HUYỀN THOẠI GIẢ TẠO TỪ 
TRUYỆN NGẮN "THẰNG KHÙNG"



Thằng Khùng (Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH) là một điển hình về những trò bịp bợm hết sức gian trá, tro trẽn của Hội Đồng Giám Mục Thiên Chúa Gíao Việt Nam. Tôi thực sự không hiểu ông Nguyễn Tuân, người  kể lại câu chuyện về Thắng Khùng Chính Vinhcho nhà văn Phùng Quán viết lạ để làm gì trong khi  ông Nguyễn Tuân lả một người có trinh độ để đọc Candide, Voltaire, bản thân ông ta cũng là một nhà văn. Không hiểu cái tên Nguyễn Tuân này có thật hay không hay đây chỉ là một trò tá danh để quảng cáo?. Vấn đề nữa là truyện Thằng Khùng có đúng của Phùng Quán hay không? Hay chỉ là mượn đỡ danh tiếng và uy tín của nhà văn từng đi tù trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm cho câu chuyện thêm phần giá trị?.
Tất nhiên những câu hỏi này chỉ có TGP Hà nội và HĐGMVN là nhóm quyết định quảng bá bài viết và thực hiện âm mưu bịp bợm biến thằng khùng trong truyện thành ông Gioan Lasan Nguyễn văn Vinh mới đủ thẩm quyền trả lời trước công luận.
Như chúng tôi trình bày toàn bộ sự việc này khởi đi từ một truyện ngắn của nhà văn Phùng Quán toàn bộ câu chuyện là hư cấu tuy không có địa danh nhưng qua tình tiết của câu chuyện không gian và thời gian cho người đọc thấy diễn biến sinh hoạt  của nhân vật đang ở trong một nhà tù vùng trung du có đồng ruộng để cày cấy canh tác, có sông bãi tức là dòng sông khá lớn nếu không muốn nói rất lớn. Trại tù có những điều kiện như thế ở miền Bắc chỉ có thể là trại Tân Lập, nếu đi từ Hà Nội người ta phải  xuống xe hỏa ở ga Ấm Thượng, đi vào vùng A Mai, vượt qua bến đò Ngọc mới đến K1 trại chính. Thời gian xảy ra cái chết của nhân vật Thằng Khùng vào khoảng cuối động năm 1971 vì theo Hội Đồng giám mục giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam thằng khùng đó là một linh mục có tên là Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh được miêu tả như một "thánh tử đạo".
Trò bịp này hoàn toàn thành công vì tác phẩm Thằng Khùng kèm theo tiểu sử linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh được quảng cáo trên toàn bộ các website thuộc giáo hội TCG , lan sang các website khác. 
Khi chúng tôi, Kim Âu đọc được huyền thoại bịp này không thể nào chúng tôi im lặng vì tuy chưa từng gặp ông Chính Vinh nhưng chúng tôi được biết qua lời kể của của Biệt Kích Hoàng Ngọc Chính vì anh ta đã ở sát với linh mục Vinh khi ở trại Yên Thọ, Yên Bái, năm 1969 và nhóm Biệt kích đó, linh mục Vinh cùng chuyển lên Trại Cổng Trời.

Linh mục Vinh sống và chết ở trong khu biệt giam trại Cổng Trời, Quyết Tiến  Hà Giang với những điều kiện thời tiết, cảnh trí, không gian, sinh hoạt hoàn toàn không giống một chút nào với trại tù nơi nhân vật Thằng Khùng của nhà văn Phùng Quán bệnh chết và Hội Đồng Giám mục dọn chỗ để tạo dựng lên huyền thoại Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh.
Trại Quyết Tiến ở Cổng Trời không có dòng sông lớn nào,trại đóng trên triền núi khá bằng phẳng của một đỉnh núi cao vùng Cổng Trời Quản Bạ. Quanh khu vực trại chỉ có những khe suối nhỏ nên không thể có một dòng sông, bến tắm trâu và bãi cát như đoăn dưới đây:
"Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông."

Trại Cổng Trời cũng có vài con trâu nhưng không thể nuôi trâu trên trại chính vì trại quanh năm mây phủ, quá lạnh vì thế trại có mấy gian nhà ở cây số ba mươi dưới chân núi cách trại khoảng 10 cây số đường xe và khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng đi đường tắt theo kiểu leo núi, khu vực chân núi là một vùng khí hậu ấm  áp khác hẳn nhưng mùa đông mấy con trâu cũng phải mặc áo tơi và sưởi lửa tử tế nếu không chúng sẽ lăn  quay ra chết trở thành khẩu phần bồi dưỡng cho tù. Những tù nhân được cho vào đội chăn nuôi này đều thuộc thành phần phạm cán, phạm binh ở mấy tỉnh vùng thượng du, cho tới khi chúng tôi xuống núi năm 1978 và trại đóng cửa, xóa sổ hoàn toàn; tù chính trị không bao giờ được đưa vào đội này.

Trại Cổng Trời chỉ xây cất đủ chỗ cho khoảng tối đa 240 tù nhân, trong thời gian tôi bị đày hơn năm năm ở Cổng Trời số tù chết ở trại chỉ có ba người. Trong năm năm đó số tù tăng giảm trong khoảng 180 - 208, đợt thả khoảng gần hai chục tù Biệt Kích ra công trường vào năm 1977 được xem như kỷ lục. Không có chế độ nhà tù nào trên thế giới có đội khâm liệm, họa chăng chỉ có trại tập trung Auschwitz có đội thiêu người như là đặc điểm của nền văn minh Tây Phương, học theo việc tử hình dị giáo thời Trung Cổ. Vì thế nhà văn Phùng Quán viết truyện này chắc để xóa bỏ tư cách kẻ sĩ ông có được từ bài thơ Lời mẹ dặn. Loại như linh mục Nguyễn Hữu Lễ nói láo trước đây làm tôi ngạc nhiên nhưng đến nay thì không vì bọn  đội lốt tu hành của các tôn giáo đều là bọn xài bạc giả  nhà nghề do được đào tạo để nói láo, nói xạo như việc làm này của HĐGM.

Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chết trong khu biệt giam nơi chúng tôi từng bị cùm hơn hai năm. Trong khu biệt giam chỉ có một dãy nhà xây bằng đá chia thành hai buồng lớn. Buồng biệt giam có bốn phòng từ ngày hoàn thành năm 1968 chỉ để cấm cố các linh mục ngoài ra không có loại tù nào, các vị linh mục không hề bị cùm kẹp. Buồng kỷ luật có tám phòng để trừng trị những thành phần chống đối.Trong nhà cùm tù nhân tại trại gọi là Cung Điện Mùa Đông này có bốn biệt kích đăng ký ở lâu dài theo thứ tự là Nguyễn Công  Thành (4), Nguyễn Văn Độ (3), Đặng Đình Thúy (2) sau cùng lâu nhất là Hà Văn Sơn (1) tức Kim Âu chịu đến hơn hai năm vẫn không chết, đó là một kỳ tích phi thường trong điều kiện đói rét cùng cực không ai biết để tả nổi.

Trong hơn hai năm cùm từ 1973 - 1975, buồng biệt giam có tất cả năm vị linh mục có ba vị tôi biết cả họ lẫn tên có linh mục Nguyễn Ngọc Bảo, tôi gặp ở Trại Tân Lập lúc chúng tôi học tập chuẩn bị trao đổi trao trả chờ ký kết Hiệp Định Paris. Ông ở bên cạnh chúng tôi và có nói chuyện vài lần, ông cho tôi biết ông là giám mục của giáo phận Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) hai vị kia là linh mục Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn.
Suốt thời gian bị cùm hơn hai năm trên trại Cổng Trời, thỉnh thoảng một hai tháng, chúng tôi được cho ra tắm rửa. Do bị cùm quá lâu nên chúng tôi đóng kịch giả sức tàn, chân tay yếu đuối không kéo được nước giếng nên trực trại cho phép mấy vị linh mục ở khu biệt giam kéo nước giúp chúng tôi. Linh mục Bảo kéo nước từ giếng lên, hai vị còn lại dội nước gội đấu, kỳ lưng cho tôi như tình cha con. Tôi hỏi quý danh, hai vị đích thân cho biết một vị tên là Trịnh văn Căn, Xã Đoài, một vị là Trịnh Như Khuê, Hà Nội. Ngoài ra trong khu biệt giam còn có linh mục Thông (bị điên) linh mục Thịnh bị điếc ở trong phòng không ra ngoài.

Sau này về lại miền Nam chúng tôi được biết hai vị Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn đã trở thành Hồng Y. Phần linh mục Nguyễn Ngọc Bảo tôi không thấy nơi nào nhắc đến tông tích của ông
Tôi có kể lại chuyện này với một số bạn thân và đùa rằng chắc tôi nhờ được hai ông Hồng Y tắm gội cho tôi nên mạnh khỏe, thông minh, sáng suốt mãi cho đến già lão. Thấy việc gán ghép câu chuyện hư cấu vào với người thật là một "trò xài bạc giả" quá trắng trợn nên chúng tôi lên tiếng chỉ rõ ở trại Cổng Trời không hề có giòng sông nào chảy qua vì trại ở trên triền một đỉnh núi cao vút, không có ông linh mục nào được cho đi chăn trâu, nuôi lợn, nhà tù Quyết Tiến không có chuyện khâm liệm. Phùng Quán không bao giờ có mặt ở trại Cổng Trời.

Đọc thấy đoạn viết về Hồng Y Trịnh văn Căn nên chúng tôi thuật lại sự gặp gỡ trong tù và những gì đã xảy ra mà bản thân tôi là người trong cuộc. Lập tức nhà "trí thức y sĩ Nguyễn Tiến Cảnh" giở giọng hạ lưu, côn đồ, đứng bến chửi bới văng thị mẹt để lấp liếm, xóa bài.
Tôi là người Việt Nam chỉ thờ quốc tổ và gia tiên đối với tôi chúa, phật gì đều là người ngoại chủng, các vị đại hiền này có để lại di sản tinh thần cho nhân loại nếu điều gì hay và đúng thì tôi học hỏi và vận dụng còn sai và dở tôi quảng nó đi. Vì thế Hồng Y hay Giáo Hoàng cũng chỉ là phàm nhân  trần tục đối với tôi chẳng có gì đáng để "bắt quàng làm họ" sở dĩ tôi nhắc đến hai ông Trịnh văn Căn và Trịnh Như Khuê vì hai ông có hiện diện trong đời sống của tôi, hình ảnh và hành động của hai ông nằm trong ký ức của tôi. Sở dĩ tôi nhắc đến hai vị Trịnh Như Khuê, Trịnh Văn Căn với lòng quý trọng vì nhớ ơn các vị ấy đã thể hiện tình người với tôi trong những phút giây nghiệt ngã nhất của một chiến sĩ sa cơ, lâm vòng tù tội đang chịu sự tra tấn, đày đọa lâu dài của kẻ thù...

Nguyễn Tiến Cảnh là một "kẻ xài lại bạc giả" đã mất lý trí khi viết ra những lời lẽ hạ cấp, bất xứng với nền giáo dục mà ông ta đã được thừa hưởng. Hàng trí thức mà cuồng tín xem ra còn tệ hơn loại con hoang vô giáo dục.
Việc linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chết trong tù, tự nó đã tạo cho ông một nhân cách có giá trị không cần ai tưởng tượng ra những lời nói vớ vẩn như : (Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.)

Ai nghe được và ghi lại chuyện này? Láo toét, nói dối, xạo sự trơ trẽn đến mức không còn chút liêm sỉ.

Không lẽ cán bộ cao cấp đó báo cáo với những vị đang xài bạc giả hay sao? Mười điều răn quý vị rao giảng có điều thứ tám là Chớ làm chứng dối cho thấy bọn xài bạc giả chẳng hề nghe lời chúa của chúng.

Vì lớp áo chúng mặc chỉ để che mắt thế gian cho dễ làm điều bất lương, gian dối. Tôi là một ngòi bút hay dùng chiêu gậy ông đập lưng ông nên mượn lời kinh của quý vị Thiên Chùa Giáo đang nói láo, làm láo xem thường cả thiên hạ trong vụ bịp bợm trắng trợn và lộ liễu này thật “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27)
Con người thường cảm thấy bị xúc phạm khi người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những người có quyền thế, đang có chức sắc, khoa bảng. Những người này tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang đánh đĩ lương tâm, quay lưng lại với sự thật, chối bỏ sự thật, vùi dập sự thật, tự lừa mình, dối người và làm nô lệ cho sự giả trá.
Chúng tôi là người thật chỉ tôn trọng sự thật dù "sự thật mất lòng" nhưng chúng tôi biết "sự thật sẽ  giải phóng con người" khi nói lên sự thật, con người sẽ phá tung mọi xiềng xích câu thúc, tận hưởng bầu không khí tự do, biết mình  thực sự có tự do.

Kim Âu
Oct 08/2017


   

Comments

Popular posts from this blog