BỌN VIỆT NGU
NHỮNG TÊN CHUYÊN XÀI  BẠC GIẢ




Những người có giáo dục đầy đủ xem việc đọc sách là chuyện bắt buộc do người trí thức không thể bằng lòng với những gì mình đang có, luôn luôn có tinh thần tiến thủ, cố gắng học tập nâng cao trình độ về chuyên môn, văn hóa xã hội, lịch sử, tư tưởng, luôn luôn tự trau dồi kiến thức mọi mặt, luôn luôn tự làm mới mình, thông qua việc đọc sách, học hỏi gạn lọc những tinh hoa mà người khác chắt lọc trong sách vở.. Thông thường thì người cùng thời, cùng thế hệ hầu như đều đọc qua những đầu sách nổi tiếng xuất bản trong cùng thời điểm. Vấn đề chỉ khác nhau tư chất mỗi người đều khác biệt nên cùng đọc mà tiêu hóa, lĩnh hội, vận dụng đều khác nhau, chẳng người nào chỉ mới nghe tên đầu sách ngưới khác đọc đã kêu om lên để khoe bộ não thiểu năng, u mê chậm hiểu. Người  xưa có câu: “kẻ sỹ (người trí thức) 3 ngày mà không đọc sách thì cảm thấy diện mạo mình xấu xí, lời nói của mình vô vị. Vì thế việc đọc vài chục cuốn sách một năm cũng chẳng có điều gì đáng cho là quá sức, đến năm cuối tiểu học mà chưa đọc được vài chục đầu sách “Học Làm Người” thì ắt hẳn là phường con hoang vô gia đình, vô giáo dục và  đương nhiên loại hạ lưu này từ lời nói đến hành động đều thể hiện bản chất hạ cấp, vô học; cho dù có cố viết câu cũng chẳng ra cú, viết mà chẳng biết mình viết cái gì. Cố đọc sách thì cũng chẳng hiều được sách nào đáng đọc, không phân biệt được các thể loại văn chương, hồi ký, tiểu thuyết, triết lý mà chỉ biết hóng nghe lỏm.học lóm để nói năng láo lếu, giở giọng ha lưu đứng bến.
Lần đâu đọc tới cái tên Quạt Lôi Phong và Aladin, chúng tôi đã thừa biết cậu nhỏ này mắc bệnh chứng hoang tưởng, dốt nát nhưng luôn nuôi ước mơ được cưới công chúa Ba Tư để trở thành phò mã ..như nhân vật Aladdin trong câu chuyện cổ tích Ả rập “Aladdin và cây đèn thần” hoặc là võ công phải siêu quần bạt tụy  như nhân vật trong truyện võ hiệp kỳ tình Qụạt Lội Phong của tiên sinh Kim Dung.
Tóm lại  tiểu quỷ Aladin- Quạt Lôi Phong lúc nào cũng mơ thấy sống trong vừng hào quang như “ánh sáng đèn cầy” le lói của Aladin…nhưng khốn nỗi “Ánh sáng đèn cầy” của Aladin là thứ ánh sáng lù mù, chỉ một cơn gió nhẹ là tắt ngỏm.
Khi ông Sáu Góp Gió tiết lộ thân phận cậu con hoang Aladin, chúng tôi đã xếp cậu này vào loại không đáng chấp vì người ngu thường hay viết và nói những câu rất…NGU…và thuộc loại rất chầy cối vì NGU DỐT thường kèm theo bướng bỉnh bởi có bao giờ biết đến cái gì đúng, cái gì sai, phải trái mô tê gì nữa.
Như chúng tôi đã viết, mọi người đều thấy Đặng Chí Bình là bạn của tôi, thường xưng hô với nhau là “cố nhân” mối giao tình như vậy tưởng không cần phải nói nhiều. Aladin khâm phục, tôn Đặng Chí Bình là thần tượng, tôi tạm cho là được vì đó là người quốc gia. Nhân vật thứ hai là Trần Trung Quân mà cậu tiểu yêu Aladin xem là thần tượng thì sụp hố khá nặng, và từ đó để lộ ra bản chất  “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”.
Bởi thế chúng tôi chỉ nói nửa chừng, vừa phải để cho cậu tiểu yêu dốt nát, hoang tưởng chui đầu vào bẫy chuột.
Nguyên văn Aladin viết ca tụng Trần Trung Quân, biệt kích nhảy toán thứ thiệt, tác gỉa cuốn "Trong Lòng Địch” vốn là một tiểu thuyết mà Trấn Trung Quân xác nhận nhờ Nguyễn Thanh Hoàng xây dựng cốt chuyện. Trần Trung Quân xuất thân là một ký giả kiêm soạn giả tuồng cải lương thời trước 1975, trong khi làm tờ Sàigòn Thời Báo tại Houston, Texas những năm 1985-1988  từng phát hành vài tác phẩm tiểu thuyết hư cấu  như "Trong Lòng Địch", "Ai Giết Hồ Chí Minh"…
Ký giả  chuyên viết phóng sự chính trị giả tưởng Trần Trung Quân rời Hoa Kỳ về Pháp vào khoảng cuối năm 1988. Bản dịch "Saigon et Moi": Hồi ký Đại Sứ Pháp Mérillon được phổ biến từ Pháp vào quãng đầu năm 1989 với dịch giả Vũ Hải Hồ.
Nội dung và xuất xứ của bài này là một trích đoạn hồi ký của đại sứ Pháp ở Sai gòn, Merillon. Bài viết này được dàn dựng đáp ứng đúng yêu cầu tâm lý của những ngưởi  tỵ nạn, tác giả đã vẽ lại bối cảnh dàn xếp một giải pháp trái độn cho Sài Gỏn trong hơi thở vội vã, hoảng hốt khi sắp lâm chung năm 1975; với khả năng soạn tuồng cải lương chuyên nghiệp, bài viết này trở thành tài liệu “vô cùng giá trị”, đến  nỗi hầu như năm nào gần đến 30 – 4 những tác giả hải ngoại thường “sao y bản chính” trân  trọng trích dẫn đưa vào bài viết của họ như một tài liệu gốc mà không cần tra cứu cái gốc thật của tài liệu là tác phẩm của đại sứ Merillon nằm ở đâu. Bài được đăng lần đầu từ trang 32 đến trang 45, trong báo Lên Đường do ông Chính Đạo làm chủ nhiệm phát hành tại  Houston, Texas, U.S.A - hai tháng 1 lần, bộ 1, số 4 từ ngày 15 tháng 4 đến 15 tháng 6 năm 1989.
Vì vậy trong thời gian  từ 1989 đến  nay rất nhiều nhà văn, nhà báo, nhà bình luận, cựu chính trị gia, tướng tá viết hồi ký thậm chí cả sử gia cũng đều dính đòn, dẫn tới làm mất hết giá trị những tác phẩm họ bỏ công sức viết ra khi trích đăng, trích dẫn đoạn văn này. Có lẽ bài viết này sẽ tiếp tục xuất hiện trên văn đàn nếu như không có tác phẩm "Những Ngày Cuối Cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm" của ông Hoàng Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 1994, trong phần phụ bản (trang 622-623) cuốn  sách này có in một bức thư đề ngày 12-11-1990 của ông Jean Marie Mérillon, phủ nhận việc ông là tác giả của cuốn "Saigon et Moi". Lý do khi tìm tài liệu để viết cuốn sách của mình, năm 1989 ông Hoàng Ngọc Thành qua Paris tìm khắp các tàng thư không đâu có quyển sách “giá trị” đó. Ông buộc lòng liên lạc với chính tác giả là ông Mérillon lúc đó đang là Đại Sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa. Trong bức thư trả lời ông Đại Sứ Mérillon viết:  
"Riêng về cuốn sách "Saigon et Moi", tôi xin khẳng định rõ ràng là tôi không viết cuốn sách đó và cũng chưa hề viết một cuốn sách nào khác về Việt Nam cả. Do đó tác phẩm mà ông hỏi không phải của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò muốn biết tác phẩm ấy và rất mong muốn nhận được các tin tức liên quan đến nó". 
Mặc dù đã có sự xác nhận trên giấy trắng mực đen nhự vậy, nhưng do không có, không đọc tác phẩm "Những Ngày Cuối Cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm" của ông Hoàng Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức nên nhiều người vẫn không biết sự giả mạo, lừa bịp này. Một số báo chí hải ngoại phát hành thượng tuần và trung tuần tháng 4-1995 vẫn tiếp tục xử dụng lại bản dịch của ông Vũ Hải Hồ kèm theo những ý kiến, lời bàn của họ.
Danh sách nạn nhân bị lừa là toàn thể độc giả tỵ nạn hải ngoại, chỉ những người cẩn trọng tinh ý mới có thể phát giác ra những sơ hở trong bài viết này . Nhưng đau nhất là những người dùng tài liệu này để dẫn chứng trong sách, báo của họ tiêu biểu như: báo Đất Mẹ 56 phát hành tháng 4 năm 1995 tại Houston, Texas USA do ông Nguyễn Phi Thọ làm chủ nhiệm & chủ bút cũng đăng đề tài trên. Việt Nam Huyết Lệ Sử của Cao Thế Dung tại trang 849, do Đồng Hương xuất bản năm 1996, sách Đất Việt Người Việt Đạo Việt của Phan Thiết, do Văn Nghệ Tiền Phong Xuất bản năm 1996, Năm 1997 Đại tá Dương Hiếu Nghĩa xuất bản cuốn “Nước VNCH Bị Bức Tử” tức bản dịch cuốn La Mort du Vietnam của Tướng Vanuxem. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, Trần Đông Phong và các vị khoa bảng tiến sĩ, các nhà nghiên cứu sử, báo chí và nhất là các đài phát thanh Việt Ngữ tại hải ngoại đều bị qua mặt. Khi sự việc vỡ lỡ lúc đó môi người mới đổ xô đi tìm thủ phạm, điểm qua làng văn, làng báo hải ngoại người ta không thấy một nhà văn nhà báo nào có tên là Vũ Hải Hồ. Xét kỹ thì thấy nó có trùng với một trong những bút hiệu của ký giả kiêm soạn giả cải lương Trần Trung Quân, bút danh Vũ Hải Hồ đôi lúc được sử dụng trong khi làm tờ Sàigòn Thời Báo tại Houston, Texas trong những năm 1985-1988.
Theo nhà văn Ngự Sử: "Trần Trung Quân rời Hoa Kỳ về Pháp vào khoảng cuối năm 1988. Bản dịch "Saigon et Moi" được phổ biến từ Pháp vào đệ nhất tam cá nguyệt năm 1989. Với một người có những biệt tài như vừa kể, thì việc dàn dựng một tác phẩm về tháng 4 đen, thực chẳng khó khăn gì. Trên thực tế có khá nhiều dữ kiện có thể dựng thành một khung vững chãi cho một vở kịch đầy tình tiết éo le như "Saigon et Moi". Các sơ hở nếu có chỉ vì kiến thức chính trị giới hạn của ông đã bị năng khiếu hư cấu vô bờ lấn át. Với tất cả ưu nhược điểm của ông, chủ đích dàn dựng "Saigon et Moi", có lẽ nhằm trong ý hướng diễn nghĩa những ngày bi thảm cuối cùng theo như ông nghĩ là đã xảy ra. Cũng có thể, trong cơn ngẫu hứng động cỡn tháng 4 (April Fool), ông đã thả ra một "con cá tháng tư" (Poisson d'Avril) : "Saigon et Moi", đem những ngày tang tóc ra để mua vui vài trống canh?!"  
Trần Trung Quân đã bịệt tăm trước khi bị  vụ bịp lớn nhất về văn học chính trị ở hải ngoại lộ ra làm ảnh hưởng đến nhiều tác giả, tác phẩm khác vì sử dụng tài liệu giả “Hồi ký của đại sứ Pháp Merillon” của ông ta.
Sự kiện này là một bài học lớn cho lũ Việt Ngu nhưng bọn này vẫn không lĩnh hội được và rất dễ bị vào tròng do bản chất lũ Việt Ngu này thích "lừa người dối mình, lừa bịp lẫn nhau, và cùng nhau lừa dối những người khác" nên hễ những tên bịp bợm nào nói đúng tâm lý, làm vừa lòng, vuốt ve tự ái của họ thì lập tức chúng nói gì, làm gì  sai quấy đến đâu họ cũng cho đó là chân lý.  

Mấy năm gần đây bọn Việt Ngu lại lãnh thêm hai đòn chí mạng nữa đó là bài viết tạm gọi là “Mật Ước Thành Đô” của tác giả Kami và cuốn “Hồ Quang Sinh Bình Khảo”.

Vụ Mật Ước Thành Đô hay Hội Nghị Thành Đô chính tác giả Kami đã xác nhận đó chỉ là tin giả tưởng (đọc ở đây). Bẽ bàng, hụt hẫng vì sự "hí hửng, hồ hởi, phấn khởi" quá sớm, đám Việt Ngu giở giọng ngụy biện để tạo ra "chiến thắng tinh thần". Chúng "ní nuận" rằng Trung Cộng đã thuê, mua hết tất cả những vị trí chiến lược trên đất nước Việt Nam rồi nên không cần có Mật Ước Thành Đô cũng đã mất nước. Một thằng ngu nói ngang cả làng cũng phải chịu huống gì cả một lũ Việt Ngu.
Tác phẩm Hồ Quang Sinh Bình Khảo là nghi án đã được rất nhiều người nghiên cứu và có nhiều bài viết theo hai chiều hướng đối nghịch nhưng đối với chúng tôi dù căm ghét cộng sản đến đâu chăng nữa thì Hồ Chí Minh vẫn là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc không thể là ai khác. Ông Hồ không chỉ là điệp viên của KGB, điềm chỉ viên của Phòng Nhì Pháp, cộng tác với tỉnh báo Anh nên sau khi ra tù ở Hồng Kông được cho lập hồ sơ “kim thuyền thoát xác” để tiếp tục hoạt động và trước khi đọc tuyên ngôn ở Ba Đình ông Hồ đã trở thành điệp viên của Hoa Kỳ được đặt cho mật danh Lucius.
Tôi không mất thời giờ tranh cãi mà chỉ khuyên những tên Việt Ngu khăng khăng cho Hồ Chí Minh là Hồ Quang  hãy đọc tác phẩm “Bên Giòng Lịch Sử” của Linh mục Cao Văn Luận Viện Trưởng Sáng Lập Viện Đại Học Huế để khai hoang não bộ.

Lẽ ra chúng tôi không viết thêm về tên con hoang Aladin này vì thực chất hắn ra sao diễn đàn đã biết từ lâu nhưng độc giả đừng nghĩ rằng những tên hạ lưu, vô giáo dục, vô học là vô hại trong khi hắn là thủ phạm đã tung lên rất nhiều tin vịt, tin bịa đặt và mức độ nguy hiểm của loại tin tức, tài liệu giả vô cùng tại hại, không phải là trò đùa vì việc này nằm trong âm  mưu "đánh lận con đen", "đảo ngược phải trái", "ngụy tạo lịch sử" phá tan hết những công trình sáng tạo của nhiều người, biến cả nền văn chương, văn học ở hải ngoại thành những sản phẩm ngụy tạo và những người cầm bút viết sách, làm báo chí truyền thông trở thành những kẻ chơi bạc giả..

Chúng tôi đã đọc quá nhiều bài viết của những tên chơi bạc giả khoác áo nhà văn, nhà báo.

Điển hình là bài viết "Người Tù Kiệt Xuất" của Lô Răng Phan Lạc Phúc trong bài viết này hắn đã viết một câu chuyện hư cấu hoàn toàn chỉ có trong óc tưởng tượng về Nguyễn Hữu Luyện trong khi thực tế Luyện là một tên phản quốc, đã đưa gần ba chục nhân viên công tác bí mật vào tay phản gián Việt Cộng. Chúng tôi đã thách Nguyễn Hữu Luyện đối luận trên SBTN khi ông ta bịa chuyện về đời tư cá nhân của tôi nhằm chống đỡ khi bị tôi vạch mặt nhưng ông ta đã trốn biệt.

Bài viết "Biệt Kích Gỉa Biệt Kích Thật" của Tú Gàn: một bài viết bịa đặt trơ tráo, lộ liễu không còn một chút liêm sỉ, hoàn toàn phản lại sự thật.Trong vụ điều trần tại Ủy Ban Đặc Trách Tình Báo Thượng Viện Hoa Kỳ, tôi là người đại diện dẫn một đoàn 15 Biệt Kích đến tham dự và  đóng vai  người điều trần chính thức ngồi giữa Sedgwick Tourison và Tướng Singlaub. Độc giả có thể xem video ở cuối bài. Tú Gàn dám bán rẻ nhân cách để viết Biệt Kích không biết tôi là ai, Tú Gàn láo lếu tưởng tượng ra ông Đại Tá Lambertson nào đó tham dự buổi điều trần nhưng hoàn toàn chẳng có ai là Lambertson can dự. Đến nay tuy ông ta đã có hồi tâm "cai nghiện tật nói láo" nhưng thỉnh thoảng vẫn "ngựa quen đường cũ".

Bài  viết "Thằng Khùng" Nhóm Thiên Chúa Giáo  lấy một truyện ngắn của Phùng Quán có tựa đề là "Thằng Khùng" ghi  thêm tiểu đề là "Thanh  ngang thập tự giá" tung lên hầu như tất cả các website thuộc Thiên Chúa Giáo ghép vào linh mục Vinh Nhà Thờ Chánh Tòa, thường gọi là ông Chính Vinh làm như đó là tính cách của một linh mục chết trong tù qua lời giới thiệu như sau: (THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài. Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân - không phải là nhà văn có cùng tên - khi cùng ở trong tù)......

Việc chế tác dàn dựng láo xạo,  bịp bợm, gain trá này là của cả tập thể Thiên Chúa Giáo, không phải chuyện cá nhân.Chẳng lẽ đây là Phép Lạ của Chúa Trời biến chuyện hư cấu thành ra chuyện tử đạo? Chuyện"Thằng Khùng" chỉ là một chuyện hư cấu không có một chi tiết nào là thực, nhân vật trong truyện được tác giả cho nói vài câu vớ vẩn bỗng trở thành hình ảnh của ông Chính Vinh, người đã chết trong thời  gian ở trại tù Cổng Trời Quyết Tiến. Đề nghị quý vị Thiên Chúa Giáo dẹp chuyện này ra khỏi các trang web đi nhé! Láo toét không ngửi được.Thật đáng khinh bỉ.

Năm 1973 khi chúng tôi bị áp giải từ trại Ba Sao, Kim Bảng lên đưa vào cùm ở trại tù Cổng Trời Quyết Tiến, được biết linh mục Vinh đã chết tại khu biệt giam bên  cạnh vì bệnh, Việt Cộng không hề cùm kẹp những linh mục bị giam giữ ở miền Bắc. Khu tôi bị cùm là khu biệt giam, kỷ luật mới hoàn thành năm 1968. Linh mục Vinh chết năm 1971.Tôi bị cùm tại đây từ 19 tháng 5 năm 1973 đến hàng tháng sau ngày 30 - 4 năm 1975 bọn công an mới tự động cho chúng tôi ra khỏi nhà cùm về đội lao động. Suốt thời gian bị cùm hơn hai năm trên trại Cổng Trời, thỉnh thoảng một hai tháng, chúng tôi được cho ra tắm rửa. Do bị cùm quá lâu nên chúng tôi đóng kịch giả sức tàn, chân tay yếu đuối không kéo được nước giếng nên trực trại cho phép mấy vị linh mục ở khu biệt giam kéo nước giúp chúng tôi. Có hai vị dội nước gội đấu, kỳ lưng cho tôi như tình cha con, người kéo nước là linh mục Bảo. Tôi hỏi quý danh, hai vị đích thân cho biết một vị tên là Trịnh văn Căn, Xã Đoài, một vị là Trịnh Như Khuê, Hà Nội. Ngoài ra trong khu biệt giam còn có linh mục Thông (bị điên) linh mục Thịnh bị điếc và linh mục Nguyễn Ngọc Bảo đã quen biết với tôi từ trại Tân Lập, Vĩnh Phú. Sau này về lại miền Nam chúng tôi được biết hai vị Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn đã trở thành Hồng Y.
Tôi có kể lại chuyện này với một số bạn thân và nói chắc tôi nhờ được hai ông Hồng Y tắm gội cho tôi nên mạnh khỏe, thông minh, sáng suốt mãi cho đến già lão. Thấy việc gán ghép câu chuyện hư cấu vào với người thật là một "trò xài bạc giả" quá trắng trợn nên chúng tôi lên tiếng chỉ rõ ở trại Cổng Trời không hề có giòng sông nào chảy qua vì trại ở trên triền một đỉnh núi cao vút, không có ông linh mục nào được cho đi chăn trâu, nuôi lợn, nhà tù Quyết Tiến không có chuyện khâm liệm. Phùng Quán không bao giờ có mặt ở trại Cổng Trời. Đọc thấy đoạn viết về Hồng Y Trịnh văn Căn nên chúng tôi thuật lại sự gặp gỡ trong tù và những gì đã xảy ra mà bản thân tôi là người trong cuộc.
Qúy vị biết sao không? Khi thấy tôi viết lên như vậy Nguyễn Tiến Cảnh hình như là bác sĩ giở giọng côn đồ, cuồng tín chửi bới chẳng khác gì Aladin Quạt Lội Phong. Đúng là bản chất bọn Việt Ngu là thế, tôi cũng chẳng buồn kêu ông Đặng Thúy nhà tôi và Nguyễn Văn Độ lên tiếng xác nhận vì không lẽ hai ông linh mục ở Cổng Trời kia là người giả, đồ giả.
Tôi chỉ viết lại rằng: tôi không phải là người Thiên Chúa giáo nên Hồng Y hay Giáo Hoàng là chức sắc trong hàng giáo phẩm của quý vị theo Thiên Chúa Giáo, quý vị phải tôn thờ chứ với tôi thì chẳng là cái quái gì cả. Sở dĩ tôi nhắc đến hai vị Trịnh Như Khuê, Trịnh Văn Căn với lòng quý trọng vì nhớ ơn các vị ấy đã thể hiện tình người với tôi trong những phút giây nghiệt ngã nhất của một chiến sĩ sa cơ, lâm vòng tù tội đang chịu sự tra tấn, đày đọa lâu dài của kè thù...

"Trại giam Cổng Trời"  chuyện chót cho bài này  là một câu chuyện cũng thuộc loại xài bạc giả trời ơi ngoại hạng do Mặc Lâm tổng hợp thành một "phóng xạo" đưa lên đài Á Châu Tự Do kéo dài tới mười kỳ. Với tiêu đề là tên của một trại tù kỉnh khủng nhất Bắc Việt ắt nội dung phải viết về những đày đọa, trấn áp, cùm kẹp, đói rét để nói lên cái Ác của người cộng sản đối với tù nhân.Bằng ngân sách của RFA tức đài Á Châu Tự Do, nhà báo Mặc Lâm có điều kiện đi khắp nước Mỹ. Thậm chí sang các quốc gia khác để tìm ra những "người tù kiệt xuất, những người tù khí phách nhất ở trại Cổng Trời không khó"nhưng kỳ lạ thay Mặc Lâm chủ yếu viết về những ông tu sĩ Thiên Chúa Giáo ở trại Cổng Trời, những người hiền khô chỉ biết tụng kinh cầu chúa, thực hiện Đức Vâng Lời chưa bao giờ biết cãi lệnh cán bộ trại giam nên chưa biết  đến cái cùm và nhà cùm một giờ một phút nào, đồng thời gán ghép các nhân vật Đặng Chí Bình (bạn tôi) tác giả tiều thuyết hồi ký "Thép Đen", nhà thơ nhận vơ Nguyễn Chí Thiện cũng là bạn tôi luôn vào trong khi hai nhân vật này không hề bén gót đến trại Cổng Trời bao giờ. Chưa đủ,  Mặc Lâm còn đưa ông Biệt Kích Hoàng Đình Mỹ và ông Đỗ Lệnh Dũng cũng chẳng biết trại Cổng Trời ở mô tê vào góp mặt cho thêm phần rôm rả công với hai ông vừa mới tham quan trại được sáu tháng là Nguyễn Hữu Lễ và Trần Nhật Kim kể lại nguyên văn những chi tiết địa lý, địa hình chúng tôi cho Đại Tá Trịnh Tiếu và Thiếu Tá Phạm Dương Đạt TQLC được biết.
Hóa ra Mặc Lâm chỉ dùng chữ "Trại Giam Cổng Trời" để câu độc giả còn nội dung chỉ để ca tụng các con chiên và linh mục Thiên Chúa Gíao trong khi đồi bà Then gần năm trăm nấm mồ trong số đó có ba mươi hai Biệt Kích và vài chục người Thiên Chúa Giáo. Tôn giáo, tu hành mà cũng làm giống như "chôm credit" để quảng cáo chẳng khác gì Việt Tân, BPSOS.
Vi thế Nguyễn Hữu Lễ to mồm phét lác: "Chúng tôi lên đó đúng vào đêm Giáng sinh 26 tháng 12 năm 1977 và nhiệt độ trên đó lúc nào cũng ở độ âm tức là dưới 0 độ mà con người ta chỉ được mang lên đó một chăn, một chiếu, một bộ quần áo thì hãy tưởng tượng sự hành hạ của thiên nhiên đối với con người như thế nào!...Lúc đó tôi xung phong vào cái đội đóng quan tài vì tôi không biết nghề nghiệp gì cả cho nên người ta đưa tôi vào đội này để chôn những người tù. Có nhiều ngày chúng tôi làm bở hơi tai mà không kịp cung cấp cho trại bởi vì người chết quá đông, mỗi ngày có thể chết 5 người hay 3 người nhất là những mùa đông nặng nề, tù nhân chỉ còn da và xương mà thôi."
Nguyễn Hữu Lễ còn nổ tung trời như sau:  -Cái hầm đá đó tức là nhà kiên giam trên Cổng Trời. Trên đó có một nhà xây bằng đá rất tối. Nó có hai cái xập hai bên, mỗi bên là cái xập bằng ván, khi người tù người ta lên đó nằm thì người ta khắc cái tên của người ta lên đó. Người ta dùng đinh hay là đầu đinh để khắc tên dưới miếng ván mình nằm. Có một bữa tôi vô tình tôi nằm và mò mò phía dưới thì phát hiện ra những cái tên, một hàng dài rất nhiều. Có những cái tên khó đọc, có những tên đọc đựơc tôi thấy có tên của cha Vinh. Tôi không biết nhiều về cha Vinh ngài bị bắt năm nào tôi không biết. Tôi cũng khắc tên tôi theo. Sự kiện đó nó nói lên nơi đây đã từng giam giữ một số người trong đó nhiều người đã chết.

Lạy Chúa ! Chúa có phạt ông linh mục này về tội làm chứng dối không vậy chúa?

Đúng trại Cổng Trời là trại tử hình với những kẻ chống đối, không một tù nhân bình thường nào có thể ở được tròn một lệnh kỷ luật 15 ngày mà đều van lạy xin tha ngay khi ở được vài hôm. Cá biệt người miền Bắc ở trại Cổng Trời có võ sĩ Kim Cương chịu đươc nhà cùm được một tháng. Nhưng với biệt kích thì có vài người có sức chịu đựng vào loại phi thường mới thực hiểu để nói về cái nhà mồ hay cung điện Mùa Đông, điện Kremlin ở trại tử hình Cổng Trời. Bài viết của Mặc Lâm cũng có đôi chút công phu nhưng chẳng có giá trị gì ngoài tính tuyên truyền rẻ mạt vì sự dối trá láo khóet của một số người được phỏng vấn. Có những chuyện người ta chỉ nghe lỏm được rồi lập lại "tam sao thất bổn" thành ra không còn sự thật.
Một bài phóng sự chủ yếu là tìm ra Sự Thật mà cuối cùng hóa ra Sự Láo thì thất bại quá nặng nề. Có lẽ từ nay chúng ta nên hãnh diện khi ông Kim Âu sau nhiều năm nghiên cứu mới phát giác ra một thể loại văn chương mới gọi là "phóng xạo" dành   riêng cho nền văn  chương hải ngoại cho đúng với những bài viết dối trá láo khoét.

Trong năm năm chúng tôi ở trại Cổng Trời chỉ chết có ba người tù hình sự. Tổng số tù nhân trong trại cao nhất là 240 người, thường chỉ nằm ở con số 208.  Nguyễn Hữu Lễ chắc sản xuất quan tài gởi qua Vatican hay Thiên Đường và mỗi ngày Nguyễn Hửu Lễ phải tắm rửa và chôn mấy con ruồi, con rệp do trại chẳng mấy khi có việc làm. Và mấy tháng sau thì Nguyễn Hữu Lễ, Nguyên Thanh, Trần Nhật Kim, Đại Tá Tiếu, Thiếu Tá Phạm Dương Đạt cùng nhóm Biệt Kích cuối cùng xuống núi hướng về Thanh Hóa.
Nhóm Biệt Kích chuyển tới trại Đầm Đùn, Lam Sơn tức trại 5. Nhóm Đại Tá Trịnh Tiếu, Thiếu Tá Phạm Dương Đạt, Lễ ,Thanh, Kim chuyển về trại Thanh Cẩm.

Tóm lại Người Việt Hải Ngoại hiện nay đang sống trong một môi trường báo chí, truyền thông, phát thanh truyền hình chuyên mộn xài bạc giả,  loan tin thất thiệt, tạo tin giả và hết sức gian dối nên nhiều nhà đài nói không ra tiếng cứ thì, và, là, dạ vâng, dạ vâng họa hoằn mới nghe nhưng thấy bực cả lỗ nhĩ. Qua bài viết này chúng tôi chỉ mới nêu lên một số trường hợp để quý vị nhận xét và đề phòng. Sống trong một môi trường đầy những tổ chức mọc lên để lừa bịp kiếm chác, thỏa mãn óc hoang tưởng quyền lực. Chúng ta bị bao vây bởi cả một hệ thống văn hóa truyền thông, giả dối, láo xạo. Vây quanh chúng ta là những con người sợ sự thật, tránh né sự thật, chối bỏ sự thật, tự lừa mình dối người thử hỏi liệu những khẩu hiệu khoa trương thường nghe có được đến mấy phần trăm sự thật.

Tất nhiên trình độ và kiến thức của loại con hoang Aladin thì quá thấp nhưng loại cuồng tín Thiên Chúa Giáo này rất dễ bị sử dụng, chỉ cần tâng bốc, cho chúng đi "tàu bay giấy" là chúng sẽ "phấn khởi hồ hởi tích cực hành động". Nhưng chúng tôi không việc gì phải mua chuộc, lấy lòng ai nên thấy hắn lại tào lao ca ngợi thần tượng NGU ĐẦN – BỊP BỢM của hắn cho rằng Việt Nam đã mất vào tay Trung Cộng khiến tôi thấy tên con hoang tào lao này đúng là thành phần mà tôi đăt tên là lũ Việt Ngu, loại người lúc nào cũng thích sỉ nhục chính dân tộc của chúng; cầu mong những gì xấu xa , tồi tệ nhất sẽ giáng xuống đầu dân tộc Việt Nam.  Những kẻ sống  nhờ vào loại tin vịt, bịa đặt đến mức hoang tưởng rằng tổ quốc và dân tộc Việt Nam sẽ bị diệt vong, sẽ trở thành một tỉnh của Trung Cộng vào năm 2020. Nếu vì lòng căm thù Việt Cộng thì chúng cứ tự nhiên nguyền rủa Việt Cộng nhưng chúng không nên nguyền rủa dân tộc đã sinh đẻ, tạo thành con người chúng.

Bọn Việt Ngu này ngu đến nỗi đồng hóa bọn độc tài mafia Cộng Sản với dân tộc Việt  Nam. Bọn Việt Ngu này không nhìn ra được sự khác biệt giữa bốn triệu đảng viên cộng sản với gần chín mươi triệu người dân trong nước.

Một đàng là giai cấp thống trị phản động thiểu số, một đằng là giai cấp bị trị chiếm đa số hơn 24 lần.
Giai cấp thống trị là giai cấp lừa đảo, bóc lột, đàn áp. Giai cấp bị trị là giai cấp bị đàn áp, bị lừa đảo và bị bóc lột tận xương tủy nhưng chính là giai cấp bị trị đó sẽ tiến hành giải thể chế độ độc tài đảng trị vì chính họ là quốc dân, là sức mạnh của dân tộc, là mẹ đẻ của tất cả các lực lượng, thể chế, là nền tảng vững chắc đã đấu tranh giữ nước và dựng nước suốt mấy nghìn năm lịch sử.

Việc lũ Việt Ngu này phỉ báng bừa bãi vơ đũa cả nắm cho thấy chúng vì cái mặc cảm ươn hèn, thua bại trước đám cộng sản trong cuộc chiến đã qua. Chúng đã bắn giết lẫn nhau, cướp bóc từ suốt ngoài Trung vào tận Sài Gòn để tranh nhau phương tiện đào thoát, chúng đạp lên đầu nhau chạy trốn, bỏ mẹ Việt Nam mà đi, bỏ mặc quê hương đồng bào cho bọn cộng sản dìm dân tộc vào cơ hàn thống khổ, đói nghèo lạc hậu. Đến khi đã an toàn trên xứ người bọn chúng quay lại cong đuôi tru tréo chửi rủa chính dân tộc đã sinh đẻ và cưu mang chúng nên người thay vì chúng phải biết hổ ngươi vì chúng đã không làm tròn nghĩa vụ một người dân đối với đất nước và dân tộc.

Lũ Việt Ngu này không bao giờ hiểu ý nghĩa của những chữ chủ quyền, độc lập tự chủ, dân tộc tự quyết và toàn vẹn  lãnh thổ. Đọc cái câu "miền Bắc xâm lược miển Nam" của tên Nguyễn Nhơn và đám đồng môn của hắn chúng tôi thật sự thấy tởm cho cái học viện QGHC đã đào tạo ra loại Việt Ngu kém cỏi về lịch  sử đến như thế.
Sự phân hóa của đất nước Việt Nam là do âm mưu vẽ lại bản đồ thế giới của các đế quốc sau Thế Chiến Thứ Hai. Hiệp ước Geneve 1954 với lằn ranh vĩ tuyến 17 chỉ là nhát dao chia cắt dân tộc và tổ quốc Việt Nam của các thế lực quốc tế .
Vì vậy nguyện vọng thống nhất đất nước được giao cho cả hai bên. Hai ý thức hệ Quốc Cộng không dung hòa được thì phải một mất, một còn những kẻ nào mở miệng nói Bắc Việt xâm lăng miền Nam quả là thành phần ngu dốt, phản quốc từ trong tư tưởng vì chỉ có những tên phản quốc, phản dân tộc mới cầu mong cho đất nước và dân tộc Việt Nam chia cắt vĩnh viễn.

Sau 30 - 4 - 1975 những người cộng sản chiếm được miền Nam, thống nhất đất nước bằng sức mạnh bạo tàn và sự lừa dối, đã thiết lập chế độ độc tài đảng trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thay vì xây dựng một quốc gia độc lập, một thể chế tự do, một xã hội dân sinh hạnh phúc.Chúng đã phản bội lại nguyện vọng của quốc dân, dìm đất nước vào tình trạng đói nghèo lạc hậu.
Hiện nay chế độ mafia cộng sản tham nhũng, thối nát đang trên con đường đi vào hoàng hôn của chủ nghĩa.

Nhìn lại lịch sử, từ sau khi chấm dứt thế chiến thứ hai đến nay đã gần ba phần tư thế kỷ, trên mảnh đất do tiền nhân tạo dựng đã chứng kiến sự xuất hiện của nhiều thể chế nhà nước như Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Nam Kỳ Quốc (Cộng Hòa Nam Kỳ Tự Trị), Đế Quốc Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa I, Việt Nam Cộng Hòa 2, Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, tất cả đã tuần tự đi vào quá khứ chỉ còn lại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam độc quyền cai trị nhưng tất nhiên rồi cũng sẽ không tồn tại mãi với thời gian, duy chỉ có dân tộc Việt Nam vĩnh viễn đứng trên giang sơn gấm vóc Việt Nam trường tồn cùng với nhân loại.

Kim Âu
Oct 6/2017

Comments

Popular posts from this blog