HUYỀN THOẠI CỦA ĐẢNG DÂN CHỦ VŨ LINH Trong tuần qua, một độc giả của DĐTC gửi một loạt ’góp ý’ có tính mạt sát đảng CH và TT Trump để đề cao đảng DC và các tổng thống DC, nhất là Đấng Tiên Tri Obama. Loại góp ý này đi ngược hướng với DĐTC nhưng cũng hữu ích nên DĐTC đã đăng vì giúp cho thiên hạ có dịp thấy lại những lập luận ‘lừa gạt đường mòn’ mà đảng DC và TTDC cấp tiến đã nhai đi nhai lại như cục kẹo cao su hết chất ngọt từ nửa thế kỷ rồi, mà vẫn chưa thay cục kẹo khác. Những lập luận này đã được chứng minh sai lầm cả vạn lần mà vẫn có người còn tin là... “sự thật” ! Những cục sạn trong đầu thật khó mà lọc ra được là vậy. Một lần nữa, ta coi lại vài huyền thoại dai hơn đỉa này. (Xin quý độc giả tha lỗi bài hơi dài vì nhiều vấn đề quan trọng ) Phải nói ngay, ông độc giả này dùng toàn danh từ dao to búa lớn, biểu diễn sự thông thái bằng cách trích dẫn triết gia của mấy thế kỷ trước ( kể cả Hegel là ông tổ của chủ nghiã cộng sản ) , nhưng tựu trung lập luậ
Ngày 1
tháng 6 năm 1979, ngày nhà văn Nguyễn Mạnh Côn tử tiết tại trại tù khổ sai
Xuyên Mộc. Ông tuyệt thực phản đối việc ông bị cầm tù quá lâu. Cai tù trại
Xuyên Mộc không cho ông uống nước và ông chết trong trại tù.
Nói đến
nhà văn Nguyễn Mạnh Côn phải kể đến những tác phẩm như Đem Tâm Tình Viết Lịch
Sử, Lạc Đường Vào Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào,… biểu lộ tâm cảm băn khoăn của
một lớp tuổi trẻ thanh niên của những thập niên 1940, 1950 trong ý hướng muốn
đi tìm một con đường chỉ đạo cho công cuộc giải phóng quê hương tìm độc lập tự
do cho dân tộc và đất nước. Có những lựa chọn ý thức hệ của những trí thức tiểu
tư sản, từ Võ Nguyên Giáp đến Hồ Hữu Tường, từ Vũ Khắc Khoan đến Lê Quang Luật,
từ Nghiêm Xuân Hồng đến Nguyễn Mạnh Côn…
Nhà văn
Tuấn Huy đã viết về một người cầm bút đàn anh của mình: “Khách quan mà nhìn
nhận có một luồng gió mới thổi vào văn học của chúng ta những năm giữa thập
niên 1950 trở về sau. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, theo tôi, luôn luôn tên tuổi ông
đi sát với tên tuổi nhà văn Doãn Quốc Sỹ bởi những tác phẩm của hai nhà văn này
gần như trọn vẹn đều có những nhân vật đầy ưu tư trước những thăng trầm đổi
thay của đất nước. Họ là những người luôn luôn quằn quại thao thức vì bị lịch
sử dày vò.
Riêng Nguyễn Mạnh Côn, qua bút hiệu Nguyễn
Kiên Trung đã phơi bày một cách thật ẩn dụ tình cảm và tâm trạng của cả một thế
hệ thanh niên đã bị thất vọng sau cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ những nao nức
hăng say khi cuộc “cách mạng mùa thu” tràn đến rồi sự vỡ mộng ê chề khi thấy rõ
tuổi xuân và xương máu của mình đã bị một nhóm người lừa gạt. Từ “Đem Tâm Tình
Viết Lịch Sử” đến “Lạc Đường Vào Lịch Sử” đến “Hòa Bình…Nghĩ Gì… Làm Gì” nhà
văn Nguyễn Mạnh Côn đã mang hết cả những tâm cảm của ông để kể lể chuyện trò
với chúng ta về những suy tư về những khao khát của một con người. Một con
người có những dằn vặt có những vò xé có những đớn đau có những ước mong có
những hy vọng. Một con người đôi khi tưởng như lạc lõng tưởng như cô đơn tưởng
như nghịch lối tưởng như nghịch dòng. Nhưng là một con người thủy chung đi tới
tận cùng cuộc hành trình về tư tưởng mà chính mình phác họa.
Kể cả những thời điểm mà Sài Gòn đã có nhiều
cán bộ văn hóa Cộng sản xâm nhập, nằm vùng hay ngnag nhiên thao túng; kể cả
những thời điểm mà cuộc chiến dằng dai đã khiến mọi người hầu như rã rời thấm
mệt thì Nguyễn Mạnh Côn vẫn hiên ngang đứng ở một chỗ cao, của một vị thế
riêng, chống lại Cộng sản. Và một điều đáng nói khác với những cây bút “chống
cộng ồn ào” khác, Nguyễn Mạnh Côn đã chống Cộng bằng tư tưởng và lý luận, bằng
sự trầm tĩnh và nghiêm trang, bằng sự hòa nhã và đứng đắn, bằng những gì phát
xuất ở con tim và bằng những gì phát khởi từ tấm lòng. Ông là nhà văn mà Cộng
Sản coi là thù nghịch nhưng vẫn phải nể trọng…”
Nguyễn
Mạnh Côn đã mang vào văn chương những ý thức chính trị. Những kinh nghiệm thực
của cuộc đời ông được mang ra viết để thành những cống hiến cho thế hệ đi sau.
Ông sinh năm 1920, là thế hệ lớn lên và trưởng thành trong một bối cảnh lịch sử
đặc biệt của đất nước. Năm 1930, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng đã
bắt đầu cho một thời kỳ khủng bố trắng của Thực dân Pháp. Lúc đó, cao trào
tranh đấu đòi độc lập tự do đang ở tột đỉnh. Sau đó là thời kỳ suy vi của Đế
quốc Pháp. Đức Quốc Xã chiếm chính quốc Pháp và dựng lên chính phủ bù nhìn thỏa
hiệp của thống chế Petain. Ở Đông dương chính quyền thuộc địa đu dây giữa hai
chính phủ một lưu vong và một ở chính quốc và sau đó bị quân Nhật đảo chánh.
Thế giới chiến tranh lần thứ hai vừa chấm dứt và manh nha trên thế giới một
cuộc chiến tranh lạnh tiếp theo. Việt Nam, khi trước là thuộc địa Pháp sau bị
Nhật đảo chính rồi bị chia làm hai vùng chiếm đóng của quân Anh ở miền Nam và
quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở miền Bắc vào tước vũ khí của quân đội Nhật. Quân
Anh vào miền Nam mang theo quân Pháp chiếm giữ các thành phố lớn rồi như vết
dầu loang bành trướng các vùng chiếm đóng. Ở miền Bắc, quân Tàu vào và với
nhiều đổi chác rút ra để quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng vào Hà Nội.
Chính phủ
liên hiệp gồm Việt Cộng sản và các đảng phái quốc gia tuy kết hợp với nhau
trong mục tiêu chống Pháp nhưng ở bên trong là những cuộc đảng tranh đẫm máu và
khốc liệt. Nguyễn Mạnh Côn là một nhân chứng, là một đại diện của Việt Nam Cách
Mạng Đồng Minh Hội trong quốc hội liên hiệp đầu tiên. Ông đã có nhiều kinh
nghiệm chua chát. Và tạo thành chất liệu thực tế cho sáng tác.
Viết tác
phẩm “1945. Lạc Đường Vào Lịch Sử” ông giãi bày: “tuổi trẻ nào cũng có nhiều
phen sai lầm, tội lỗi và hoài nghi hối hận. Từ năm 1958 bắt đầu viết truyện này
cho đến năm nay tôi vẫn theo đuổi một ước vọng là làm thế nào cho các bạn thanh
niên hiện đại tin chắc rằng tuổi trẻ của chúng tôi không có gì hơn tuổi trẻ của
các bạn. Chúng tôi có thể là những anh hùng: anh hùng lạc đường một cách bất
đắc dĩ.
Và chúng
tôi chỉ có nhiều đau khổ. Nhưng đau khổ, sẽ đến như đã đến, với tất cả, Cuốn
truyện này là bằng chứng, sự chịu đựng của chúng tôi. Bây giờ đến lượt các
bạn…”
Viết một
tác phẩm khác: “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”, với những hồi ức đã có, đã sống,
ông nhìn lại đoạn đường đã qua với nỗi ngậm ngùi nhưng vẫn có nhiều hy vọng:
“Lòng hỏi
lòng, tôi thấy mình như con ngựa mệt mỏi dọc theo lối mòn kháng chiến quanh co,
nay ra đến con đường mới vừa thẳng vừa rộng, thốt nhiên đâm sợ. Sợ, nhưng cũng
có mừng; đàn ngựa trẻ đương phóng lên nước kiệu…Tôi linh cảm Việt Cộng lại
đương nhầm, nhầm ở chỗ đánh giá anh em ta quá thấp…”
Lúc đó,
trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, cũng có nhiều cố gắng để tìm một con
đường thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước đúng đắn nhất.
Một thế hệ muốn tìm những kim chỉ nam hành động. Có người chọn chủ nghỉa Mác,
dùng đấu tranh giai cấp theo sự hướng dẫn của Cộng Đảng Đệ Tam Quốc Tế Nga Xô
Viết. Nhưng với Nguyễn Mạnh Côn ông đã chọn con đường khác, tạo một ý thức hệ
đối đầu với tư tưởng của Karl Marx. Và có lẽ trong suốt cả cuộc đời ông, ông
vẫn thao thức trong ý định đi tìm một con đường tốt đẹp nhất cho dân tộc. Sự xa
lánh ý thức hệ Mác –Lênin có lẽ từ suy nghĩ tinh tế để có một nhận thức chính
xác. Chống Marx và vượt Marx…
Với bút
hiệu Nguyễn Kiên Trung ông đã viết, suy nghĩ và tâm sự của mình, dưới hình thức
những lá thư gửi cho bạn đang sống ở Pháp. Tác giả thú thực đã hoàn tất xong
tác phẩm khá lâu nhưng thật khó khăn khi viết bài tựa để mang toàn bộ tác phẩm
đi in. Ông muốn bài tựa ấy phải là một bài tựa đầy tình cảm nhưng khi viết xong
thì tình cảm đã lắng xuống đến nỗi không có đến một rung động nhỏ. Và ông đã
khám phá rằng vấn đề không thu hẹp trong vấn đề văn nghệ hay kỹ thuật, vấn đề
bao quát cả một niềm hy vọng tha thiết của quốc dân năm 1945, cả một cuộc phản
bội của Mặt Trận Việt Minh, với không biết bao nhiêu người sống quằn quại,
không biết bao nhiêu người chết thảm thê vì sự phản bội ấy. Và ông không viết
được bài tựa ấy cũng là hợp lý, bởi lẽ nào mang chút tình cảm vụn vặt của mình
làm mào đầu để khởi đi một giai đoạn lịch sử cao quý, hùng vĩ của cả dân tộc…
Nội dung
của “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” là những tâm sự của một chiến sĩ đang tranh đấu
trực diện trong công cuộc giải phóng đòi tự do độc lập cho đất nước trong những
bức thư viết ở những thời điểm quan trọng của lịch sử Việt Nam. Những không
gian và thời gian như Hà Nội ngày 3 tháng 9 năm 1945, như Hà Nội, nội thành,
Liên khu 1, ngày 26 tháng 12 năm 1946, như Hà Đông ngày 3 tháng 2 năm 1947, như
Phú Thọ ngày 29 tháng 11 năm 1952, như Hải phòng ngày 19 tháng 7 năm 1954, là
những cột mốc đáng nhớ của một thời đại đầy biến động Việt Nam.
Ngày 3
tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Việt minh cướp chính quyền hớt tay trên các đảng
phái quốc gia. Ngày 26 tháng 12 năm 1946 ở Hà Nội, trong nội ô thành phố, Tự Vệ
Thành đã nổ súng đánh Pháp bắt đầu cho cuộc kháng chiến giành độc lập. Ngày 3
tháng 2 năm 1947 ở Hà Đông, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức thành lập và cuộc
đảng tranh đẫm máu và gay gắt nhất đã tạo những vết thương đau đớn cho dân tộc.
Ngày 29 tháng 11 năm 1952 tại Phú Thọ là ngày bắt đầu cuộc cải cách ruộng đất
và đấu tố để thực hiện đấu tranh giai cấp. Ngày 19 tháng 7 năm 1954 tại Hải
Phòng là ngày bắt đầu chia đôi đết nước ở vĩ tuyến 17 theo hiệp ước Genève.
Từ thời
điểm ấy, Nguyễn Kiên Trung kể cho bạn đọc nghe về cuộc đời của mình và thế hệ
mình theo ngõ đẩy đưa của thời cuộc. Và từ đó như tấm gương phản chiếu thấy
được sự bội phản lường lọc của những người Cộng sản Việt Nam. Với kỹ thuật
tranh đấu được huấn luyện từ hệ thống Cộng Sản thế giới, họ áp dụng vào thực tế
và đã thành công trong việc nắm giữ chính quyền và thực hiện chính sách vô sản
chuyên chính.
Tác giả
“Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” đã “trút ngay lên mặt giấy một sự cần thiết phải
gào thét, phải nức nở cho số phận những người bạn tôi sắp phải chết, ngoài kia,
bên trên vĩ tuyến Bắc 17 độ. Nói là bạn, nhưng chỉ có một số nhỏ là bạn của tôi
thật, còn nhiều người mới quen biết sơ qua trên con đường kháng chiến, nhiều
người chưa hề được gặp mặt, nhiều người tôi đáng tôn lên là bậc thầy, Phan
Khôi, Đào Duy Anh, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Trương Tửu, Trần Đức Thảo,
Nguyễn Mạnh Tường, những người áy sắp bị Việt Cộng mang ra xử án…
Họ, như
Phan Khôi, Đào Duy Anh, Hoàng Cầm chưa hề bao giờ là những người Cộng sản.
Nhưng cùng nhau, họ đã chống lại Việt Cộng. Điều cần biết, đối với tôi, là
trong hàng ngũ duy vật, một sự nứt nẻ trầm trọng đã được xác nhận. Một điều cần
biết nữa, là thực tế đang chứng minh rằng những con người ấy, vốn dĩ Cộng Sản
hay chỉ đầu hàng hoặc thỏa hiệp với Việt Cộng, cuộc tranh đấu của họ gần đây là
cuộc tranh đấu tiểu tư sản. Dưới bất kỳ một nhãn hiệu chính trị nào do họ tự
nhận lấy hoặc bị kẻ khác gắn cho họ, họ quả thật là những người tiểu tư sản,
trí thức tiểu tư sản. Những người trí thức tiểu tư sản trong hòa bình và vì lý
tưởng dám liều mình chống lại cường quyền và bạo lực, đó là câu kết cho cuốn
“Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”, câu kết tôi muốn viết mà trước kia không dám viết,
e ngại rằng chưa đủ bằng chứng cho chúng ta tin cậy, thì bây giờ, những nhà trí
thức của Hà Nội, của Hồ Gươm, và của Hồ Tây không bao giờ phai nhòa trong tâm
tưởng kẻ lưu vong, những nhà trí thức anh dũng ấy, bằng tai nạn của họ đã cho
phép chúng ta nói một lời quyết định…”
“Đem Tâm
Tình Viết Lịch Sử” được viết cách nay nửa thế kỷ và xem ra tới bây giờ, vẫn còn
nhiều suy nghĩ đáng chú ý. Lịch sử, đã bị chế độ hiện hữu bôi xóa và những bài
học để thế hệ sau hiểu biết chứa đầy những giả trá. Từ năm 1945, tới nay không
xa, khoảng cách lịch sử vẫn còn gần để nhận thức, thế mà đã có nhiều sai lạc.
Thậm chí, có những người được gọi là trí thức như Đặng Tiến, cũng viết phê bình
văn học, cũng là người tự cho mình là người thông hiểu văn chương lịch sử, mà
trong một buổi phỏng vấn của Đài BBC gần đây đã bóp méo lịch sử, ca tụng Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp, với việc giết hại những chiến sĩ thuộc các đảng phái
quốc gia. Thậm chí, ông ta còn cho rằng Đảng Cộng Sản đã phải chiến đấu với
thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, Quốc dân Đảng Tàu và các đảng phái quốc gia
theo chân quân Tàu Tưởng. Ông ta gom gọn làm một các lực lượng quốc gia với cái
nhãn hiệu là theo chân quân Tàu. Nếu Đặng Tiến đã đọc sách và viết phê bình về
hai mươi năm văn học miền Nam thì chắc phải đọc “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”
Không hiểu ông ta có gặt hái được suy nghĩ nào chính xác hơn không sau khi đọc
tác phẩm này?
Một tác
phẩm khác “1945, Lạc Đường Vào Lịch Sử” cũng lấy thời gian và không gian của
những năm bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với các nhân vật bị đẩy vào cuộc
một cách bất đắc dĩ. Họ hoạt động trong những sự sắp xếp của các thế lực quốc
tế thông qua các đơn vị tình báo của các cường quốc liên hệ đến tình hình htời
sự Việt Nam. Có nhiều nguyên ủy để họ tham gia chính trị. Có thể vì bị lôi kéo
vì tình cảm như Tuyết Lan, như Quang, như Trọng. Có thể vì thi hành những công
tác tình báo như Tôn Xương Linh nhân viên OSS của Mỹ mang bí số SA 141 hay ông
Tiến, một lãnh tụ quốc gia, cha của Tuyết Lan mang bí số SA 72. những nhân vật
ấy có đặc tính cá tính riêng, như Trọng là một người con trong gia đình quan
lại với suy nghĩ và hành động đặc sệt tiểu tư sản, như Tôn Xương Linh, người
Tàu nhưng mang dòng máu của một qaun đại thần triều Nguyễn lưu vong Việt và có
suy tư của người Việt Nam bị đẩy vào trong một vai trò tình báo quốc tế thành
viên của phái đoàn OSS của đại tá Patti. Từ hoàn cảnh cá nhân riêng đến cảnh
ngộ chung của dân tộc, mọi nhân vật đã đi vào trong những con đường bị làm tay
sai cho các thế lực ẩn mặt của các siêu cường. Có thể họ có tâm tính của cách
mạng lãng mạn như Trọng nhưng họ cũng có thể có cái máu lạnh lùng vô hồn vô cảm
của Lâm Trọng Ngà, một chỉ huy công an Cộng sản. Những nhân vật ấy, trong những
khúc quanh khốc liệt của lịch sử đã được mô tả với tư cách chứng nhân cho một
thời kỳ mang nhiều bí ẩn và những hiện tượng khó có thể giải thích nhưng đã xảy
ra.
Viết về
những chặng đường mà tác giả đã sống, Nguyễn Mạnh Côn mang những kinh nghiệm
của chính bản thân để gửi một thông điệp cho các thế hệ sau về những lỗi lầm
của những người đi trước đã tạo ra những hậu quả về sau nghiêm trọng. Cái lạnh
lùng vô cảm của những người theo chủ nghĩa Cộng sản duy vật có thể giúp họ
chiến thắng trong đoản kỳ nhưng sẽ là cội nguồn thất bại về sau trong trường
kỳ.
Khi miền
Nam Việt Nam bị sụp đổ vào năm 1975, Nguyễn Mạnh Côn bị chế độ hiện hữu trả
thù, bắt giam và ông chết trong tù sau khi bị hành hạ vô cùng dã man về cả tinh
thần lẫn vật chất. Khi chống lại chế độ Cộng sản, ông là một người tiên đoán
khá chính xác sự sụp đổ của chế độ ấy nhưng đáng tiếc là ông không còn sống để
chứng kiến sự suọ đổ ấy trên toàn thế giới. Suốt cuộc đời ông, mải miết đi tìm
con đường lý thuyết làm chủ đạo cho công cuộc tranh đấu từ những kinh nghiệm
của mình. Chủ nghĩa Cộng sản không thể chấp nhận được vì với biện chứng pháp
con người không còn là một con người nhân bản nữa mà chỉ là một phương tiện để
vận động cho một mục đích không tưởng.
Một tác
phẩm khác của Nguyễn Mạnh Côn cũng gây được sự chú ý của văn giới. Đó là “Kỳ
Hoa Tử”, câu chuyện tình của một cô gái người Nhật Bản yêu một chàng trai Việt
Nam đang lưu lạc ở Trung Hoa. Kỳ Hoa Tử theo người yêu về Việt Nam trong lúc
đang có cuộc kháng chiến chống Pháp. Bề ngoài thì tất cả lực lượng quốc dân đều
tham gia vào cuộc chiến giành độc lập tự do cho đất nước nhưng thật sự bên
trong thì những người đi theo chủ nghĩa của những người quốc tế vô sản đang nắm
quyền lực và dùng đủ mọi phương cách để thực hiện cuộc cách mạng đấu tranh giai
cấp. Trong âm mưu ấy, họ phải quét sạch những người mà họ cho rằng sẽ làm trở
ngại cho công việc mà họ đang thực hiện. Một chướng ngại cản đường ấy là Hồ
Tùng Mậu và quyết định phải giải quyết bằng mọi giá. Họ kết tội phản động và
tạo dựng những chứng cớ buộc tội. Một nhân chứng dùng để vu khống và kết tội là
chàng trai yêu nước đó. Là một đảng viên trung kiên, chàng không thể nào trái lệnh
dù biết rằng công việc ấy không hớp lý và vô đạo đức. Kỳ Hoa Tử thấy những hành
vi như vậy và tình cảm thay đổi theo. Thế là cuộc tình bị tan vỡ. hai người xa
nhau với tất cả nỗi đớn đau. Những tâm tình lãng mạn thơ mộng đã được thay thế
bằng những tình cảm hận thù. Và, kết cuộc là tang tóc, đổ vỡ, chia ly…
Viết Kỳ
Hoa Tử, ông cũng dùng những sự thực trải qua trong đời để tạo cho câu chuyện kể
có sự sinh động và hợp lý. Tuy có lúc mang suy nghĩ chủ quan của mình vào trong
sự kiện làm cho truyện chậm lại nhưng lại chuyên chở được những trao gửi kèm
theo. Kỳ Hoa Tử là một cô gái Nhật và yêu một chàng trai người Việt trên đất
Trung Hoa. Cô theo người yêu về nước và tham gia kháng chiến chống Pháp. Nhưng,
định mệnh xui khiến, lúc đó Cộng Sản đang xúc tiến kế hoạch cách mạng vô sản
bằng đấu tranh giai cấp và bằng mọi giá phải dẹp tan tất cả những người có thể
là chướng ngại vật cho kế hoạch ấy. Một người cần phải dẹp bỏ là Hồ Tùng Mậu mà
đảng coi là chướng ngại nguy hiểm nhất. Cộng đảng bèn ngụy tạo ra tội phản động
và gán cho Hồ Tùng Mậu. Chàng trai Việt bị bắt buộc đứng ra tố cáo trước tòa
án. Vì là một đảng viên trung tín nên phải tuân lệnh. Vì thế, cuộc tình trai
Việt gái Nhật tan vỡ với bao nhiêu tang tóc thảm kịch.
Nguyễn
Mạnh Côn là người có sở học rộng nên ông hay tìm kiếm những đề tài gây bất ngờ
cho độc giả. Ông viết huyền truyện phối hợp vời truyện giả tưởng để đào sâu vào
cõi tâm linh con người.
“Truyện
Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn” là một truyện khoa học giả tưởng mà tác giả đặt
trên căn bản của thuyết tương đối của Einstein về kích thước thứ tư của không
gian. Ông giải thích theo lập luận của ông: “cái nhầm của cổ nhân coi vạn vật
chỉ có bề dài, bề rộng, bề sâu, tưc 1là chỉ có ba kích thước mà không biết rằng
sở dĩ người ta chỉ trông thấy ba kích thước ấy là nhờ có ánh sáng. Tùy sức ánh
sáng đi nhanh hay chậm, tùy con đường từ ta đến cảnh vật xa hay gần mà ta tức
khắc trông thấy vạn vật hay chỉ trông thấy dần dần… Cảnh vật chung quanh ta
tưởng rằng nhất định như thế mà thật ra có thể đổi khác (thấy không khác vì vận
tốc ánh sáng ở cõi ta là một hằng số không đổi). Einstein đã biết rằng khi một
vật di động càng nhanh càng tới gần tốc độ của ánh sáng thì thời gian và không
gian hỗ tương ảnh hưởng vào nhau sẽ uốn cong lại chung quanh cái vật di động kia.
Sự uốn cong này chính là cái kích thước thứ tư…”
Nhân vật
trong truyện là bác sĩ Mai, nữ trợ tá Kiên Trinh và hạ sĩ Khang thuộc binh
chủng nhảy dù trong một phi vụ ở gần biên giới Trung Hoa thì máy bay bị bắn hạ
và đâm nhào xuống đất. Trong giây phút ấy họ bị bất tỉnh và tình cờ lọt vào một
vùng không gian năng lực phi thường với vận tốc cao gần với tốc độ của ánh
sáng. Và như vậy họ lọt vào vũ trụ có kích thước thứ tư. Ở nơi chốn này họ gặp
Lưu Thần và Nguyễn Triệu của truyện tích từ ngàn năm xưa cũng vì một cơn bão có
tốc độ khủng khiếp thổi tới và cùng lạc vào vũ trụ có không gian bốn chiều như
ba người lính nhảy dù này. Và chốn này có thể gọi là Thiên Thai, với thời gian
đứngbim bất động và cảnh sắc thì có nét của miên viễn nên rất tuyệt vời. Ở đây
có những bộ máy kỳ diệu có thể điều chỉnh tốc độ ánh sáng để đưa con người vào
quá khứ hay tương lai.
Bác sĩ
Mai và nữ trợ tá Kiên Trinh muốn ở lại Thiên Thai trong khi hạ sĩ Khang thì
muốn trở về qúa khứ. Anh trở lại thế kỷ thứ 18 ở thành Thăng Long và tình cờ
cứu sống Vua Quang Trung. Sau Khang giúp Vua Quang Trung đánh quân Tàu đòi lại
Lưỡng Quảng hai tỉnh. Với kiến thức của thế kỷ 20 đối đầu với quân tàu ở thế kỷ
18 nên Khang đã giúp vua Quang Trung chiến thắng. Nhưng quân dân Tàu áp dụng
tiêu thổ kháng chiến cũng như du kích chiến nên chiến thắng không toàn vẹn và
Khang thấy rằng tham vọng đất đai là mù quáng.
Khi tỉnh
dậy, thì Khang mới biết rằng chỉ trong giây phút ở vũ trụ của không gian bốn
chiều nhưng là mấy đời sống ở trần thế… Kiên Trinh cũng có lúc tìm về dương
trần nhưng vô cùng đau khổ khi biết người chồng là hạ sĩ Khang đã lấy công chúa
Ngọc Chân em công chúa Ngọc Hân. Bác sĩ Mai thì nhớ quê hương, tưởng vọng về
những nơi chốn của Hà Nội đất Bắc xưa. Cả ba người lính nhảy dù này sống lạc lõng
bên lề cuộc sống.
Trong
truyện, Nguyễn Mạnh Côn đã dùng rất nhiều kiến thức về khoa học, về toán học,
về lịch sử, về triết lý. Chính vì vậy, thành ra tác phẩm đâm ra nặng nề, nửa
biên khảo nửa tiểu thuyết. Vì chứa đựng qúa nhiều chi tiết, dù rằng đã cố gắng
dung hòa giữa khoa học và văn chương, nhưng bố cục truyện hơi nặng nề và diễn
biến câu chuyện cũng ít có chất tự nhiên.
Nhà văn
Nguyễn Mạnh Côn còn có tham vọng lập thuyết, dùng văn chương để chuyên chở ý
tưởng. Ông nghĩ về thuyết Tân Trung dung, viết “Mối Tình Mầu Hoa Đào” và “Hòa
Bình… Nghĩ gì? Làm gì?”
“Mối Tình
Mầu Hoa Đào” là truyện chàng thanh niên đi tìm lý tưởng say mê như tìm một
người yêu quàng khăn mầu hoa đào. Chàng đi tìm mầu hoa đào trong mọi người và
mọi cảnh. Thất vọng ngoài kháng chiến chàng về vùng quốc gia, để rời khỏi đơn
vị của người Pháp. Công việc tìm kiếm vẫn tiếp tục. Chàng vào Nam, gặp người
bạn trẻ, bàn luận chuyện lên đường. Những câu đối thoại, như một chia sẻ giữa
hai thế hệ để gợi ý về những hành trang mang theo khi khởi sự đi vào con đường
suy tưởng.
Mối tình
mầu hoa đào tưởng chỉ giản đơn trong biên giới của địa lý hay những phạm vi
thực tế gợi ra từ đời thường. Nhưng Chàng muốn đi xa ra khỏi những khuôn khổ
chưa bao la ấy thành ra thất vọng và cô đơn đã dần dần chiếm lĩnh tâm hồn. Ngôn
ngữ, có khi để biểu tỏ ý tưởng nhưng sự diễn dịch sai nên lời nói nhiều khi bị
hiểu chệch hướng và không giúp gì cho cuộc đối thoại để tìm chân lý. Có lúc
Chàng nói chuyện với tiếng vọng, không biết xuất xứ từ đâu để quên đi những rối
loạn và cô đơn khi đối thoại với con người. Nguyễn Mạnh Côn lập thuyết như Hồ
Hữu Tường lập thuyết, có phải tận dụng những kiến thức khoa học và toán học để
mong lý giải một cách có hệ thống những quy luật của cuộc sống hầu có thể áp
dụng để tạo một đường hướng chủ đạo cho cuộc sống. Xem ra, cũng chỉ là một cố
công…
Viết “Hòa
Bình… Nghĩ Gì? Làm gì?” để phổ biến lý thuyết Tân Trung Dung cũng là một cố
công khác với những tượng hình lý thuyết có vẻ nhiều chất lãng mạn mà ít chất
thực tế. Đem một lý thuyết để áp dụng vào thực tế Việt Nam khi chiến tranh vẫn
còn ác liệt và hòa bình chỉ là những hình tượng giả tạo, là một sửa soạn cho một
cuộc chiến cuối cùng khốc liệt. Và ông cũng chưa làm cho độc giả hiểu rõ rệt và
mạch lạc lý thuyết Tân Trung Dung như thế nào dù ông đã viết trong đoạn cuối
của “Hòa Bình… Nghĩ gì? Làm gì?”: “Như vậy, bạn đọc dù không đọc được cả phần
lý thuyết thì ít ra cũng kiểm chứng được qua những căn bản về Trời, Đất, về
Cha, Mẹ, về đào tạo lương thực, về cách kết hợp lứa đôi và nuôi dạy con cái, về
sự xây dựng sự nghiệp bằng cách trau dồi kiến thức không ngưng nghỉ về nghệ
thuật, khoa học và kỹ thuật, về suy tư triết học và xây dựng tương lai…”
Nguyễn
Mạnh Côn (1920-1979) mất ngày 1 tháng 6 năm 1979. Cộng sản đã hạ đòn thù và
hành hạ ông cho tới lúc chết. Nhà văn Nguyễn Triệu Nam đã kể lại về cái chết
của ông:
“Trước
hết nhà văn của chúng ta đã không đáp ứng đúng yêu cầu của Cách mạng(?) Anh chỉ
ôn lược những việc đã làm. Kể lại nội dung từng sáng tác. Chớ không tự lên án
mọi hoạt động nói chung của mình. Có nghĩa là anh không nhận tội. Một tên quản
giáo nó hỏi anh: “Mày viết phản động đến như vậy mà còn cho là không có tội ư?
Vậy mày có biết rằng Cách Mạng chỉ giam giữ mày một thời gian nào đó thôi rồi
tha cho mày về hay không? Chứ giữ mày ở lại làm cái gì cho tốn cơm tốn gạo “Vậy
các ông muốn tôi phải làm cái gì đây?”- Sẽ có người hướng dẫn cho mày. Y nói
xong là bỏ đi. Hôm sau có một tên làm dịch vụ đả thông. Nom lạ hoắc. Không biết
gã ta làm nghề ngỗng gì ở ngoài đời. Gã cầm trên tay một bịch ni lông trong
suốt. Cố ý giơ lên cho đối tượng nhìn thấy bên trong có những gói mỏng nhỏ. Thì
ra là thuốc phiện quết, cô lại như thế thuốc cao. Chỉ nuốt chửng, xài đỡ khi
thiếu bàn đèn. Gã lải nhải bên tai nhà văn một chập lâu. Đại ý thuyết phục như
vầy: “Anh nên thành khẩn viết một bài kiểm điểm nhận mình có tội. Giờ ăn năn
hối hận, hứa với Đảng sẽ đổi mới tư tưởng, sẽ chuyển hướng sáng tác. Nếu anh
chịu tuân hành nghiêm chỉnh pháp lệnh của nhà nước thì chác chắn anh được trả
tự do đúng thời hạn. Thuốc đây hãy xài tạm hầu phục hồi sự minh mẫn cho trí óc.
Đừng khí khái hão mà chuốc họa vào thân làm khổ cho vợ con. Ngộ biến tòng quyền
là cách xử lý khôn ngoan của người biết tùy thời lựa thế mà sống, anh ơi! Gầy
còm tong teo như anh chịu đòn sao thấu… Nguyễn Mạnh Côn đã thẳng thắn trả lời:
“Ông cứ việc báo cáo lại với chúng nó về tất cả những gì tôi nói. Tôi không tôn
thờ cái chủ nghĩa Cộng sản mà tôi đã dí xuống chân ấy được. Tôi không bẻ cong
ngòi bút, tôi không làm văn nô được. Đừng hòng dùng á phiện mà lung lạc tôi.”
Việc gì phải đến đã đến. Nhà văn của chúng ta đã tự sát. (1)
Bằng cách nào, không nghe rõ chi tiết. Chỉ
biết, trước ngày anh quyên sinh, anh gặp Trưởng Trại mà hỏi y: “Cách Mạng công
bố là chỉ giam tôi có thời hạn. Sao đã qúa hạn mà không thả?” tên cai ngục cười
gằn và bảo: “Nói dễ nghe nhỉ? Mày ngoan cố quá, cứng đầu quá mà. Mày đã nhận
tội đâu mà đòi nhà nước tha cho mày”.
Kẻ thù
chưa kịp hạ thủ thì anh đã chết rồi. Anh đã chết vinh và bảo toàn được tiết
tháo và danh dự của kẻ sĩ. Là một kẻ sĩ uy vũ bất năng khuất anh đã không” lạc
đường vào lịch sử” như một nhân vật của một truyện anh viết. Trái lại anh đã đi
thẳng vào lịch sử với tư cách của một chiến sĩ tiền phong chống Cộng trên mặt
trận văn hóa.”
Nguyễn
Mạnh Trinh.
(1) Nguyễn
Mạnh Côn bị hạ nhục bắt kiểm điểm trước toàn trại và đưa sang đội hình sự, sau
chết bệnh ở đó theo nhân chứng Đặng Hoàng Hà tiết lộ
Popular posts from this blog
NẶC NÔ HOÀNG LAN CHI: TU ĐI ĐỂ TRÁNH “TỬ VÔ ĐỊA TÁNG” Lênh đênh qua cửa Thần Phù Khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm Điều bất hạnh nhất cho một con người là không tự biết hoàn cảnh của mình, không biết khả năng của mình, không biết sự bất hạnh của chính mình trái lại cứ đi nói nhăng nói cuội về những sự việc, con người mà bản thân mình chẳng có chút hiểu biết rồi tự biến mình thành một thứ nặc nô, hạ tiện nhưng vẫn ôm trong cái tôi hoang tưởng, bộ não tật nguyền những chuyện lắt nhắt, vặt vãnh quê mùa lạc hậu tự cho đó là giá trị ..quê mùa. Nhắc tới Đinh Thị Quỳnh Giao – Hoàng Lan Chi – Trương Duy Linh – Kiến Vàng chủ nhiệm báo Túm – Hoàng Ngọc An v.v. thật sự tôi thấy quá tội nghiệp nhất là khi thấy bà già này gắng gượng lên gân để viết về Kim Âu vốn là một người mà có thời bà ta đã bám riết lấy như một cái phao để nổi lên trong trào lưu tranh đấu vào những năm 2005- 2008 tại Virginia, Washington DC. Thời kỳ đó một tuần bảy ngày thì Hoàng Lan Chi điện thoại cho Ki
Comments
Post a Comment