lập hồ sơ đưa vụ này ra Tòa án, Loseby
cùng Tống Văn Sơ hình dung được mưu đồ và tính toán của mật thám Anh – Pháp. Sở
dĩ, chúng bắt khẩn cấp Tống Văn Sơ không có lệnh vì theo như chúng dự tính thì
không cần giấy phép bởi nếu để lại bằng chứng trên giấy tờ sẽ không có lợi cho
chúng sau này. Nếu đưa được Tống Văn Sơ xuống tàu dẫn về Đông Dương thì mọi
chuyện sẽ giữ được bí mật, dù cho luật sư hay ai tìm cách cứu cũng đã muộn,
không thể xoay chuyển được nữa.
Luật
sư Lô-dơ-bi, ảnh chụp năm 1957
Trở
về, Loseby bàn bạc kỹ với người phó của mình - luật sư J.C. Jenkin, người cộng
sự thay mặt ông bào chữa trước toà cho Tống Văn Sơ và kể chuyện về người bị
giam giữ cho vợ của mình nghe. Bà vợ luật sư mua quà, thuốc men trực tiếp vào
trong ngục thăm Tống Văn Sơ. Những lần sau đó, qua sự giới thiệu của bà vợ luật
sư, có nhiều người khác nữa cũng đã đến thăm Tống Văn Sơ, trong số họ có cả bà
Stella Benson vợ phó Thống đốc Hồng Kông. Và thật lạ lùng, sau mỗi lần gặp Tống
Văn Sơ, sự quý mến, khâm phục của mỗi người dành cho người thanh niên Việt Nam
lại tăng lên rất nhiều.
Âm
mưu bị bại lộ, uy tín của chính quyền Anh ở Hương Cảng sẽ bị tổn thương. Chính
bởi thế, chính quyền Hương Cảng một mặt cố ngăn chặn không cho luật sư Loseby
tiếp cận sớm với Tống Văn Sơ, mặt khác, họ gấp rút hợp pháp hóa việc bắt ông Tống
bằng cách ký lệnh bắt Tống Văn Sơ vào ngày 11/6 (năm ngày sau khi bị tống vào
tù) và ngày 12/6 coi như bắt chính thức Tống Văn Sơ.
Thời
gian Tống Văn Sơ bị giam giữ cũng đồng thời là khoảng thời gian nước rút của cuộc
đua giữa một bên là gia đình luật sư và những người bảo vệ Tống Văn Sơ, một bên
khác là sự cấu kết, có điều kiện của mật thám Anh và mật thám Pháp muốn hãm hại
Tống Văn Sơ nhưng đã bị đẩy vào thế bị động. Theo luật nước Anh, sau khi bắt
người trong 14 ngày phải đem xử án, nếu không, phải trả tự do cho họ. Nhưng
chính quyền HongKong đã giam ông quá hạn rồi nhiều lần ký lệnh giam thêm. Dưới
sức ép của dư luận, của những phương tiện thông tin báo chí, luật sư Loseby đã
đưa vụ án Tống Văn Sơ ra xử công khai trước Pháp viện tối cao. Lần đầu tiên
trong lịch sử thuộc địa, Toà án tối cao phải xét xử một bản án chính trị. Tính
chất đặc biệt của vụ án, sự giúp đỡ cùng tài trí của luật sư và người cộng sự,
sự thông minh và nhất quán trong từng câu trả lời của Tống Văn Sơ đã buộc toà
án phải xét xử một cách công khai.
Tống
Văn Sơ phải trải qua ba cuộc thẩm vấn của Thư ký Trung Hoa vụ Hồng Kông và 9
phiên toà xét xử tại Hồng Kông (ngày 31/7/1931 là phiên thứ nhất, diễn ra trong
không khí căng thẳng, quyết liệt và phiên cuối cùng kết thúc vào ngày
19/9/1931). Trong các phiên tòa, ngoài các chánh án, phó chánh án, công tố
viên, luật sư bào chữa còn có đại diện báo chí, dân chúng ít được đến dự. Họ
cho đây là một vụ án "quan trọng nhất từ xưa đến nay chưa từng có ở Hồng
Kông". Các báo chí Anh ở Hồng Kông không bị kiểm duyệt nên nhiều tờ như tờ
"Bưu điện Hoa Nam buổi sáng", "Buổi sáng HongKong",
"Bưu điện HongKong"... đã đăng bài tường thuật các phiên tòa xét xử rất
chi tiết, đòi bảo vệ công lý, đòi thi hành đúng pháp luật.
Báo
L’Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, ra ngày 19/6/1931 đăng tin về việc
nhà cầm quyền Anh bắt nhà cách mạng An Nam Nguyễn Ái Quốc (ở đây, báo
L’Humanité có sự nhầm lẫn là bắt Nguyễn Ái Quốc tại Thượng Hải)
Tham
gia tranh tụng tại phiên tòa có luật sư J.C Jenkin và luật sư Loseby. Vì trước
Tòa, chỉ có một luật sư được phát biểu ý kiến nên luật sư Loseby đã chuẩn bị sẵn
bài cãi rồi ủy nhiệm cho luật sư Jenkin phát biểu.
Luật
sư Jenkin là một trí thức rất thông minh và hùng biện, đồng thời đã hết lòng
bào chữa cho Tống Văn Sơ.
Trong
phiên tòa thứ nhất mở ngày 31/7/1931, chính quyền Hương Cảng đã không đưa ông Tống
ra Tòa. Sau vài thủ tục đơn giản, chánh án đã luận tội: "Tống Văn Sơ là
tay sai của Liên Xô, phái viên của Đệ tam Quốc tế, đến HongKong định phá hoại
chính quyền ở đây. Vì lẽ đó, sẽ bị trục xuất khỏi HongKong vào ngày 18 tháng 8
do chiếc tàu thủy Angiê của Pháp chở về Đông Dương".
Luật
sư Loseby chỉ thị cho luật sư Jenkin phản đối và đòi hỏi Tòa phải đưa Tống Văn
Sơ ra trước Tòa.
Đến
buổi thứ hai, chính quyền buộc phải đưa ông Tống ra hiện diện tại Tòa nhưng hai
tay lại bị xích.
Thấy
bị cáo vào phòng xử án trong tư thế như vậy, luật sư Loseby rất tức giận nhưng
vì không được quyền nói nên ông liếc nhìn sang luật sư Jekin ra hiệu.
Vốn
thông minh, nhanh nhạy, luật sư Jenkin liền đứng ngay dậy chỉ vào đôi tay của
ông Tống đang bị xích rồi hướng về phía quan tòa, giọng rất gắt gao rằng:
"Khi bị cáo ra tòa là đứng trước công lý, thân thể phải hoàn toàn tự do.
Nay chưa biết bị cáo can vào tội gì, tại sao chính quyền lại đã dùng đến nhục
hình xích tay trong phòng xử án!"
Ông
nói rất mạnh mẽ, đanh thép, trong khi đó, Tống Văn Sơ đứng trước vành móng ngựa
giơ cao hai tay trước mặt quan tòa, lắc mạnh. Tiếng xích kêu loảng xoảng hòa
cùng lời lẽ hùng biện của luật sư tạo nên một bầu không khí náo động trong
phòng xử án. Mọi người ồn lên "sai, sai, cởi trói, cởi trói ngay..."
Quan tòa đuối lý, sượng sùng, xin lỗi và ra lệnh đưa bị cáo ra ngoài để tháo
xích ra.
Sau
đó, luật sư Jekin tiếp tục hùng biện cho đến khi ông Tống trở lại vành móng ngựa,
hai tay tự do, lúc đó luật sư mới ngồi xuống.
Jenkin
mạnh mẽ tố cáo chính quyền Hồng Kông đã vi phạm luật pháp trong việc bắt trái
phép Tống Văn Sơ ngày 6/6/1931. Tòa nhận làm như thế là sai và bào chữa là sau
đó đã có lệnh bắt rồi.
Jenkin
lại nói: Lệnh bắt giam lần thứ 2 cũng sai sót. Vì lệnh bắt là thi hành đối với
người đang tự do. Nhưng lệnh bắt Tống Văn Sơ lại thi hành khi Tống Văn Sơ đang
ngồi nhà tù. Không ai lại bắt một người đang ở trong trạng thái mất tự do!
Quan
tòa đành chấp nhận, cử tọa vỗ tay hoan hô luật sư!
"Điều
sai thứ ba là chính quyền đã giam trái phép Tống Văn Sơ. Luật chỉ cho phép giam
giữ 14 ngày nếu không luận được tội, phải thả người bị bắt. Như vậy, theo luật,
Tống Văn Sơ phải được trả tự do từ ngày 2/7, mà hôm nay đã là 1/8, vẫn còn
trong nhà tù..."
Tiếng
hoan hô lại vang lên!
Ông
Jekin yêu cầu:
-
Thưa ngài Alabaster, đại diện chính quyền HongKong, ngày có công nhận như vậy
không?
Alabaster,
trả lời:
-
Tôi không thể công nhận điều gì khi chưa có chỉ thị. Xin ngài đừng truy ép
tôi...
Chánh
án Joseph Kemp lên tiếng:
-
Không ai phủ nhận điều đó. Tống Văn Sơ đã thề rằng mình bị bắt ngày 6/6, chúng
ta kết luận là Tống bị bắt ngày 6. Còn ngày 12, theo Tống không có việc bị bắt
lại.
Phó
chánh án Lindsell nói tiếp:
-
Tôi thấy cần nói rõ là đã có một hành động gọi là bắt vào ngày 12 trong khi Tống
đang bị giam.
Luật
sư Jenkin kết luận:
-
Tôi quả quyết rằng, đương sự Tống Văn Sơ, khách hàng của chúng tôi, từ ngày 6/6
đến ngày 12/6 đã bị bắt giam giữ một cách trái phép, bất hợp pháp. Việc đó đã
quá rõ. Hơn nữa đương sự lại không được tiếp xúc với thẩm phán. Không còn nghi
ngờ gì nữa, việc giam giữ Tống Văn Sơ là sai trái, là sai pháp luật của nước
Anh. Chính quyền địa phương còn phạm luật trong việc khám xét nhà của Tống Văn
Sơ vì vu cho Tống là tàng trữ "sách phản loạn".
Mà,
không phải sách báo phản loạn sao lại có thể bắt giam chủ nhân của nó là Tống
Văn Sơ vào tù?
Bị
dồn ép, Tòa án rung chuông tuyên bố nghỉ. Hôm sau, cả HongKong và thế giới được
thông tin về vụ xử án "ly kỳ" này qua các báo chí. Báo bán rất chạy.
Phiên
tòa thứ hai, dường như cảm thấy quá đuối lý, quan tòa liền xoay chuyển tình
hình bằng cách cho rằng việc bắt, giam Tống Văn Sơ chỉ là sai sót về thủ tục
pháp lý, còn bản thân Tống Văn Sơ trong lời cung khai đã tự nhận mình là Nguyễn
Ái Quốc, tức là lãnh tụ cộng sản An Nam.
Bằng
chứng là bản cung khai do một người Anh lão luyện, đầy kinh nghiệm tố tụng là
William Thomson, Phó Bí thư Hoa vụ hỏi cung Tống Văn Sơ ngày 14/7/1931. Ở dưới
bản cung có ký tên tuyên thệ của W.Thomson. Chánh án đã trưng ra trước tòa bản
cung khai này, nguyên văn:
“
– Hỏi: (bằng tiếng Anh) Tên là gì?
-
Đáp: Tống Văn Sơ (tên khác là Lý Thụy, tên khác nữa là Nguyễn Ái Quốc).
-
Hỏi: Bao nhiêu tuổi?
-
Đáp: Ba mươi sáu tuổi.
-
Hỏi: Sinh quán ở đâu?
-
Đáp: ở thị trấn Đông Hưng - Liêm Châu - Quảng Đông - Trung Quốc.
-
Hỏi: Người ta bảo rằng anh là một người cộng sản đang tuyên truyền cộng sản, có
thành tích bất hảo. Sự có mặt của anh ở Hồng Kông là một nguy hiểm cho an ninh
trật tự. Anh có muốn nói gì để khỏi bị trục xuất không?
-
Đáp: Tôi phủ nhận lời buộc tội đó. Tôi không phải là một người cộng sản, nhưng
tôi theo chủ nghĩa dân tộc, để xóa bỏ chế độ áp bức của Pháp. Chúng tôi có ba
phái: Phái thân Nhật, phái thân Đức, phái muốn trông cậy vào nước Anh.... Tôi
không hiểu vì sao tôi bị bắt. Tôi có ở Pháp vào những năm 1920-1923, có lẽ cả
năm 1924. Tôi không nhận cái biệt danh Nguyễn Ái Quốc (Đông Dương). Tôi có thuê
nhà 186 Tam Lung của một người tên là Vương, ông này đã rời Hồng Kông vào tháng
4. Tôi đến ở và trả tiền thuê nhà. Ông Vương là nhà buôn, không phải là nhà
cách mạng... Tôi có ở Thượng Hải, cách đây nhiều năm rồi.
-
Hỏi: Anh ở Hồng Kông từ bao lâu ?
-
Đáp: Độ bảy tháng
-
Hỏi: Có quen ai ở đây không?
-
Đáp: Không.
-
Hỏi: Anh có gì làm chứng?
-
Đáp: Không.
Rõ
ràng, theo bản cung trên thì Tống Văn Sơ đã tự nhận mình là Lý Thụy, Nguyễn Ái
Quốc – mục đích cuối cùng của thực dân Pháp – Anh.
Ngay
lập tức, Jenkin lên tiếng đọc tờ khiếu nai của Tống Văn Sơ rồi vạch trần chi tiết
những sai phạm trong việc hỏi cung và nghiêm trọng hơn, chính quyền đã làm giả
bản hỏi cung. Cụ thể, trước tiên, đối chiếu với luật pháp Anh quốc lúc đó, nhà
chức trách sau khi bắt một người nào đó phải tiến hành hỏi cung ngay sau 24 giờ,
nếu sau ngày bắt là ngày Chủ nhật hoặc ngày lễ, thì việc hỏi cung phải được bắt
đầu ngay sau ngày Chủ nhật hay ngày lễ đó.
Nhân
viên hỏi cung chỉ được quyền hỏi 7 câu hỏi in sẵn trên một tờ giấy, tuyệt đối
không được hỏi ra ngoài phạm vi 7 câu hỏi gồm: Tên, tuổi, sinh quán, nghề nghiệp,
thời gian cư trú, quan hệ xã hội, người và vật làm chứng. Nếu lời khai chưa rõ,
người hỏi cung có thể đặt thêm một số câu hỏi nhưng tuyệt nhiên phải nằm trong
nội dung 7 câu hỏi trên.
Ông
Jenkin nói:
-
Việc hỏi thêm ngoài 7 câu hỏi có sẵn thực chất là cuộc thẩm vấn thứ 2. Điều đó
chứng tỏ rằng việc lấy cung, làm thủ tục cung đều trái luật...
Như
vậy, trong trường hợp hỏi cung Tống Văn Sơ, nhà chức trách đã vi phạm về thời
gian, nội dung và cuối cùng là thay bằng một bản cung giả. Cụ thể, cho mãi tới
ngày 14/7, tức là 1 tháng 8 ngày, chính quyền mới tiến hành hỏi cung Tống Văn
Sơ và lại đặt quá nhiều câu hỏi không nằm trong phạm vi 7 câu hỏi như luật pháp
Anh quốc quy định.
Song
điều quan trọng nhất là chính quyền đã đưa ra một bản cung giả trong đó gán
ghép cho Tống Văn Sơ tự nhận mình là Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc. Bằng chứng là lá
đơn tố cáo của Tống Văn Sơ nêu rõ rằng, bản cung mà ông Tống khai là do ông viết
trực tiếp khi trả lời, còn bản cung giả thì lại được đánh máy lại và ghi thêm
là ông Tống đã nhận rồi.
Tòa
án đành nhận lỗi và lại rung chuông nghỉ.
Hôm
sau, người ta đọc được trên báo những tin mới về vụ xử án. Tờ "Bưu điện
Hoa Nam buổi sáng" cho biết "Tống Văn Sơ không công nhận lời ghi có
tuyên thệ của Trợ lý thư ký Trung Hoa vụ Thomson. Lời ghi đó buộc được hiểu là
một cuộc thẩm vấn và Tống Văn Sơ đã bị thẩm vấn ba lần. Tống Văn Sơ khiếu nại rằng
viên chức thẩm vấn đã vượt quá quyền hạn của mình để hỏi những câu pháp luật
không yêu cầu".
Những
phiên tòa tiếp sau, Jenkin lại đưa ra những hành vi trái phép của nhà chức
trách Hồng Kông và nói rõ không thể kết án Tống Văn Sơ vào bất cứ tội gì.
"Thứ nhất: tuyệt đối không có gì chứng tỏ rằng Tống Văn Sơ là tay sai của
Liên Xô. Thứ hai: Không có chứng cớ Tống Văn Sơ muốn phá hoại Hồng Kông. Thứ
ba: cộng sản hay quốc gia, điều đó không phải là một tội lỗi trước luật pháp
Anh".
Bất
chấp tất cả, chính quyền Hồng Kông vẫn chưa cam chịu thất bại.
Mở
phiên tòa thứ 3 vào ngày 15/8/1931, Chưởng lý tòa tuyên bố:
-
Nếu Tòa án chưa giải quyết được vấn đề đã nêu, thì có thể không cho tàu Angiê
đón Tống Văn Sơ mà giao cho tàu "Tướng Métdanhgiê" để rời Hồng Kông
vào ngày 1/9.
Luật
sư Jenkin yêu cầu ghi vào biên bản:
-
Nếu việc xét xử không hoàn thành, thì dù kết quả thế nào chăng nữa, Tống Văn Sơ
cũng không bị không bị trục xuất trước khi tàu "Tướng Métdanhgiê" nhổ
neo vào ngày 1 tháng 9 hay vào một ngày sau đó.
Tòa
bị bất ngờ, người thì đồng ý, kẻ thì không. Chưa xét xử được gì mà giờ đã hết.
Phải họp tiếp vào buổi chiều.
Vào
phiên buổi chiều, Chưởng lý cho biết lệnh trục xuất Tống Văn Sơ đã được ký và
ông ta đề nghị không họp nữa.
Luật
sư Jenkin cũng tán thành. Nhưng chánh án lại muốn xử cho xong. Ông Jenkin vặn hỏi
về lệnh trục xuất. Chánh án nói:
-
Tôi đã đồng ý với ngài rằng Tống Văn Sơ sẽ không bị trục xuất trước khi tàu
"Tướng Métdanhgiê" rời bến...
Luật
sư đã đấu tranh một cách rất mạnh mẽ, tiếp đó, tùy diễn biến tình hình, lúc thì
cương quyết, lúc uyển chuyển sao cho có thể vô hiệu hóa được lệnh trục xuất
kia. Ông đề nghị phiên tòa tiếp theo sẽ diễn ra vào ngày thứ năm 20/8.
Phiên
tòa ngày 20/8 diễn ra rất căng thẳng. Vào phiên tòa, Chưởng lý tuyên bố là Thống
đốc Hồng Kông đã ban hành lệnh trục xuất Tống Văn Sơ lần thứ hai vào ngày 15/8.
Luật sư Jenkin rất ngạc nhiên hỏi lại Tòa và được biết tin đó là đúng. Luật sư
hiểu ngay rằng trong phiên họp trước, biết rằng Tòa án không xử xong được vụ án
Tống Văn Cơ, nên lệnh trục xuất đầu tiên ký vào ngày 12 tháng 8, đã không còn
giá trị nữa, nên Thống đốc Hồng Kông buộc phải ký lệnh trục xuất lần thứ hai.
Ông
Jenkin tuyên bố:
-
Việc ban hành lệnh trục xuất thứ hai là phi pháp. Lệnh thứ nhất ký ngày 12
tháng 8 chưa được thi hành vì Tòa còn đang xét xử - phiên gần nhất là 17 tháng
8, thì đã có lệnh trục xuất thứ hai ký vào ngày 15, ban hành vào ngày 17, đúng
ngày Tòa còn đang họp. Không thể có hai lệnh trong cùng một thời gian với cùng
một con người, về cùng một sự việc. Chỉ có một cách là Tòa án phải hủy lệnh đó,
nhận đã làm sai. Không ai có thể ra lệnh thứ hai khi lệnh thứ nhất chưa thực sự
bị bãi bỏ. Và dù khi có lệnh thứ hai, thì trước đó Tòa phải ra lệnh hủy lệnh thứ
nhất. Việc này Tòa đã không làm. Và cho dù Tòa án làm được ngay hôm nay thì Hội
đồng Thống đốc cũng không thể ra lệnh thứ hai vì theo luật pháp hiện hành thì
khi một người đang được miễn tố vì bị giam trái phép thì không thể bị bắt lại
vì cùng một nguyên nhân, đây còn là việc lừa dối. Vì ngày 15 tháng 7 là ngày thứ
Bảy. Tôi cam đoan rằng Hội đồng hành chính Hồng Kông không họp vò ngày này, và
nếu có định họp vào giờ khuya sau khi nghỉ ngơi cũng không đủ đa số...
Chưởng
lý bác bỏ ý kiến của luật sư Jenkin và khẳng định là Hội đồng có họp.
Ông
Jenkin thẳng thừng nói:
-
Nếu Hội đồng có họp, tôi yêu cầu Tòa án cho mời Thống đốc Hồng Kông và các
thành viên trong Hội đồng hành chính ra trước Tòa đối chất với luật sư, đồng thời
đem biên bản buổi họp đó ghi ý kiến của mỗi thành viên về việc trục xuất Tống
Văn Sơ.
Đây
là một yêu cầu chính đáng và là quyền của luật sư. Theo luật pháp Anh, khi luật
sư thấy cần phải gọi ai, mời ai ra Tòa để đối chất, Tòa phải đáp ứng yêu cầu ấy.
Khi luật sư đòi hỏi bằng chứng, Tòa phải xuất trình bằng chứng.
Tòa
bị lâm vào tình trạng "tiến thoái lưỡng nan"... Vì thực ra, Hội đồng
hành chính Hồng Kông không họp ngày thứ Bảy, đã không họp thì lấy đâu ra biên bản.
Nay lại phải gọi từ Thống đốc đến các "ngài ủy viên Hội đồng" ra hầu
tòa thì bẽ mặt quá...
Chánh
án bèn tuyên bố tòa tạm nghỉ. Tòa mời luật sư đến để thương lượng. Khi Tòa họp
lại, ông Jenkin tuyên bố không yêu cầu Thống đốc và các Ủy viên ra tòa nữa.
Phiên tòa lại tiếp tục. Tòa vịn vào hai cớ để trục xuất Tống Văn Sơ: Một là, Tống
Văn Sơ tức Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc là cộng sản, là phái viên của Đệ tam quốc
tế, đang hoạt động tuyên truyền nguy hại cho Hồng Kông. Hai là, Nguyễn Ái Quốc
quê ở Đông Dương đã bị kết án tử hình năm 1929, nên chính quyền Đông Dương đã
nhờ chính quyền Hồng Kông bắt giữ và trao trả.
Luật
sư Jenkin nhắc lại những lập luận của ông để bác bỏ lý do thứ nhất.
-
Phải khẳng định rằng không có một tài liệu, cơ sở vững chắc nào để kết luận Tống
Văn Sơ là Nguyễn Ái Quốc, một người cộng sản. Cũng không có bằng chứng nào chứng
minh Tống Văn Sơ là tay sai của Liên Xô cũng như phái viên của quốc tế cộng sản.
Thời
gian cư ngụ tại Hương Cảng, Tống Văn Sơ không hề vi phạm bất kỳ điều gì đối với
quy định của pháp luật Anh quốc. Ngay khi khám xét, lục soát tại số nhà 186 đường
Tam Lung nơi Tống Văn Sơ bị bắt giữ, cảnh sát cũng không hề thu được bất kỳ một
tài liệu có liên quan đến cộng sản hay phản loạn gây nguy hại cho anh ninh
Hương Cảng.
Về
lý do thứ hai, luật sư đã kể ra một câu chuyện như sau:
-
Năm 1858, vua nước Pháp sang thăm nước Anh thì bị mưu sát. Hồi ấy chính phủ
Pháp đã yêu cầu chính phủ Anh trao trả cho Pháp một trong những người can tội
này. Nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Anh bất giờ là Clarandon đã từ chối, với lý lẽ
rằng "hoàn toàn không có một lý do gì buộc Nghị viện Anh phải thông qua
quyết định trao trả phạm nhân cho nước ngoài về một vụ án chính trị". Năm
1914, nước Anh có thi hành luật trao trả, trục xuất ngoại kiều vì can án chính
trị nếu thấy cần thiết và chỉ thực hiện trong thời gian chiến tranh. Năm 1918,
khi đại chiến thế giới kết thúc, luật ấy không còn được thi hành và trở lại với
điều luật năm 1905. Hơn nữa, luật trục xuất năm 1914 chỉ thi hành ở chính quốc,
chứ không thi hành ở các thuộc địa, nhượng địa như Hồng Kông. Về mặt bảo đảm an
ninh, năm 1912, có luật cho phép trục xuất những ngoại kiều có "thành tích
bất hảo". Nhưng khách hàng của tôi, ông Tống Văn Sơ không hề vi phạm một
điều gì về trật tự an ninh ở Hồng Kông. Vậy thì chính quyền Hồng Kông không thể
trục xuất ông Tống được.
Luật
sư kết luận:
-
Không thể trục xuất một ngoại kiều không vi phạm trật tự an ninh, dù người ấy
có trốn khỏi chính quốc của họ về một vụ án có tính chất chính trị...
Chưa
trả lời được, Tòa án đành... bế mạc!
Những
âm mưu thâm độc của thực dân Pháp - Anh bước đầu đã bị các luật sư vạch trần,
song chính quyền Pháp và Hương Cảng vẫn giữ chặt hai lý do để trục xuất Tống
Văn Sơ.
Trong
phiên tòa tiếp theo ngày 25/8, luật sư Jenkin đã phát biểu dài về vấn đề
"chính trị phạm" có nghĩa là phạm nhân đã từng hoạt động trong một
phong trào chung, vì mục đích chung phải lánh nạn sang một nước khác. Đó là trường
hợp của Tống Văn Sơ. Tống Văn Sơ đã tham gia phong trào cách mạng vì cả dân tộc,
do đó không "nằm trong diện bị trục xuất đã nêu ra trong các điều luật. Nếu
trục xuất chính trị phạm như luật pháp của một nước nào đó - không phải là nước
Anh - đó là một hành động "xấu xa và bẩn thỉu".
Luật
pháp rõ ràng. Bị cáo cũng đã tố cáo việc những người nhân danh luật pháp làm
sai pháp luật. Luật sư cũng đã nêu rõ việc làm sai luật của chưởng lý, ủy viên
công tố, của quan tòa, của Thống đốc, Hội đồng Thống đốc. Báo chí đã đứng về
phía công lý, pháp luật tố cáo hành vi sai trái của Tòa án địa phương Hồng
Kông, bảo vệ người bị xử trí oan.
Nhưng
tất cả những điều trên không làm cho tòa án Hồng Kông thay đổi thái độ.
Trong
phiên tòa thứ 8, ngày 12/9, Chánh án đã buộc phải thừa nhận 4 điểm:
1.
Việc bắt Tống Văn Sơ là trái phép
2.
Việc giam Tống Văn Sơ là trái phép.
3.
Việc hỏi cung Tống Văn Sơ không đúng thủ tục.
4.
Chính quyền Hồng Kông đã làm giả mạo tờ cung.
Song
điều quan trọng nhất là việc trục xuất thì vị chánh tòa tuyên bố: Việc chính
quyền Hương Cảng trục xuất Tống Văn Sơ là hợp pháp! Đây rõ ràng là kiểu “cả vú
lấp miệng em”!
Luật
sư Jenkin đã phản đối kịch liệt quyết định vô lý, sai trái của chính quyền Hồng
Kông, là nhẫn tâm và độc ác. Ông tuyên bố chính thức chống án lên Cơ mật viện
Hoàng gia Anh tại London do nhà vua Anh chủ tọa, quyết định. Tiền án phí và những
thủ tục bắt buộc đã được luật sư lo liệu đầy đủ và hai người bạn của luật sư là
luật sư Denis Noel Pritt và Stafford Cripps đã nhận lời giúp đỡ Tống Văn Sơ.
Theo
luật sư Stafford Cripps, vụ án này là một biểu hiện rất xấu cho chính quyền
HongKong và Bộ Thuộc địa, nên đã tìm cách thoả thuận giữa luật sư đại diện Bộ
Thuộc địa Anh và luật sư của Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận được
trình và Toà án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý trả tự do cho Tống Văn Sơ,
bằng cách cho Người được tự do lựa chọn nơi mình đến. Ngày 28/12/1932, Tống Văn
Sơ được tự do, song khi đi đến Singapore, Tống Văn Sơ lại bị buộc quay trở lại
Hồng Kông và ngày 19/1/1933, Người lại bị bắt giam.
Ngay
khi ấy, Người đã kịp thời viết thư báo tin cho luật sư Loseby và nhờ ông giúp đỡ.
Luật sư đã đề nghị Thống đốc HongKong can thiệp, và Thống đốc đã buộc phải ra lệnh
thả Tống Văn Sơ và hạn trong ba ngày Tống Văn Sơ phải rời khỏi Hồng Kông.
Hồ
Chí Minh tiếp gia đình luật sư Loseby năm 1960 khi mời các ân nhân của mình
sang thăm Việt Nam
Một
lần nữa gia đình luật sư Loseby lại bênh vực và cứu Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù.
Kế hoạch di chuyển và bí mật tổ chức cho Tống Văn Sơ trốn đã được vạch ra. Khi ở
tạm thời trong Ký túc xá Hội Thanh niên Thiên chúa giáo Trung Hoa (YMCA), khi
thì ở ngay trong nhà của luật sư Loseby, liên tục di chuyển chỗ ở 3-4 lần, cuối
cùng ngày 22/1/1933, Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ đã cải trang thành một thương
gia Trung Quốc giàu có, và với một viên thư ký tháp tùng (thư ký của luật sư,
tên Lung Ting Chang), Người đi xuồng ra khơi bằng chính chiếc cano công vụ của
Thống đốc Pin do ông bà Loseby bí mật bố trí. Trước khi xuống ca-nô, vị khách dừng
lại chào từ biệt ông bà Loseby và không quên nhờ ông bà chuyển lời cảm ơn tới
Pin - quan thống đốc Hương Cảng. Tống Văn Sơ lên tàu Anhui đi Hạ Môn (Amoy). Đội
trưởng cận vệ truyền lệnh của thống đốc, viên thuyền trưởng tàu Anhui đứng
nghiêm chào và mời “vị khách quý” cùng viên thư ký lên tàu.
Bí
mật rời Hồng Kông, tàu cập bến Hạ Môn vào ngày 25/1/1933, vừa đúng 30 Tết âm lịch.
Sau gần 20 tháng bị giam giữ, lùng sục gắt gao, trải qua bao gian nan hiểm
nguy, Tống Văn Sơ đã thoát khỏi âm mưu nham hiểm của kẻ thù bằng một cuộc vượt
biển thần kỳ. Ở Hạ Môn một thời gian, Người lên Thượng Hải, và sau khi nhờ bà Tống
Khánh Linh giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với Quốc tế Cộng sản và trở
về Liên Xô an toàn sau đó.
Sau
khi Tống Văn Sơ thoát khỏi Hương Cảng, luật sư Loseby vẫn chưa cảm thấy yên
tâm, ông liền nghĩ ra một “diệu kế” là tung tin Tống Văn Sơ tức lãnh tụ An Nam
Nguyễn Ái Quốc đã chết trong bệnh viện ở Hương Cảng.
Báo
chí bắt được tin đó đã nhanh chóng cho đăng tải ngay. Chỉ mấy hôm sau tờ báo của
Đảng Cộng sản Liên Xô Pravda cũng đã đăng tin buồn và Trung ương Đảng Cộng sản
Liên Xô đã tổ chức lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại trường Đại học
Xta-lin.
Trong
buổi lễ này, có một số chiến sĩ cách mạng của ta đang có mặt tại Mạc-tư-khoa
cũng tới dự và khóc thương.
Mấy
hôm sau nữa, tờ Nhân đạo, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp cũng đăng
tin đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mất tại Hương Cảng và TW ĐCS Pháp cũng làm lễ
truy điệu trọng thể người đồng chí đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Trong
tập hồ sơ của sở mật thám Đông Dương lập về Nguyễn Ái Quốc, ở trang cuối cùng họ
đã ghi: “Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà tù tại Hương Cảng”.
(Từ
tư liệu của Lê Tư Lành, Nguyễn Văn Khoan)
Nguồn:
chungta.com
Comments
Post a Comment