HAI CHỮ ANH HÙNG
(CHUYỆN KHỞI ĐẦU TỪ HAI BÀI ĐƯỜNG THI)
Nguyên
Lạc
BÀI
THƠ DỊCH THỦY
TỐNG BIỆT
Bắt đầu từ bài
thơ tiễn đưa KINH KHA qua sông Dịch đi
hành thích TẦN THỦY HOÀNG:
“Phong
tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn,
Tráng
sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn.”
Dịch:
Gió
hiu hiu hề sông Dịch lạnh
Tráng
sĩ một đi hề không trở về.
Lạc Tân
Vương đã viết bài thơ: “Dịch Thủy Tống Biệt”:
Dịch
Thủy Tống Biệt
Thử địa biệt Yên
Đan
Tráng
sĩ phát xung quan
Tích
thời nhân dĩ một
Kim
nhật thủy do hàn.
(Lạc Tân
Vương – đời Đường)
Tiễn
Biệt Trên Bờ Sông Dịch
Đây
chỗ biệt Yên Đan
Tóc
dựng khí căm gan
Anh
hùng xưa đã khuất
Nước lạnh hận chưa
tan.
(NGUYỄN HIẾN LÊ
dịch)
Đất này
ly biệt Yên Đan
Giận
run; tráng sĩ, mặt ran; tóc xừng!
Lận dao
trủy thủ, lên đàng
Ngày
này Sông Dịch, ngổn ngang lạnh hoài!
(Laiquangnam
dịch)
VẤN
ĐỀ KINH KHA
Kinh
Kha đi hành thích Tần Thủy Hoàng là chuyện có thật
trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. Anh hùng hay không đang trong vòng bàn cãi !
Rất nhiều người khen ông ta, nhưng Nguyên Lạc tôi
không nghĩ vậy. Nhân vật này rất tầm thường nếu so
với các anh hùng Việt Nam. Tại sao
chúng ta người Việt lại ca tụng ông ta quá mức vậy?
Hãy
đọc kỹ sẽ thấy KINH KHA bất tài, vô trí; chỉ là một con
rối bị người mua chuộc, lợi dụng. Võ lược
cũng chẳng ra gì! Này nhé:
- Nguyễn Du chê bai Kinh
Kha.
Trong
SỬ KÝ của Tư Mã Thiên có chép:
“…Thái
tử Đan tôn Kinh Kha lên làm Thượng
Khanh, xây một biệt thự đối diện với biệt thự Phàn Ô Kỳ, gọi là Kinh Quán để Kinh
Kha ở. Thái tử Đan ngày ngày đến thăm, cung phụng
đúng mức, hiến đủ thứ, ngựa xe và gái đẹp.
Hôm
nọ Kinh Kha cùng Thái tử Đan đi chơi ở Đông
Cung, thấy dưới ao có con rùa lớn nổi lên. Kinh Kha nhặt
viên ngói ném rùa, Thái tử Đan liền lấy thoi vàng đưa Kinh Kha thay viên ngói. Một hôm
hai người cùng thi cưỡi ngựa, Thái tử Đan
có con ngựa quí đi ngàn dậm. Kinh Kha bỗng
nói:
–
Gan ngựa ăn ngon lắm.
Thái
tử Đan lập tức giết ngựa lấy gan cho Kinh Kha ăn. Thái tử Đan
lại giới thiệu Phàn Ô Kỳ với Kinh Kha.
Lại một hôm
Thái tử mở tiệc đãi Kinh Kha ở Hoa Dương
Đài, có cho mỹ nhân hầu hạ, gảy đàn giúp vui. Kinh Kha thấy hai
bàn tay của mỹ nhân trắng muốt, thoan thoát chạy
trên những đường tơ, vội buộc miệng khen:
–
Thật là tay tiên. Đẹp làm sao !
Lúc
tan tiệc, nội thị dâng Kinh Kha một hộp ngọc. Kinh Kha mở ra
xem, thì đó là hai bàn tay của mỹ nữ mà Thái tử Đan sai chặt,
đem biếu Kinh Kha.
Kinh
Kha than:
–
Thái tử Đan đãi ta như thế ấy, dẫu chết cũng chưa trả được ơn sâu
!”
Ngày
nay đọc đoạn văn ấy, chúng ta không thấy xúc động như Kinh
Kha, mà nổi giận vì tại sao Thái tử Đan tàn bạo đến thế.
Thái tử Đan tàn bạo có kém chi Tần Thủy
Hoàng. Thủy Hoàng sai bỏ con của Lao
Ái và mẹ mình là Triệu Cơ vào bao, rồi đập chết,
còn có lý do. Thái tử Đan vì muốn Kinh Kha trả thù
cho mình, chỉ vì một lời khen bàn tay đẹp mà giết mỹ nhân
vô cớ, thật tàn bạo? Sao Thái tử Đan không tặng
Kinh Kha mỹ nữ, mà lại chặt tay mỹ nữ như con ngựa, con heo vậy? Đâu là lòng nhân ?!
Nguyễn Du
chê Kinh Kha không bằng Dự Nhượng. Dự Nhượng hy sinh thân mình báo thù cho chủ, còn
Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến
mình, và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm
lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ) đâu có hy sinh vì dân tộc, mà
hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của Điền Quang, của
Thái tử Đan. Hành động của Kinh Kha không có
Trí, mà chỉ vì Danh.
Không có lòng Nhân, mà chỉ có Bạo lực đối với Bạo lực. Cái Dũng của
Kinh Kha chỉ là cái dũng của kẻ bị mồi
ngon thừa mứa, cám dỗ mà hành động.
Đây
là trích đoạn bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần chê bai Kinh Kha.
Thần
dũng nghị nhiên duy độc quân.
Đồ đắc Điền
Quang khinh nhất vẫn.
Khả liên
vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ
đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất
triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm
Dương thiên tử chung nguy nguy.
(KINH
KHA CỐ LÝ – Thơ chữ Hán Nguyễn Du)
Liều
thân chỉ vì kẻ biết mình,
Huống được Điền
Quang tự đâm cổ.
Khá
thương Phàn Kỳ chẳng tội chi.
Đem
đầu cho mượn chẳng hoàn gì.
Một sớm chết oan
ba liệt sĩ.
Hàm
Dương, Thiên tử vẫn uy nghi.
(Nhất
Uyên dịch)
(Theo
Tiến sĩ Phạm Trọng Chánh)
- KINH
KHA võ lược tầm thường
Trong
SỬ KÝ của Tư Mã Thiên có chép:
[…
Tần Thủy Hoàng:
–
Lấy bàn đồ Vũ Dương cầm đưa lên đây.
Kinh
Kha dâng lên. Vua Tần lần mở ra xem, mở gần hết thì lòi chuôi con dao trủy thủ.
Kinh Kha thừa dịp, tay trái nắm tay áo vua Tần,
tay phải cầm trủy thủ đâm. Nhát đâm hụt. (hành động của
Kinh Kha không dứt khoát, thủ pháp không chính xác). Vua Tần hoảng sợ,
đứng phắt dậy, tay áo đứt rời. Vua Tần tuốt kiếm, kiếm dài
vướng vỏ. Lúc bấy giờ hoảng hốt, kiếm lại chặt quá nên không rút ra ngay được. Kinh Kha
đuổi theo vua Tần, vua Tần chạy
quanh cột trụ (vua trang phục thường rườm rà, nên không nhanh nhẹn vậy mà
Kinh Kha cũng không thể nào đuổi kịp, chứng tỏ thân pháp của Kinh Kha có vấn đề,
không linh hoạt). Bọn triều thần đều kinh ngạc, vì sự việc xảy ra
bất ngờ nên không ai giữ được bình tĩnh. Theo phép nước Tần,
các quan chầu trực ở trên điện không được mang theo binh khí. Các Lang
Trung cầm binh khí đều đứng sắp hàng ở dưới điện, nếu
không có chiếu gọi thì không được lên. Bấy giờ đang
lúc gấp, không kịp gọi những người cầm binh khí ở dưới. Vì
vậy Kinh Kha đuổi theo vua Tần,
các quan cuống quýt, không có gì để đánh trả lại, chỉ lấy tay
không mà đánh Kinh Kha. Lúc bấy giờ viên thầy thuốc đứng hầu, tên là Hạ Vô Thư, lấy túi
thuốc cầm trong tay ném Kinh Kha. Vua Tần cứ vòng
quanh cái cột mà chạy, cuống quýt không còn biết phải làm thế nào.
Bọn tả hữu nhắc:
–
Đại vương, đẩy kiếm ra phía sau lưng.
Vua
Tần đẩy kiếm ra sau lưng, tuốt
chém Kinh Kha, chặt đứt đùi bên trái. Bị thương, Kinh Kha phóng con dao trủy thủ, nhưng
không trúng vua Tần (lại thêm một chi tiết rất đắt giá phản ánh rõ nét nhất về thủ, cước pháp của
Kinh Kha, cứ cầm dao chạy theo, không hề có phản ứng của quyền cước),
trúng cái cột đồng (ngày nay trong các bức họa Kinh Kha thích Tần đều vẽ cây
trủy thủ ghim vào cột là thế).
Vua Tần chém tiếp, Kinh Kha bị tám
vết thương, tự biết công việc không xong bèn tựa vào
cột mà cười, ngồi xổm mà mắng:
–
Việc này không thành là vì ta muốn bắt sống nó
(lời nói rất ngạo mạn, khoác lác), buộc nó phải nhận lời trả lại các
đất đai đã chiếm của chư hầu, để ta được báo đáp Thái tử. ]
Qua
những lời trên, rõ ràng chúng ta thấy
Kinh Kha chỉ là tên khoác lác, võ thuật
tệ hại !
LUẬN
ANH HÙNG
“Anh
hùng là hành động của một
người vì đại cuộc
không xem sự sống chết
của mình là quan trọng tuyệt
đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc,
cho dù có phải chết thì vui lòng đón nhận.
Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm
thành công không nằm trong thuộc tính định
nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ
Heros trong các bộ Encyclopedia thì biết.
Đông Tây đều định nghĩa như
thế” (Laiquangnam)(1)
Suy
gẫm chuyện KINH KHA, ta thấy ông ta đâu phải là
người anh hùng. Như Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi
thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến
mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối,
hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn
bạo, phò người đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà
hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người khác.
Tại sao
ông ta lại được nhiều người làm thơ, hát ca để ca tụng, vinh danh?!
Anh
hùng là như Đặng Dung của VIỆT NAM ta đây:
Quốc thù
vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long
Tuyền đái nguyệt ma.
(Đặng
Dung)
Thù
trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài
bóng nguyệt biết bao rày.
Xin
mời các bạn tìm hiểu kỹ về vị ANH HÙNG đáng kính này cùng bài thơ CẢM
HOÀI (Nỗi niềm hoài bão) của ông. (1)
Mặc dù
vua Trần Giản Định Đế đã u mê giết tướng Đặng Tất, cha Đặng
Dung, thế mà ông vẫn vì nước
quên thù nhà, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại cuộc xâm lặng của Trương Phụ (tướng
nhà Minh)
Sử
liệu cho biết:
“Minh
Thành Tổ Vĩnh Lạc chỉ đạo cho Trương Phụ (năm
1406), trong lần xuất binh thứ hai, huy động 80
vạn quân dân binh các loại, quyết tâm
làm cỏ nước ta và xóa sạch đất nước này trên bản đồ thế giới.
Các
vị anh hùng (dưới sự lãnh đạo của Đặng
Dung) đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một
binh lực hơn hẳn mình. Có lúc họ cũng đã thắng
nhiều trận lẫy lừng, tưởng chừng như đã thắng, nhưng dài hơi thì cuộc đọ sức đã không cân sức. Than ôi! họ đã bại trận!.
Trên đường bị bắt đưa về Yên Kinh ( Bắc Kinh ngày nay) để làm
nhục, vua tôi Đặng Dung đã ca hát như
không có chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng sĩ một khi
họ đã toàn tâm toàn ý , hết lòng, hết sức vì
dân tộc. Đặng Dung, trong vai trò lãnh đạo cuộc
kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe khúc ca cảm
khái này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn sàng đón nhận mọi sự trả thù
tàn bạo của kẻ thù. Dân tộc ta đâu còn lạ gì sự tra
tấn đầy thú tính của người Tàu đối với dân
bị trị.
Sử kể rằng: Đặng
Dung vốn coi cái chết nhẹ như lông hồng,
ông thường ngâm vang cho các chiến hữu cùng nghe bài thơ này.
“Nhóm quý Ông” cùng nhau gõ ván thuyền giữ nhịp. Lính canh xem Họ khác
gì như cá nằm trên thớt, nay cam đành số phận. Họ
không còn mấy ngày trên thế gian. Bọn
lính canh lơ là và trở nên dễ chịu là
lúc “quý Ông” lập mưu, xin lính canh đựợc chút không khí để thở, do
bởi có người đang ốm. Bất ngờ, kẻ trước người sau, cùng nhào xuống biển từ trầm qua ô cửa vừa mở ra.
Một
thiên anh hùng ca lẫm liệt, một cái chết của một tập thể kiêu hùng trong dòng sử Việt. (Laiquangnam)(1)
Đây
là bài thơ CẢM HOÀI (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng
Dung.
Bài
thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự,
trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh
hùng trong cơn quốc nạn.
CẢM
HOÀI
Thế sự du
du nại lão hà
Vô
cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai
đồ điếu thành công dị
Vận khứ
anh hùng ẩm hận đa
Trí
chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy
binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù
vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long
Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm
dịch nghĩa
NỖI
NIỀM HOÀI BÃO
Thế sự mang
mang lại tuổi già
Thiên
hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu
cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua
anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết
lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đất
Rửa
giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù
nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao
thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.
Đặc biệt là
câu 3 và câu 4:
Thời lai
đồ điếu* thành công dị
Vận khứ anh
hùng ẩm hận đa
………..
*
đồ điếu: đồ là người đồ tể, chỉ Phàn
Khoái, chiến hữu của Hán
Lưu Bang; điếu là người đi
câu, chỉ Hàn Tín, đại tướng của Lưu Bang. Cả hai
giúp Lưu Bang xây dựng nhà Hán (dưới mắt Đặng
Dung cả hai đều là bọn bần tiện, đồ tiểu tốt)
………..
–
“Thời lai đồ điếu thành công dị”: Truong Phụ
thoát chết là nhờ may mắn khi Đặng Dung nhảy lên
thuyền cùng toán người nhái, vì nhìn không ra ai là Trương
Phụ nên hắn đã thoát.
Sử
liệu chép:
“Chuyện khó
tin trong binh sử thế giới, trường hợp hy hữu này duy chỉ có trong quân sử Đại Việt.
Khi vị tướng tư lệnh lại là cầm đầu toán người nhái cảm tử rất gọn nhẹ đánh
thẳng vào sào huyệt kẻ tử thù. Việc tổ chức đã
xong đợi ngày G sẽ đến. Cơ hội đến, vào tháng 9 được biết
quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, và kéo binh tập kết vào
ngã ba sông này để tổ chức cuộc săn đuổi vua quan Hậu Trần đang đóng quân ở trên
bờ. Quan thái phó Nguyễn Súy và quan đại tư mã Đặng
Dung nửa đêm chia quân đến đánh Trương Phụ.
Quan thái phó Nguyễn Súy dùng thuyền nhẹ đánh nghi binh, giặc
Minh trào về phía Nguyễn Suý, và thừa lúc
đó Quan tư mã Đặng Dung lao mình xuống nước trước, hơn mươi chiến sĩ cảm tử quân
lao theo sau. Họ bơi nhanh về phía thuyền lớn nhất,
sáng nhất trên sông. Từ dấu hiệu của Đặng Dung, bọn họ leo
lên được thuyền của Trương Phụ,
dùng đoản đao thịt lẹ các tên lính trên sàn. Họ nhào vào tên mập mạp nhất, phương
phi nhất và đã bắt sống tên này, lôi y xuống nước. Y
la lên. Do vì không biết thường ngày tên Trương Phụ mặc quần áo gì, do chưa thấy mặt kẻ thù
lần nào, nên họ đã bắt lầm. Thừa cơ Trương Phụ lập tức nhảy xuống sông lấy cái thuyền con
mà chạy thoát.”
(Laiquangnam)(1)
–
“Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”: Người Đại tư mã ,
Tổng tư lệnh mà chịu dẫn quân đi thích khách kẻ chỉ huy địch, xưa nay
trên chiến trường chưa hề có , đó là hành động anh hùng .
Xin
lập lại nghĩa hai câu trên:
Thời đến bọn đồ tể, bọn câu
cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua
anh hùng cũng đành nuốt hận
Chính
câu 3 và câu 4 trong nguyên tác đã gây biết bao nhiêu cảm xúc
cho người thời nay. Cụ Phan kế Bính năm xưa đã dịch:
Bần tiện gặp thời lên
cũng dễ,
Anh
hùng lỡ bước ngẫm càng cay. (Phan kế Bính )
Đặng
Dung cũng cho Trương Phụ, người đã thắng ông, và cả đất nước của Trương Phụ cùng là xứ sở bần tiện cực kỳ.” (2)
Vị anh
hùng của Việt Nam ta tài đức vẹn toàn như thế sao
chúng ta không hát ca để vinh danh, mà lại đi ca tụng một ông
“nước lạ” tầm thường!
Về chuyện các
vĩ nhân tầm cỡ quốc tế như NGUYỄN TRÃI (tiễn cha) (3) , BÀ TRƯNG
(trả thù chồng) (4) Trần Hưng Đạo (quên thù riêng), Lý Thường Kiệt (bản
hùng văn Hịch Tướng Sĩ)(5). v.v..chúng ta nên suy gẫm,
trân trọng và vinh danh.
HỌA
THƠ ĐƯỜNG
Từ bài
“Dịch Thủy Tống Biệt”, nhiều bạn thơ, trong đó có thi sĩ kiêm nhà bình thơ Diên
Hồng Dương họa, rồi thách Nguyên Lạc họa theo. Nguyên Lạc tôi
bắt buộc phải hoa lại. Đây là thơ họa:
Xin
được ghi lại nguyên tác
Dịch
Thủy Tống Biệt
Thử địa biệt Yên
Đan
Tráng
sĩ phát xung quan
Tích
thời nhân dĩ một
Kim
nhật thủy do hàn.
- Diên
Hồng Dương họa thơ:
Khứ niên
tráng sĩ biệt
Dịch Thủy hàn
căm căm
Kim
nhật vọng cố quốc
Bạch đầu tâm
bất trầm.
Anh
hùng xưa ra đi
Nước
sông Dich lạnh căm (*)
Hôm
nay nhớ cố quốc
Bạc đầu
lòng không an
(Nguyên
Lạc lược dịch)
- Nguyên
Lạc họa thơ:
Khứ niên
mạc sĩ biệt
Đông
hải hàn căm căm
Kim
nhật vọng cố quốc
Cố nhân
hề vô âm!
Kim
nhật vọng cố quốc
Cố nhân
… bất khả tầm!
CÙNG
SĨ xưa ra đi
Nước biển
Đông lạnh căm
Nay
nhớ về cố quốc
Người xưa giờ biệt tăm
Nay
nhớ về cố quốc
Người xưa …ơi nơi
nào?! (không thể tìm!)
(Nguyên
Lạc lược dịch)
- Họa thơ TÔ ĐÔNG PHA
- Thi
sĩ Nguyễn Hàn Chung:
“Vọng mỹ nhân
hề thiên nhất phương”
(Tô
Đông Pha )
(Ngóng
người đẹp trời chỉ một phương)
- Nguyên
Lạc họa thơ:
“Vọng cố
nhân hề địa đa phương
Mạc anh
hùng hề nhân vô phương !”
(Nguyên
Lạc )
Ngóng
người xưa đất nhiều hướng
Người anh
hùng khốn cùng không còn nơi nào để đi!
(Nguyên
Lạc lược dịch)
Chú
ý đến 3 chữ THIÊN, ĐỊA và NHÂN. Trời
trên, đất dưới và người ở giữa ( Quẻ CÀN)(6)
[
Quẻ CÀN là quẻ tốt, hạnh thông. Người
(NHÂN) mà không có trời (THIÊN), đất (ĐỊA) (trời đất =
QUÊ HƯƠNG) thì làm sao vui vẻ, hạnh thông (CÀN) được?! ]
Qua
trên, Nguyên Lạc tôi họa Đường thi chơi cho
vui cùng với bạn thơ. Tuy nhiên những dòng này cũng là tâm sự của kẻ tha
hương:
Kim
nhật vọng cố quốc
Cố nhân
hề vô âm!
Kim
nhật vọng cố quốc
Cố nhân
… bất khả tầm!
KẾT
Việt Nam
đã sống dưới “tầm phủ sóng”, dưới và trong cái “bóng mờ” của
Trung Quốc quá lâu rồi. Họ hưởng trọn những tia nắng ấm,
làn gió mát …; còn chúng ta, vì ở dưới, vì núp bóng nên chỉ “ăn
theo”, “ăn tàn”, chỉ “hưởng sái”(**). Cái “sái” này cũng không thơm tho
gì như ai cũng đã biết. Nếu không có chọn lựa, chẳng
thà hưởng “sái” của Phuơng Tây chắc còn
khá hơn nhiều! Tại sao không thoát ra ?
Hàn
quốc (Korea), Nhật (Japan) đã làm được, tại sao
Việt Nam ta không?! Họ đã THOÁT và bây giờ là
ÔNG CHỦ của công nhân Trung Quốc. Đất nước họ thế nào chắc ai
cũng rõ !
Còn
Việt Nam thì sao?
Xin
các bạn hãy THOÁT TRUNG và trở lại với Việt Nam yêu dấu của mình! Tại sao
vẫn chịu mang cái VÒNG KIM CÔ mãi thế? Phải
tháo ra ! Phải vượt lên, chứng tỏ ƯU ĐIỂM riêng của VIỆT NAM
! Hãy THOÁT TRUNG !
Xin
nói rõ, chúng ta nên phân biệt giữa THOÁT TRUNG với BÀI TRUNG. Thoát Trung nghĩa là
chúng ta phải dùng trí óc phân tích cho kỹ, đừng
theo “chủ nghĩa bầy đàn”. Không phải cái gì của
Trung Quốc là hít hà khen ngợi , cũng làm răm rắp
theo. Phải chọn lọc, giữ lấy cái hay (nó là tài sản chung của
nhân loại) và loại bỏ cái dở, cái gì không hợp với Việt Nam.
Thoát
Trung không phải là Bài Trung, kỳ thị người dân Trung quốc. Chỉ những kẻ kém
hiểu biết mới làm việc nầy!
Rất
mong thay!
Nguyên
Lạc 2017
——————————————————————————————
————————
Tham
khảo: Sử Ký Tư Mã Thiên (bản dịch của
Nguyễn Hiến Lê), Đại Việt sử ký toàn thư, Laiquangnam, TS Phạm Trọng
Chánh, Nguyễn Đức Ngọc Phương, Thi Viện, Wikipedia…
Ghi
chú:
(*)
“căm căm” là tiếng Nôm, hai chú DHD định dùng là “băng băng” đưa vô
thơ không hay nên DHD đọc luôn căm căm nghe se sắt hơn. Và
xét về âm thanh cũng gần nhau ! NL đùa DHD nên dùng “căm
căm” để họa. Đúng ra là “lẫm lẫm” [凛凛, lẫm lẫm là lạnh lắm lắm , rét căm căm ]
(**)
Sái: dùng theo nghĩa “Sái thuốc phiện”: phần chất đen còn lại khi người ta
đã hút hết thuốc (hút hết cái tốt,
cái ngon)
(1)
LUẬN ANH HÙNG
(2)
Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) – Đặng
Dung:
(3)
Khi cha (Nguyễn Phi Khanh) bị giải sang Trung Quốc,
Nguyễn Trãi đã theo cha lên cửa ải và tỏ ý muốn đi
theo hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khánh không đồng ý và khuyên ông nên về lo cứu nước báo
thù nhà. Sau NGUYỄN TRÃI đã giúp LẼ LỢI đánh tan quân Mình,
giành độc lập cho đất nước. (Wikipedia)
(4)
Do chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà
Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời, các Lạc tướng người Việt
liên kết với nhau để chống lại nhà Hán. Trưng Trắc kết hôn với con
trai Lạc tướng ở Chu Diên là Thi Sách, hai nhà cùng có chí hướng chống
Hán. Khoảng năm 39-40, nhằm trấn áp người Việt chống lại,
Thái thú Tô Định giết Thi Sách.
Trưng Trắc và
các Lạc tướng càng căm thù, cùng Trưng Nhị mang quân bản bộ về giữ Hát
Giang nay là xã Hát Môn huyện Phúc Thọ, Hà Nội.
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc
cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi
nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội
quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ. Quân Hai Bà đánh hãm trị sở Luy
Lâu. Tô Định phải chui trụ đồng trốn chạy về Trung Quốc.
Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng.
Hai bà lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm
vua, xưng là Trưng Nữ Vương (hay Trưng Vương).
(Wikipedia)
(5)
Hịch Tướng Sĩ – Lý Thường Kiệt
(6)
Nguyên Lạc – Quẻ Dịch: Cách Lập Và Giải
Đoán
Comments
Post a Comment