Một
Góc Khác của T.T. Nguyễn Văn Thiệu
Nhà
văn Trần Phong Vũ vừa phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu.Nội dung cuộc phỏng vấn giúp chúng ta hiểu thêm một vài
góc cạnh khác của ông Thiệu, nhưng không trả lời được câu hỏi đau xót nhất là
vai trò của ông trong việc phá tan hai quân đoàn 1 và 2, và để mất một nửa đất
nước.Ông có thi hành mệnh lệnh của Hoa Kỳ không? Thái độ của ông, bỏ đất nước,
bỏ dân chúng và quân đội để thoát thân theo vợ, con ra ngoại quốc có là chỉ dấu
cho thấy ông “mua” sự an toàn của bản thân và gia đình ông bằng cái giá dâng hiến
đất nước cho Việt Cộng không?
Trung tướng Ngô Quang Trưởng,
tư lệnh Quân Đoàn 1, và thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2, đã nêu
lên nhiều nghi vấn về những mệnh lệnh rút quân của ông.Tôi trân trọng đề nghị
nhà văn Trần Phong Vũ và ông Nguyễn Văn Ngân khai phá những bí mật còn gói kín
này. Ông Ngân có thể không biết chi tiết, nhưng chắc chắn ông cũng có thể giúp
đánh giá thái độ của ông Thiệu trong những ngày Việt Nam bị bức tử, có thể với
sự đồng lõa của ông Thiệu.Ông Vũ giải thích nguyên nhân thực hiện cuộc phỏng vấn,
và giới thiệu ông Ngân: “Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ chìa
khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đã vĩnh viễn ra đi ngày
29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi ký.
Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về lòng đất mang theo một trời tâm sự
u uẩn của một nhà lãnh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy
đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau. Một khuôn mặt thời
cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lãnh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một
người yêu nước cô đơn? Một nhà lãnh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng
sinh bất phùng thời?Do một trùng hợp tình cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần,
chúng tôi đã gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của
TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa để thực hiện cuộc phỏng vấn này
trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là
một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân
thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính
khách “vòng trong” thì ông là người đã nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong
hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với
TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng
Quốc phòng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung
tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn
Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua
vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử
tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa
đến tình trạng độc cử.Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng
01-74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ
chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện và có ảnh hưởng quan
trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ
là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân đội.Tháng
5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng
01-75, ông từ Mỹ và Gia nã đại về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh
cho cơ quan an ninh “cô lập” và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt
Nam đi Đài Loan tối ngày 25-4-1975.”
Ông Vũ hỏi ông Ngân:
“Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lãnh đạo đều
có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải vì đầu óc độc tôn, tham quyền
cố vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?
Đ.- Tại miền Nam Việt
Nam dưới thời Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến
tình trạng lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai,
sinh hoạt chính đảng yếu kém, xã hội phân hóa, chiến tranh v.v… nhưng một trong
những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người
Mỹ.Người Mỹ đã thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới. Vào thế kỷ 19
người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ
nhân danh dân chủ đểå khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một
tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Domino. Người Mỹ đến Việt Nam
không vì quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người
Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong
quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính
sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính
phủ, nội loạn… để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo
chánh và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.Chánh sách
viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được sử dụng như lưỡi gươm Damoclès.
Trong khi viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất thì viện trợ
của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến
Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng
Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu
sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ được xem là loại máy
bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm thì kỹ nghệ quốc phòng của
miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà
máy lọc dầu, phân bón… từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận.
Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn sử dụng hữu hiệu
cũng đòi hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát
khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có
tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ
hóa.Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để
can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện
trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đã đẩy một số quần chúng đi về phía cộng
sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Hòa đã bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ
dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.Những khó
khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của
người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy thì sẽ giải quyết
được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó
với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lãnh
đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một vòng luẩn quẩn không lối
thoát, sự lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đã làm mất hậu thuẫn rộng
rãi trong quần chúng.Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính
cách quyết định đã làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau Thế chiến thứ I, Nguyễn Ái
Quốc và Nguyễn Thế Truyền đã đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết
tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ còn tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ
vì sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.
H.- Ông có đồng ý rằng
chế độ đệ I và đệ II Cộng hòa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đã được Hoa Kỳ yểm
trợ nếu không muốn nói là đã góp phần quyết định?
Đ.- Không ai phủ nhận
điều đó.Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của
một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong
cuộc tranh chấp giữa tư-bản và cộng-sản.Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công
cụ của cộng-sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là
tay sai của Mỹ.Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng
xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dã man và tàn bạo
như thế nào thì tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ
đã khiến cho một dân tộc vốn giàu lòng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đã chiến
thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình đất nước tụt hậu trong
đà tiến của nhân loại.Sau Hiệp Định Genève 1954, người Pháp rút lui để lại miền
Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ vì chiến tranh để chống lại cộng sản quốc tế
và Bắc Việt, chúng ta chỉ còn tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ
cùng với các điều kiện áp đặt, không còn một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và
ông Thiệu đã lãnh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng
chế độ dân chủ trên một xã hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm
phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ý niệm về
dân chủ, tự do không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại
xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc
gia Việt Nam đã phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, trong
cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản. Chế độ đệ I và đệ
II Cộng Hòa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có
thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xã hội, kinh tế ngày đó đã đặt nền
móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành
một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á. Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái
quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đã bị người Mỹ giết vì bảo vệ chủ quyền quốc
gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi
người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ
trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đã bị lôi kéo vào một
cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết vì đã không làm chủ được số phận của mình
và tất cả dân tộc Vịệt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy
triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi
thân trong biển cả, đất nước đổ nát… Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng
thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; tòa Đại sứ Mỹ thực tế là
một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi
lãnh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên
CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất
trên thế giới; và ông Thiệu đã phải đối phó với một nghịch lý: trong khi khối cộng
sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh thì người Mỹ thực hiện
giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chính trị trên sinh
mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris. Trong cuộc chiến chống cộng và suốt
thời gian lãnh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được sử dụng
trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi
xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lý do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ
quyết định sinh mạng của miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời
chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đã mang mối
hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đời.Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe
cho tôi xem thành phố Londres, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại
Londres sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó:
“kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…”. Lúc ông chết, ý nguyện của ông muốn hỏa
táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không thì sẽ rải xuống biển
chứ không muốn chôn trong lòng đất Mỹ.
H.- Dù sao ông Thiệu đã
cầm quyền 10 năm từ 1965-1975, hòa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973 thời gian
đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn đề
giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đã hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng
tình trạng nầy đã đóng góp vào sự sụp đổ của miền Nam ngày 30/4/75
Đ.- Ông Thiệu thực sự cầm
quyền qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khi quân đội Mỹ còn đổ quân vào Việt
Nam thì ông Thiệu đã đưa vấn đề giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn đề
căn bản của chương trình tranh cử: Xây dựng dân chủ Giải quyết chiến tranh Cải
tạo xã hội. Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra đề nghị
Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ
thời gian đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự vì ông hiểu Việt Nam Cộng Hòa sẽ
không có tư thế tại hội nghị hòa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v.v….
Nếu cai trị là tiên liệu thì ông Thiệu là người có khả năng tiên liệu nhưng ông
không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn
cầu mà vị thế địa lý chánh trị của miền Nam Việt Nam không còn nằm trong quyền
lợi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không còn ở vào thời đại có thể dùng “tầm
vông vọt nhọn” để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ
quân vào Việt Nam đại sứ Bunker đã được Tổng thống Johnson gởi sang Việt Nam với
sứ mạng thực hiện việc giải kết để rút quân. Khi Nixon thắng cử 1968, đại sứ
Bunker đã được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khi Mỹ đã thực hiện
xong việc rút quân và lấy lại tù binh. Chính sách của đảng Dân Chủ và Cộng Hòa
Mỹ trong vấn đề giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán.
Nếu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại
để thiết lập nền đệ I Cộng Hòa (1956 – 1963) như căn bản chánh trị để biện minh
cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới về chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm
ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, thì năm 1967, người Mỹ đã
áp lực chánh quyền quân nhân phải khai sinh nền đệ II Cộng Hòa, thực hiện chánh
quyền dân chủ hợp hiến, hợp pháp để đưa Việt Nam Cộng Hòa vào bàn hội nghị và tạo
bàn đạp cho Hoa Kỳ hòa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù binh, chấm dứt
sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giải quyết trên căn bản
“dân tộc tự quyết”, điều mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận.
H.- Ông nghĩ sao về nỗi
căm phẫn của đại đa số quần chúng đối với ông Thiệu sau 30/4/75?
Đ.- Quần chúng đánh giá
lãnh đạo qua sự thành bại, họ có quyền căm phẫn vì họ là lớp người bị hy sinh
nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bi đát nhất sau
30/4/75 nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hơn nữa người lãnh đạo cũng như thuyền
trưởng một con tàu, dù tàu chìm bởi bất cứ lý do gì thì thuyền trưởng phải là
người rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để
có thể nhìn vào mặt trái của cuộc chiến vừa có tính cách nội chiến vừa có tính
cách ủy-nhiệm mà những yếu tố quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của người
quốc gia.Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một số đồng
bào tại Westminster, California, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sắp
đặt đã cầm micro chửi bới ông Thiệu nặng nề. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất
thông cảm với nỗi căm phẫn của bà.Tôi hiểu sự im lặng của ông, nỗi cô đơn và
cay đắng ông đã mang theo đến cuối đời. Ông Thiệu đã chết chắc hẳn không cần
tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi
biết ” tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ ai và cũng không nhằm thuyết
phục bất cứ người nào. Đối với tôi, nói những điều tốt mà người ta không có
cũng tệ hại như nói những điều xấu mà người ta không phạm phải vì tất cả đều là
dối trá”, nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần
chúng thì còn là vấn đề trách nhiệm.Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong
vấn đề lãnh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy
tín lãnh đạo. Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng
thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạo. Tuy nhiên, đến nay tôi vẫn nghĩ rằng
nếu sự hy sinh có thể cứu vãn tình thế thì ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại
ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một người lính ra trận và hy sinh là một
hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu
thì thật là khó.Xét định một con người cần nhìn vào tổng thể và đặc biệt là những
giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc
tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy
nhiên việc định công luận tội là công việc của lịch sử sau nầy.
H.- Nhiều hồi ký chánh
trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông
Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v…. Điều này có thực không, và
nếu thực thì đã ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề lãnh đạo?
Đ.- Hàng năm đến 1/11,
ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hồn cho cố Tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu tại
dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khi thanh
toán mục tiêu dinh Gia-long, ông về trình diện Bộ Tổng Tham- Mưu và sau đó có
ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về
nhà.Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khi ông không qua văn
phòng và có khi làm việc trong phòng ngủ khi ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu
thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau này. Có những biện pháp an ninh lúc
ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chắn đạn, hoặc cái podium ông đứng nói chuyện
ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chắn đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt
trong các cuộc diễn binh v.v… Tôi không để ý những chuyện nầy, đây là công việc
của bộ phận an ninh. Chỉ có điều là những đề phòng nầy nhằm về phía Mỹ hơn là cộng
sản. Thực ra ông Thiệu đã sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo
chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyền 1967, đến lúc rời Việt Nam đi
Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông
Thiệu luôn ở trong tình trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi
lưu ý ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm,
ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh… Trong giai đoạn giải kết, quyền
lợi của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi
đó quyền lợi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp
chung. Nếu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm với Việt Nam Cộng Hòa
và phối hợp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao thì
chính sách của “đồng minh” Hoa Kỳ đối với “đồng minh” Việt Nam Cộng Hòa cũng
tương tự: cà rốt và cây gậy đã được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi
bình diện để buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng
bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đã tiếp tay với cộng sản trong việc cổ võ, ủng hộ
các phong trào phản chiến, đòi hòa bình, hòa hợp hòa giải dân tộc, lực lượng thứ
ba… mà thực chất là những tổ chức trá hình của cộng sản nhằm phá vỡ thế hợp hiến,
hợp pháp của chế độ VNCH, và đã không ngần ngại đâm sau lưng những người lính
VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” để
người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng Trị 1972 là
một “sabotage politique”. Nixon đã viết thư cho ông Thiệu nhắc đến ý đồ thanh
toán ông Thiệu của chính quyền Johnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như
một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đòi hỏi của Mỹ. Vào những
tháng cuối trước khi ký HĐ Paris, ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một phương
cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng nầy chúng tôi đã triệu tập đại hội
nghị viên toàn quốc về Saigòn, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu,
nghị sĩ ủng hộ lập trường “bốn không” của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đã
ghi nhận ý định tự sát nầy của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện
Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ông Thiệu, Khiêm. Chính ý định tự sát nầy đã
khiến ông Thiệu “lì lợm” trước những đe dọa của Nixon và đã đưa đến những nhượng
bộ của Nixon bằng những cam kết mật.Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi
không nghĩ đến những vinh quang bề ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi
ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của
Hoa Kỳ đã đè nặng lên ông, ông đã chiến đấu như một người lính đơn độc không vũ
khí, bằng lòng dũng cảm và sinh mạng của chính mình. Tôi không có đức tin tôn
giáo nhưng tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ ki-tô-giáo, được bình an và
thanh thản nơi vĩnh hằng.
H.- Có phải Tổng thống
Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đã để lại “đại lộ kinh hoàng” và
Quảng Trị thất thủ vào tháng 5/72 là một “sabotage politique” của người Mỹ?
Đ.- Đúng như vậy.Hậu quả
đã để lại hơn 20 ngàn thương vong trên “đại lộ kinh-hoàng.”
H.- Ông Thiệu đã nói với
ông trong bối cảnh nào?
Đ.- Ngay hôm Quảng Trị
thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiều tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân-Chủ tại lầu
nhà trắng trong khuôn viên dinh Độc-Lập thì được điện thoại của nhân viên văn
phòng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết trình viên quân sự của Tổng Thống đang
có mặt tại Văn Phòng của tôi để thuyết trình về tình hình quân sự sau khi vừa
thuyết trình cho Tổng Thống xong. Vì bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi
tại lầu nhà trắng để thuyết trình cho tất cả cùng nghe. Sau phần thuyết trình,
tôi nhớ rõ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung Dung, nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng
Quốc Phòng của Tổng thống Diệm: “liệu chúng ta có giữ được Quảng Trị không?” Đại
tá Tâm “…chắc chắn chúng ta giữ được.” Chừng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp
reo, tôi nhắc máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lãm,
tư lệnh quân đoàn I vừa điện trình Tổng Thống là Quảng trị đã thất thủ trưa hôm
nay. Sự việc cho thấy là Trung tướng Lãm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng trị
và như vậy là đã có một “sự cố bất thường” xẩy ra nên tôi bỏ phòng họp đi gặp Tổng
thống Thiệu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất bình tĩnh. Ông nhìn tôi nói: tôi điện
thoại gần như mỗi ngày cho ông Lãm về tình hình quân sự Quảng trị, tối qua tôi
còn nhắc ông Lãm phải coi chừng “thằng cộng sản” ngày 1/5, ông Lãm bảo đảm với
tôi là không việc gì, thế mà như vậy. Ông dằn mạnh: đây là một “sabotage
politique”.Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông.Những chuyện như vậy thuộc loại “cấm kỵ
không phải có thể nói với bất cứ ai và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện
của người thứ ba. Đó là nguyên tắc ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là
cách để bảo đảm sựï an toàn cho chính ông. Trong trường hợp này, ông Thiệu là
người duy nhất có đủ yếu tố chính trị để thẩm định, vì ông là người trực tiếp chịu
các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản
đã đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ còn trở ngại về phía ông Thiệu. Gần đây
tôi có đọc một chứng liệu của Đại sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh Độc-Lập
một ngày sau khi Quảng trị thất thủ giữa Đại sứ Bunker, Tướng Abrams và Tổng thống
Thiệu. Ông Thiệu đã không hề quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông
im lặng một cách khó hiểu và mãi đến phút cuối cùng “bật nói”: “…không có lý do
gì Quảng trị lại bị thất thủ, tướng Giai phải chịu trách nhiệm về việc nầy.”Tướng
Vũ văn Giai, Tư lệnh sư đoàn 3 giới tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ,
bỏ lại binh sĩ và dân chúng với “đại lộ kinh hoàng” – đã bị đưa ra Tòa án quân
sự, bị tước đoạt binh quyền và ở tù.Tổng thống Thiệu đã ra lệnh tái chiếm Quảng
trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải
hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn
thất khó có thể bù đắp được trong thực tế bấy giờ nhưng ông đã phải quyết định
như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với
thế giới, với nhân dân Hoa Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản
và Mỹ mà sau nầy được cụ thể trong Hiệp Định Paris 1973.Cũng tương tự như vậy,
việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã được sự thỏa thuận ngầm của
Mỹ để đặt cộng sản Hà Nội sau nầy trước một “fait accompli”. Ông Thiệu biết Hải
Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung Cộng và hạm đội 7 Hoa Kỳ
sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ
quyền lãnh thổ sau nầy.Bởi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nề
riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường hợp
ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đồng
bào cùng chiến hữu của ông.
H.- Nhận định của ông
Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở
rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại
Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không?
Đ.- Không. Các cuộc tấn
công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời
nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an
toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ.Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc
hành quân Lam Sơn 1971 vì Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khi có
dấu hiệu sa lầy ông đã ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm đưa ngay một đơn
vị vào Tchepone “đái một bãi” (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lưu ý là
chương trình rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của quân lực
VNCH, và chương trình Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân
của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức đề kháng và tồn tại.
H.- Sau này, nhiều người
trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đã dựa
vào những cam kết mật của Tổng thống Nixon nên đã chấp nhận ký kết Hiệp Định
Paris vì không hiểu rõ tổ chức công quyền của Hoa Kỳ thẩm quyền của hành pháp
và lập pháp. Như tiến sĩ Kissinger đã nhận định: đó chỉ là những ý định của Tổng
thống Nixon, không có tính cách cam kết quốc gia vì không có phê- chuẩn của quốc-hội.
Đ.- Vào lúc bấy giờ ông
Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kissinger sau nầy, nhưng ông cũng hiểu rõ vị
thế yếu kém của VNCH và giới hạn cuối cùng mà ông có thể đòi hỏi ở Nixon. Ông
Thiệu có chủ định rõ ràng là mua thời gian còn lại của nhiệm kỳ Nixon trong
hoàn cảnh “còn nước còn tát”.Chúng ta cần nhớ rằng không hề có một hiệp ước Việt
Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện
pháp lý nào về quy chế trấn đóng của quân đội đồng minh trên lãnh thổ Việt Nam
bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng đầu năm 1965 dưới
thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Phó Thủ
tướng; ông nói với tôi: tình hình bấy giờ hơn hai phần ba lãnh thổ bị cộng sản
ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp thì miền Nam mất. Thời đệ I Cộng
Hòa, Tổng thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ
từ chối. Các cố vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức
trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị
phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân
đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn đề đơn phương rút quân,
Việt Nam hóa, Hiệp Định Paris. Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà
người Mỹ cố tình không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lý “giấy trắng mực
đen” như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những nơi Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn.
H.- Đến bao giờ thì ông
Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nixon? Vụ ông Thiệu quyết định
không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trắc nghiệm về những
cam kết mật hay không?
Đ.- Ngay sau cuộc gặp gỡ
Thiệu Nixon tại San Clemente tháng 4/73. Về phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ
mang nhiều ý nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục
ủng hộ của Hoa Kỳ với VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn
trái ngược. Cuộc gặp gỡ mặt đối mặt đã khẳng định cho ông Thiệu thấy không còn
hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đã được hứa
hẹn trước đây. Đây là lý do và thời điểm quyết định việc tu chính hiến pháp:
gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thổng. Cuộc độc cử 1971 đã làm sút giảm uy tín chính
trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền
Nam, ngưng bắn tại chỗ, chinh phủ liên hiệp ba thành phần đã hoàn toàn xóa bỏ lập
trường bốn không của ông; người Mỹ đã hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù
binh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ rơi… khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu
chuyện ông vua không quần áo (the emperor without any chothes) và hoàn toàn trắng
tay. Tư thế lãnh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng
và đây là lý do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đã không bao giờ được tiết lộ.
Nội dung tu chính bấy giờ được giữ mật vì phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng
nghị viện tháng 10/73 mới đủ túc số thực hiện. Việc tu chính không nhằm vào nhiệm
kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc
Hội “để tái trang bị tư thế lãnh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với tình thế mới.
Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đã gắn liền với sự còn mất
của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủy. Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị
sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestic vào đêm trước
hôm biểu quyết, tôi có nói rõ: “đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân Tổng
thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu”. Có thể họ hiểu là tình
hình nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đã ở
trên bờ vực thẳm. Nếu Kissinger đã tiên liệu thời gian có thể coi được (decent
interval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi thì ông Thiệu
đã tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc Hội biểu quyết
tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội đồng Tổng trưởng: “…các quan sát viên
quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta còn ngồi ở đây hôm nay, tất cả đều
nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ
Paris…”. Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho Bộ
Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để tìm hiểu trữ lượng dầu hỏa với
hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm bộ trưởng dầu hỏa chứ
không làm tổng thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điều kiện dễ dàng cho ngoại
quốc đầu tư, ông nói với tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải
“cho không”.Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một
trắc nghiệm về ý đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đòn “trinh sát chiến
lược”, sau đó Bộ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo
là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước
Long vì sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đắp, có chiếm lại cũng không giữ được,
lực lượng trừ bị không còn và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp
tới của cộng sản.
H.- Ngoài việc tu chính
gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, còn có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ
4 năm lên 5 năm. Lý do?
Đ.- Lý do được viện dẫn
của tu chính là chương trình kinh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có
khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam vì nhiệm kỳ
Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm thì nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh
hưởng nặng nề đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu
chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp thì chúng tôi bỏ
vào luôn.
H.- Ông Thiệu có tham
khảo ý kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không?
Đ.- Không.Như tôi đã
nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đã được quyết định ngay sau khi Tổng thống
Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV
tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được Tổng thống Thiệu thông báo sau khi dự luật
tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông
Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để
thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp tôi nói với ông Martin là tôi nhận
thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ vì Hoa Kỳ là đồng minh chính yếu
đã giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến. Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào
lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v… Nội
vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối.ÔNG NGÂN NÓI NHIỀU về vai trò xấu xí
của người Mỹ tại Việt Nam. Điều này không phải là một khám phá mới.Chúng ta cảm
phục chế độ chính trị dân chủ và tổ chức kinh tế, xã hội công bằng và cổi mở của
Hoa Kỳ, nhưng nhiều người bất mãn về ngoại chính của họ đối với Việt Nam ngày
trước, và đối với nhiều nước khác hiện nay.Ông Ngân cũng thành công trong việc
vẽ ra một ông Thiệu sợ Mỹ hơn sợ Việt Cộng, ưu tư và toan tính đối phó với Mỹ
hơn là tìm cách bảo vệ miền Nam bằng những phương tiện quân sự eo hẹp hơn,
nhưng cũng thích hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước.Nhưng ông không trả lời
đúng vào câu hỏi thứ 3, về việc ông Thiệu không làm những điều cần phải làm để
bảo vệ đất nước trong giả thuyết người Mỹ giải kết. Ông nói ông không bào chữa
cho ông Thiệu, nhưng trút toàn bộ trách nhiệm làm mất Việt Nam cho Hoa Kỳ lại
là cách bào chữa kiến hiệu nhất.Ông Thiệu sợ Mỹ nhưng cũng chính ông lại tuyên
bố là “không có viện trợ Mỹ, tôi không làm tổng thống nữa”, xin ông Ngân giải
thích mâu thuẫn này.Quan trọng nhất vẫn là vai trò của ông Thiệu trong những
ngày tháng cuối cùng của Nam Việt.
Comments
Post a Comment