Giơ-ne-vơ để lại bài học gì?
Vũ
Khoan
Thấm
thoắt đã 60 năm kể từ khi diễn ra hai sự kiện lịch sử của nước ta liên quan mật
thiết với nhau. Đó là chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông
dương. Về hai sự kiện này đã có cơ man bài viết, cuốn sách; bổ sung điều gì mới
mẻ thật khó. Tuy nhiên mỗi người lại có thẻ rút ra điều gì đó có ích cho mình
và tôi muốn chia xẻ vài suy ngẫm rất riêng tư về những bài học rút ra qua Hội
nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 qua một số tài liệu vừa đọc được.
Lúc
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, tôi còn rất trẻ, mới 17 tuổi, đang theo học tại
Khu học xá Nam ninh (Quảng Tây – Trung Quốc) và đương nhiên không hiểu biết gì
nhiều về sự kiện này. Trong tiềm thức của tôi chỉ còn đọng lại kỷ niệm về niềm
hân hoan trong buổi lễ chào mừng Đoàn đại biểu Chính phủ ta ở Hội nghị
Giơ-ne-vơ do Phỏ Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu
trên đường về nước ghé thăm Trường Niềm vui ấy chộn lẫn đôi chút nỗi buồn không
được về lại Hà nội giải phóng sau 9 năm xa cách mà phải đi Liên Xô học tiếng
Nga để chuẩn bị phục vụ các chuyên gia Liên Xô sắp sang giúp ta xây dựng lại miền
Bắc. Thế rồi số phận run rủi, đang học mới hơn 1 năm, tôi được lấy ra làm việc
tại Đại sứ quán nước ta ở Liên Xô và từ ngày đó cuộc đời tôi gắn bó với nghiệp
ngoại giao. Xem như vậy có thể nói Hiệp định Giơ-ne-vơ vô hình chung đã tạo nên
bước ngoặt trong đời tôi.
Làm
việc trong ngành ngoại giao, đương nhiên tôi phải đi sâu tìm hiểu lịch sử ngoại
giao Việt Nam, trong đó Hiệp định Giơ-ne-vơ là một mốc quan trọng. Võ vẽ vào
nghề, lâu dần tôi ngộ ra một điều là muốn hiểu được các sự kiện quốc tế thì trước
hết phải tìm hiểu xem sự kiện ấy diễn ra trong bối cảnh nào? Đối với Hội nghị
Giơ-ne-vơ năm 1954 tôi mầy mò tìm kiếm tư liệu để giải mã cho bản thân một số
điểm còn thắc mắc. Trước hết đó nguồn gốc xuất xứ của Hội nghị từ đâu, do ai đề
xuất, để làm gì…?
Hóa
ra mọi chuyện đều do sự dàn xếp giữa các nước lớn: Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ. Còn
nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa lúc ấy chưa lấy lại được ghế ủy viên thường trực
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nên không được tham gia dàn xếp việc triệu tập Hội
nghị.
Đầu
những năm 50 thế kỷ trước là cao điểm của “chiến tranh lạnh”. Dưới tác động của
nó, thế giới chia thành hai phe rõ rệt và đã trải qua sự đụng đầu trong cuộc khủng
hoảng Béc-lin năm 1948 và các cuộc chiến tranh Triều tiên 1951 và Đông dương đã
kéo dài 9 năm trời.
Đúng
lúc đó, J.Xta-lin qua đời, nội bộ lãnh đạo Liên Xô trượt dần vào khủng hoảng và
có nhu cầu hòa hoãn với phương Tây. Không biết lãnh đạo ta thời đó đánh giá thế
nào về cục diện thế giới? Mới đây Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có phát hành
cuốn “Điện biên phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng”, trong đó tôi tthấy tại
cuộc họp ngày 31/3 và 1-2/4/1953 của Ban Thường trực Liên Việt Tổng Bí thư Trường
Chinh có nhận định:” Làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng, đó là lo lắng
chính của phe ta hiện nay trên thế giới…(phe) ta đề ra các vấn đề xung đột có
thể giải quyết hòa bình giữa các nước có liên quan…”[1]
Còn
Pháp kiệt quệ do chiến tranh Đông dương, Anh muốn vớt vát vai trò quốc tế đang
mai một dần nên chấp nhận sáng kiến của Liên Xô triệu tập hội nghị tứ cường ở
Giơ-ne-vơ để giải quyết những khúc mắc với nhau ở châu Âu. Riêng Mỹ lúc đầu muốn
duy trì căng thẳng để thao túng Tây Âu, kiềm chế Liên Xô nên không muốn họp
song sau cũng đồng ý tham gia không phải để đi đến hòa hoãn mà là phá rối. Quả
nhiên hội nghị tứ cường chẳng đi đến thỏa thuận nào về các vấn đề châu Âu nhưng
lại thỏa thuận sẽ thảo luận vấn đề đình chiến ở Triều tiên và Đông dương. Đơn
thương độc mã trong cuộc đối đầu với phương Tây, Liên Xô đòi phải có sự tham
gia của Trung Quốc là nước lớn ở Viễn Đông có chung biên giới với cả Triều tiên
lẫn Đông dương. Đây chính là cơ hội ngàn vàng đối với Trung Quốc đang khát khao
tranh thủ sự công nhận quốc tế, xác lập vai trò nước lớn của mình.
Không
biết đối với những người nghiên cứu quan hệ quốc tế khác thì thế nào chứ đối với
cá nhân tôi thì những điều nói trên dậy cho một bài học: nhiều chuyện diễn ra
trên bàn cờ quốc tế chịu tác động lớn lắm của các cường quốc do đó phải luôn
luôn chăm chú theo dõi những tính toán, động thái và những sự dàn xếp giữa họ với
nhau.
Liên
quan tới chuyện này trong tôi lại nẩy sinh thắc mắc: thế lập trường của ta thế
nào? Tiếc rằng, cho tới nay tôi vẫn chưa tiếp cận được những tư liệu gốc về quá
trình thảo luận và ra quyết định của lãnh đạo ta về việc tham gia Hội nghị
Giơ-ne-vơ cũng như các phương án đàm phán, thỏa thuận. Trong cuốn sách nói trên
tôi thấy TBT Trường Chinh nói: “khẩu hiệu đề ra có cái mới là bây giờ ta đề ra
đấu tranh ngoại giao” bên cạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh về ruộng đất; “lập
trường bất di bất dịch của ta là độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình” với
4 phương châm: (i) những mục đích không thay đổi nhưng có con đường thẳng, có
con đường quanh co; (ii) nắm vững nguyên tắc là tôn trọng chủ quyền Việt Nam,
bình đẳng, tự nguyện có lợi cả hai bên; (iii) lực lượng chủ quan là điều kiên
căn bản để đi tới thắng lợi và (iv) luôn luôn đặt lợi ích của ta trong lợi ích
của phong trào hoà bình, dân chủ xã hội chủ nghĩa.[2] Một sự kiện gây tiếng
vang lớn lúc đó là bài trả lời phỏng vấn của Bác Hồ cho phóng viên báo Thụy Điển
Expressen ngày 26/11/1953, trong đó nói:”…nếu Chính Phủ Pháp đã rút được bài học
trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách
thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cong hòa sẵn sàng tiếp muốn ý kiến đó…Cơ sở của việc
đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự
của nước Việt Nam”[3]. Nói tóm lại, ta cũng chủ trương điều chỉnh chính sách, mở
mặt trận đấu tranh ngoại giao với mục tiêu, phương châm nói trên.
Xem
như vậy có thể thấy xu hướng của Liên Xô và Trung Quốc lúc ấy là muốn hòa hoãn
với phương Tây, riêng Trung Quốc muốn lợi dụng tình thế để xác lập vị trí nước
lớn của mình, trong bối cảnh ấy ta cũng chủ trương đàm phán hòa bình.
Tiếp
đến, điều băn khoăn, ray rứt nhất khi nói tới Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là
ai và vì sao đã có “sáng kiến” chia cắt nước ta thành hai miền? Tìm ra sự thật
về việc này không dễ chút nào. May thay, các tài liệu mật thời đó lâu dần đã được
giải mã.
Trong
báo cáo đầu tiên gửi về nước ngày 4/5/1954, Đồng chí Phạm Văn Đồng cho biết lúc
đầu là Anh, sau đó cả Mỹ và Pháp chủ trương chia cắt Đông dương thành hai miền
hoặc theo vĩ tuyến 20, hoặc theo vĩ tuyến 16[4].
Không
chỉ phương Tây mà Trung Quốc cũng có lập trường tương tự. Cuốn “Chu Ân Lai và Hội
nghị Giơ-ne-vơ” của tác giả Tiền Giang do Nhà xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản
Trung Quốc xuất bản tháng Giêng năm 2005 có cho biết: Trong “Ý kiến sơ bộ” (thực
chất là Đề án của Trung Quốc tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ) có nói: “Tại Hội nghị
Giơ-ne-vơ, cho dù Mỹ có cố gắng tìm mọi cách cản trở việc đạt được một hiệp định
có lợi cho sự nghiệp hòa bình, chúng ta vẫn sẽ nỗ lực hết sức để đạt được sự nhất
trí và một thỏa thuận nào đó nhằm giải quyết vấn đề, thậm chí là một thỏa thuận
tạm thời hoặc thỏa thuận riêng biệt nhằm tạo thuận lợi cho việc mở ra con đường
hiệp thương giữa các nước lớn để giải quyết các tranh chấp quốc tế”…
Để
đạt được yêu cầu đó, ngày 2/3/1954 (tức là 2 tháng trước khi Đồng chí Phạm Văn
Đồng gửi về nước bản báo cáo nói trên), Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
gửi cho Trung ương Đảng ta một bức điện trong đó đề nghị: “…Nếu muốn đình chiến,
tốt nhất nên có một giới tuyến tương đối cố định, có thể bảo đảm được một khu vực
tương đối hoàn chỉnh. Trên thực tế, giới tuyến đình chiến hôm nay có thể trở
thành ranh giới chia cắt trong ngày mai…Đường giới tuyến này càng xuống phía
Nam càng tốt. Có thể tham khảo vĩ tuyến 16 độ Bắc”.[5]
Những
thông tin trên cho thấy rõ, lúc đó Trung Quốc muốn tranh thủ việc tham gia Hội
nghị Giơ-ne-vơ để xác định vị thế nước lớn, “ngồi chiếu trên” với các nước ủy
viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc để dàn xếp các công việc thế giới,
và để đạt được yêu cầu này đã cùng các nước lớn khác dàn xếp giới tuyến đình
chiến, thực chất là ranh giới chia cắt lâu dài. Các tài liệu đã được công bố
cho thấy lúc ấy thái độ Liên Xô tương đối “bị động”, tập trung chủ yếu vào các
vấn đề châu Ấu, “khoán” các vấn đề Viễn Đông cho Trung Quốc. Đây lại là một bài
học “nhớ đời” củng cố quyết tâm kiên trì đường lối độc lập, tự chủ trong quan hệ
quốc tế.
Mặt
khác tôi cũng ngộ ra rằng, những cái ta giành được ở Hội nghị Giơ-ne-vơ năm
1954 như đình chiến, quân Pháp phải rút khỏi Đông dương, miền Bắc được giải
phóng, các nước tham gia Hội nghị “cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các nước trên (tức là Việt Nam, Lào và
Căm-pu-chia)”[6] là nhờ ở những hy sinh to lớn, thắng lợi vẻ vang của quân dân
ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ. Tuy nhiên trên bàn thương lượng chỉ có thể đạt được những điều đã
giành được trên chiến trường. Về vấn đề phân chia vùng tập kết, đồng chí Phạm
Văn Đồng đã kiên trì khá lâu phương án lấy vĩ tuyến 13 song các nước khác lại
dàn xếp phương án vĩ tuyến 16 – 17 và cuối cùng phương án lấy vĩ tuyến 17 làm
giới tuyến đã được chọn lựa.
Về
việc này, ngay sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Hội nghị lần thứ 6
(khóa II) Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: những thắng lợi của ta “đã làm cho lực
lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến
chuyển căn bản có tính chất chiến lược”[7]. Đứng trên quan điểm lịch sử mà soi
xét thì thỏa thuận Giơ-ne-vơ năm 1954 phản ánh tương quan lực lượng lúc bấy giờ,
ta khó đạt được kết quả lớn hơn, nhất là cả hai nước tài trợ chủ yếu cho nước
ta là Liên Xô và Trung Quốc đều muốn hòa hoãn với phương Tây.
Từ
đây lại nẩy sinh một bài học khác là nước ta luôn phải đối mặt với các thế lực
hùng mạnh bên ngoài nên chỉ có thể tiến từng bước. Điều này được thể hiện rõ
trong giai đoạn 1945 – 1946 khi ta chủ trương “hòa để tiến”. Điều này lại được
thể hiện qua Hiệp định Giơ-ne-vơ và lặp lại qua Hiệp định Pa-ri năm 1973 qua đó
ta mới đạt được yêu cầu “Mỹ cút”, chứ chưa đạt được mục tiêu “ngụy nhào” – điều
mà năm 1975 mới giành được.
Còn
một khía cạnh nữa là vấn đề Lào và Căm-pu-chia tại Hội nghị Giơ-ne-vơ. Số là,
các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia không được dự Hội nghị và Hiệp định
Giơ-ne-vơ mới chỉ đưa tới việc giải phóng miền Bắc Việt Nam, còn lực lượng
Pathét Lào phải tập kết về hai tỉnh Sầm nưa và Phong Sa Lỳ; ở Căm-pu-chia lực
lượng Khơme Issarak phải hòa nhập vào thể chế Vương quốc. Lợi dụng thực tế đó một
số thế lực xuyên tạc rằng, Việt Nam đã “bỏ rơi” hai nước láng giềng anh em !
Xem
lại các tài liệu thì câu chuyện hoàn toàn không phải vậy. Trong bài phát biểu của
Đồng chí Trường Chinh được trích dẫn ở trên có đoạn nói “Kẻ xâm lược phải ngừng
bắn, đi đến ký hòa ước, ngoại quốc rút quân khỏi Đông dương…Việt – Miên – Lào
thống nhất lập trường nên nói Đông Dương. Nếu bây giờ chỉ đề ra rút quân đội
ngoại quốc Việt Nam thì các bạn Miên – Lào sẽ nói ta thế nào?”. Và tại Hội nghị
Giơ-ne-vơ, Đồng chí Phạm Văn Đồng đã dành toàn bộ bài phát biểu đầu tiên cho việc
đòi đại diện các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia phải được tham dự Hội
nghị như các thành viên bình đẳng. Lập trường chính đáng này được nhắc đi nhắc
lại nhiều lần tại các phiên họp của Hội nghị, được nêu trong kiến nghị 8 điểm
đưa ra ngày 10/5/1954, trong đó điểm 1 nhấn mạnh: “Nước Pháp phải công nhận chủ
quyền và nền độc lập của nước Việt Nam trên toàn lãnh thổ Việt Nam, cũng như chủ
quyền và nền độc lập của nước Khơ-me và nước Pathét Lào”.
Ngày
27/5 Bộ Chính trị điện cho Đoàn ta ở Hội nghị cho ý kiến chỉ đạo: “đồng ý khi
bàn vấn đề ngừng bắn và đình chiến cần tranh thủ thực hiện ngừng bắn và đình
chiến trên ba nước… Mưu của địch là: nếu chúng phải ngừng bắn ở Việt Nam thì
chúng đem bớt quân sang Khơme, Pathét Lào hòng tiêu diệt lực lượng kháng chiến
của nhân dân hai nước đó, củng cố địa vị ở đó để sau này quay lại đánh ta… Các
anh nên xem lúc nào thuận lợi, đặt lại vấn đề Hội nghị Genève phải mời đại biểu
hai chính phủ kháng chiến Khơme và Pathét Lào tham dự…”. Điều thú vị là Bộ trưởng
Ngoại giao Pathét Lào là Nu Hắc và Bộ trưởng Ngoại giao Khơme kháng chiến Keo
Pha lúc đó đã có mặt tại Giơ-ne-vơ để phối hợp đấu tranh.
Điều
dễ hiểu là các nước phương Tây chỉ chấp nhận đại diện các chính quyền gắn bó với
họ, không chấp nhận đại diện các lực lượng kháng chiến Lào và Căm-pu-chia tham
dự Hội nghị; tách vấn đề Việt Nam bàn riêng; liên quan tới Lào và Căm-pu-chia
chỉ đòi cái gọi là quân đội Việt Nam rút khỏi hai nước này, còn mọi chuyện coi
như đã an bài.
Theo
cuốn “Chu Ân Lai và Hội nghị Giơ-ne-vơ” nhắc tới ở trên, lúc đầu lập trường của
Liên Xô và Trung Quốc đống nhất với ta
trong chủ trương giải quyết cả gói ba vấn đề Việt Nam, Khơme và Pathét Lào
nhưng “sau trung tuần tháng 5, Chu Ân Lai đã xác định rõ không thể dùng kế hoạch
cả gói để giải quyết vấn đề Đông dương, cách tốt nhất là phân biệt đối xử”…Ngày
27/5 Chu Ân Lai đưa ra Hội nghị lập trường 8 điểm và cùng ngày Tân Hoa Xã phát
đi bản tin được Chu Ân Lai trực tiếp phê duyệt, trong đó nói “ về các khu vực tập
kết quân đội, tình hình của 3 nước Đông dương – Việt Nam, Căm-pu-chia, Lào hoàn
toàn khác nhau…vì vậy biện pháp giải quyết cũng không giống nhau” và trong cuộc
gặp với Đồng chí Phạm Văn Đồng đêm 12/7 Chu Ân Lai đã nêu phương án quân Pathét
Lào tập kết ở hai tỉnh Thượng Lào, còn Căm-pu-chia nên đồng ý rút quân Việt
Nam, không đặt ra vấn đề tập kết quân (lúc ấy phía ta dự kiến nếu phải tập kết
thì quân Pathet Lào rút về các tỉnh dọc biên giới với Việt Nam). Một tình tiết
đáng chú ý là trước đó, ngày 20/6 Chu Ân Lai đã tiếp Ngoại trưởng Chính quyền
Phnôm pênh Tep Phan và 21/6 đã tiếp Ngoại trưởng Chính quyền Viên chăn
Sananikon bàn bạc nhiều nội dung về quan hệ giữa họ với Trung Quốc và với Việt
Nam, về giải pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ với nhiều tình tiết không ngờ. Tiếc rằng,
do khuôn khổ bài viết không trích dẫn được; ai quan tâm nên tìm đọc.
Các
tài liệu tôi mới được tiếp cận cung cấp đầy đủ căn cứ để khẳng định rằng, trước
sau như một Việt Nam kiên trì bảo vệ lợi ích của các lực lượng yêu nước Lào và
Căm-pu-chia, ngược lại các thế lực bên ngoài đã dàn xếp mọi việc của hai nước
này nhằm phục vụ cho lợi ích của họ, tách ba nước trên bán đảo Đông dương ra khỏi
nhau. Thiết tưởng bài học này vẫn còn nguyên tính thời sự, đoàn kết Việt Nam –
Lào – Căm-pu-chia trên cơ sở bình đẳng, cùng phát triển là quy luật sống còn của
ba dân tộc.
Giống
như mọi sự kiện lịch sử khác, Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông dương ẩn chứa
trong mình nhiều khía cạnh không dễ gì nhận chân được ngay. Thời gian là khoảng
cách cần thiết giúp mỗi người nhìn rõ được bức tranh toàn cảnh, trong đó mỗi
người lại phát hiện ra những sắc mầu đậm nhạt khác nhau tùy theo nhu cầu và
nhãn quan của riêng mình. Trên đây là một số cảm nghĩ, phát hiện rất riêng tư nẩy
sinh trong đầu tôi khi đọc một số tư liệu gốc mới được tiếp cận liên quan tới sự
kiện xẩy ra đúng 60 năm về trước và dường như chúng vẫn tươi mới đối với ngày
nay và mai sau
[1]
Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện biên phủ, Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng. Nxb
Chính trị quốc gia. Hà nội -2014, tr.350-351
[2]
Sách đã dẫn, tr.350-351 và 360-364
[3]
Bóa Nhân dân, số 152, từ 6 đến 10/12/1953
[4]
Sách đã dẫn, tr.372
[5]
Xem sách đã dẫn do Bộ Ngoại giao nước ta dịch năm 2008, tr. 34-35 căn cứ cuốn
“Truyện Chu Ân Lai” của Nxb Văn hiến Trung ương Trung Quốc xuất bản tháng
2/1998, tr.154-155 và cuốn “Cuộc đời Thủ tướng Chu Ân Lai” của Nxb Nhân dân tháng
1/1997, tr.74-75
[6]
Đảng Cộng sản Việt Nam. Điện biên phủ - Hội nghị Giơ-ne-vơ. Văn kiện Đảng. Nxb
Chính trị quốc gia. Hà nội – 2014, tr.614
[7]
Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội – 2000, t.15, tr. 223
Comments
Post a Comment