CON
NGƯỜI HAY SÚC SINH
NHÂN
CÁCH NHÀ VĂN
VIẾT
TRUYỆN NHI ĐỒNG
NHẬT
TIẾN
I - Con người hay súc sinh
Hơn một tuần
qua một số diễn đàn bị tràn ngập một số lượng rác rưởi từ hàng chục năm
trước cho đến gần đây do Michael Bùi con nhà văn Bùi Nhật Tiến - một nhà văn nổi
tiếng viết truyện cho trẻ con đồng thời cũng là chủ biên của một tờ báo nhi đồng
thời Việt Nam Cộng Hòa tung lên. Số lượng bài viết rác rưởi đó toàn bộ
chuyện cổ tích, thần thoại và tiểu sử hư cấu về ông Kim Âu Hà Văn Sơn, có
cả những bài viết của nhiều người từng chửi bố cậu Michael Bùi như Nguyễn Thiếu
Nhẫn, Trương Minh Hòa.
Có một ông bạn ngạc
nhiên hỏi tôi: Sao lại có tên nào hành động lố bịch như vậy ông Kim Âu. Thằng
này sao nó có vẻ thù hận ông dữ thế?. Để giài thích hiện tượng văng bùn, ném
rác tứ tung vừa nói tới, chúng tôi đăng nguyên văn lá thư của nữ phê bình gia
Nguyễn Tà Cúc gởi tới dưới đây.
Trích
Thư Nguyễn Tà Cúc
Về: Thư gửi âm binh của bọn
gian nhân hiệp đảng
Anh Kim Âu,
Tà
Cúc đã thấy một loạt thư tương tự chửi rủa anh, như cái thư này. Vì anh đăng
bài Tà Cúc mà xẩy ra sự thể đó, Tà Cúc xin phép anh cho Tà Cúc có vài lời bàn
và xin anh giúp chuyển đi bằng hệ thống forum của anh.
Trước
hết, Tà Cúc không ngạc nhiên. Anh nói đúng: đến bây giờ cả Nhật Tiến lẫn Kiều
Phong đểu chưa trả lời được Tà Cúc [hay Viên Linh] dù được nhiều cơ hội để phản
bác. Hơn thế nữa, họ còn can thiệp với một vài diễn đàn nhắm không cho Tà Cúc
quyền cải chính. Nhưng anh đã cho bài Tà Cúc một cơ hội để xuất hiện. Bởi thế,
khi họ không thành công sau khi đã sử dụng những thủ đoạn đó mà nay còn bị rơi
vào thế thụ động, thì họ phải tấn công đê mạt hơn. Đây là giai đoạn đó. Trước hết,
họ sẽ chửi rủa bằng những chữ dơ bẩn để người bị tấn công thương tổn, chịu
không thấu và đầu hàng. Thứ hai, họ gieo nghi ngờ để chia rẽ những người làm việc
chung hay đang giao dịch với nhau để anh chị em tự động tan rã, nghĩa là không
thể hợp sức chống lại họ.
Đó là lý do tại sao bây giờ xuất hiện những bức thư bịa đặt
kể xấu anh hay chửi rủa Tà Cúc. Dĩ nhiên không ai nao núng gì nhưng cũng nên dậy
cho họ một bài học để đỡ xấu mặt người Việt: Chúng ta không có cái thói chửi bới
hạ cấp đê mạt như thế. Gia đình họ đã giáo dục họ ra sao để họ có thể vu vạ và
chửi bới người khác tàn nhẫn như vậy? Thường ngày họ có ...mặc quần áo khi ra
đường không mà sao nay lại phơi cái-con-người trần trụi bất lương cho mọi người
chứng kiến?
Vì vấn
đề ở đây không phải là Nguyễn Tà Cúc hay Viên Linh hay thậm chí, Kim Âu Hà Văn
Sơn, mà vấn đề ở đây vẫn là tại sao Nhật Tiến ứng xử như thế trước và sau khi rời
Miền Nam, nhất là về vụ lấy tài liệu của một bộ sưu tập từ Hà Nội mà chối cãi?
Có
phải chính vì thế, chính vì bây giờ sau những chứng cớ rõ ràng ấy trên Chính
Nghĩa của Kim Âu Hà Văn Sơn mà họ phải chuyển sang lối tấn công tệ hại này?
Để
người ta sợ, mà không dám bênh vực hay giúp đỡ Tà Cúc nữa?
Vấn
đề ở đây là tại sao Lê Tất Điều viết ra được những lời đểu cáng tởm lợm đó?
[Người
độc giả này tự xưng là đàn bà thì nghĩ sao về việc "ấy cho vào mồm"
[nguyên văn Kiều Phong]?!]
Vấn
đề ở đây là tại sao Ngô thế Vinh vu oan cho nhà văn/dịch giả Mặc Đỗ là
"quy ẩn", ngang nhiên xóa 15 năm ông cộng tác với tạp chí Khởi Hành?
Đấy,
những vấn đế đó mới cần mổ xẻ và dĩ nhiên, cho tới nay, ba chàng ngự lâm mà
không pháo thủ này vẫn chưa trả lời được Nguyễn Tà Cúc.
Để
chấm dứt, Tà Cúc xin có lời khuyên những kẻ ra đường-không-y-phục rằng: Chớ có
đụng vào võ lâm cao thủ mà có ngày xấu hổ chạy không kịp. Cái lối --tự xưng là
phụ nữ--mà ăn nói bẩn thỉu dơ dáy hạ cấp đó, không nên đâu. Tà Cúc sẽ cho một
thí dụ: người này nói rằng "Tôi cũng phận đàn bà như cô, cũng ly dị, nuôi
4 con, nhưng hơn cô là lúc nào cũng có người tâm sự, biết rất nhiều chuyện trên
làng Net..."
Nếu
gặp một tay tai quái, họ sẽ hỏi lại như sau: "nuôi 4 con" nhưng 4 con
1 bố hay 4 con mà 4 , 5, 6, 7, 8, 9, 10 bố?! Bị một chùy như thế là 1-0 rồi, rất
khó mà gượng để đấu tiếp Hồi 2.
Đó
là lý do chớ bao giờ nhục mạ người khác một cách vô cớ, nhắc tới những chữ
"đĩ điếm " không cần thiết vì nó rất dễ bật trở lại vào mặt mũi kẻ
tung ra đầu tiên.
Còn
cái sự "nhưng hơn cô là lúc nào cũng có người tâm sự, biết rất nhiều chuyện
trên làng Net..." vv và vv thì quả thật là "hơn " rồi vì Nguyễn
Tà Cúc không phải ai cũng bạ ai tâm sự và từng được Lô-Răng Phan Lạc Phúc tặng
cho danh hiệu "quả giao" [nghĩa là trái với "quảng giao"] . Hơn thế nữa, NTC còn mang tiếng "the
most reclusive researcher of " Văn học Miền Nam đấy. [Không tin cứ hỏi Bùi
Nhật Tiến sẽ rõ.]
Còn "biết rất nhiều chuyện trên làng Net
" để làm gì thế? Để chửi bới người này người khác với cái giọng mất gà ấy
à? ! Thay vì để thì giờ lo cho 4 con? Thế nên, thôi, xin đừng nhận vơ
"như cô" ở đây, khôi hài quá. Không dễ mà được "như cô"
đâu.
Kết cục thì vẫn là nhiều điểm mà --như loạt thư
này cho thấy-- có một điểm ông Bùi Nhật Tiến chưa hay không trả lời được. Đó là
về vấn đề ông lấy tài liệu Tin Sách Số 39 của Nguyễn Tà Cúc mà ông chối
cãi.CHÍNH ÔNG phải trả lời cho anh em nghiên cứu, CHÍNH ÔNG phải trả lời cho
Nguyễn Tà Cúc, CHÍNH ÔNG phải trả lời cho độc giả và văn hữu chứ không thể
đẩy cho ai khác vì ông chính là người mượn tài liệu này. Tà Cúc không nhận một
sự "trả lời" từ ai khác vì, tội nghiệp thay, họ có mượn đâu? Nhưng họ
cũng chẳng nên vu cáo tà cúc vì còn độc giả. Và ông Trời nữa. Nhưng phải chăng
Bùi Nhật Tiến biết-tự ông-là sẽ không trả lời được vì cái mấu chốt nằm ở ngay
trong sách của ông.
Mấu chốt của sự không-thể-chối
-cãi được là trang 39 [một con số tiền định] trong cuốn Từ Nhóm Bút Việt đến
Trung Tâm Văn Bút VN (1957-1975), nơi Bùi Nhật Tiến đã bất cẩn đăng lại hình
bìa tờ Tin Sách Số 39 đầy vết ố xước từ Bộ Sưu tập Hà nội do NTC chuyển và hình
MÀU trên blog mặc dầu đúng một năm sau, ông đã viện đến bản đen trắng sao chép
của hai ký giả tại Việt Nam hầu dễ lấy cớ qua mắt độc giả không mua sách; nhưng
cái mấu chốt với vết ố rất giống hình một trái tim [hay một con mắt?] vẫn còn
trong trang sách 39 ấy . Ông chỉ còn một cách bào chữa rất yếu ớt là ông có bản
TRẮNG ĐEN của 2 ký giả sao chép cho ông sau này và bởi thế, ông đã sử dụng nó
vv và vv
Nhưng điều đó vẫn không giải
thích được tại sao TRANG 39 trong sách ông lại Y HỆT NHƯ TÀI LIỆU CỦA
Nguyễn Tà Cúc. Điều đó cũng không giải thích được tại sao cho đến nay, Bùi Nhật
Tiến chưa từng thú nhận đã được chuyển tài liệu Tin Sách Số 39 của NTC qua
email vào giữa tháng 8, 2015, MỘT NĂM TRƯỚC KHI CÓ TÀI LIỆU TỪ VN Thế
nên, cứ dở sách của ông Bùi Nhật Tiến ra mà so sánh TRANG 39 với cái hình bìa
TS của NTC, cần gì phải vật mình vật mẩy, đòi lôi hết người này người khác ra
làm chứng?! Người chứng mà quý vị cần là chính ông Bùi Nhật Tiến và cuốn sách
có trang 39 trong nhà ông ấy. Như đã nói, NTC sẵn sàng cho Bùi Nhật Tiến một cơ
hội phản bác vì vẫn thương hại ông và vì lẽ công bằng, nhưng cho tới ngày đó,
NTC coi như vấn đế này chấm dứt ở đây.
Bởi thế, đừng tấn công NTC hay những người giúp
NTC --như anh Kim Âu--mà vô ích. Cũng đừng giãi bày hộ cho Bùi Nhật Tiến. Càng
vô ích. Càng giãi bày hộ, càng làm người ngoại cuộc bắt buộc phải đặt dấu hỏi về
bản lĩnh của ông ấy mà thôi.
Cảm ơn anh Kim Âu một lần nữa đã cho Tà Cúc
một chỗ để tự vệ.
-Nguyễn Tà Cúc
Hết
Trích
Qua lá thư thượng dẫn,
nguyên ủy dẫn tới hành động điên rồ của Michael Bùi con của Bùi Nhật Tiến là
website Chính Nghĩa đã đưa bài của Nguyễn Tà Cúc viết về việc Bùi Nhật Tiến sử
dụng tải liệu do Nguyễn Tà Cúc chuyển cho nhưng không ghi chú từ đâu lên và phổ
biến rộng khắp các diễn đàn năm châu. Kề bên đó Chính Nghĩa còn cho đăng bài
Nguyễn Tà Cúc phản bác lại Lê Tất Điều – gã nhà văn thiếu liêm sỉ khi chuyên dở
trò bẩn tấn công những người không có phương tiện tự vệ. – đánh người thì phải
cho người có phản ứng chứ cậy đông hiếp yếu, gian nhân, hiệp đảng dở thói bầy
đàn trói tay người phụ nữ mà đánh khác gì tội “cưỡng hiếp bằng loại văn dơ dáy,
đê hạ” mà 17 năm trước vì công đạo, chúng tôi đã có lời nhắc nhở hắn.
Để che chắn sai lỗi của
Bùi Nhật Tiến, tên Michael Bùi ra sức “lấy giấy gói lửa”, không biết có sự giật
dây chỉ đạo từ ông bố Bùi Nhật Tiến và ông chú Lê Tất Điều hay không. Michael
Bùi đánh chặn bằng cách đại tiện vào mồm ông bố Nhật Tiến qua trò quấy hôi, bôi
nhọ (Nhật Tiến đã từng chửi người khác: "... là tôi
rất đau buồn khi nhìn thấy cái khung cảnh sinh hoạt chữ nghĩa ở hải ngoại này
nó có nhiều ngòi bút quấy hôi bôi nhọ nhiều quá. Nếu anh chịu khó vào những
trang web trên Net hoặc đọc một số báo, thì anh thấy nhiều cây bút đã lạm dụng
sự tự do ở xứ sở này để viết nên những bài không còn đúng nghĩa là chữ nghĩa nữa.
Nó quấy hôi bôi nhọ, nó làm cho nhếch nhác bộ mặt văn học hải ngoại. Khi tôi
nghĩ tới điều đó thì tôi rất đau buồn và có lẽ rằng tôi sẽ phải làm cái việc cuối
đời tức là góp phần dọn dẹp cho sạch sẻ cái môi trường chữ nghĩa từ lâu bị quấy
hôi bôi nhọ như thế này.") khi
nhặt nhạnh toàn bộ những bài viết lăng nhăng bịa đặt không bằng cớ, dựng chuyện
dơ bẩn về ông Kim Âu của những tên biệt kích phản phúc vong ơn, ăn cháo đá bát
do Nguyễn Hữu Luyện đứng đầu giật dây, chỉ đạo. Những chuyện nhảm nhí đấy chúng
tôi đã bóp nát từ sau khi chúng mở màn tấn công qua sự tài trợ của đám MT và
đài VNHN cho đến khi ông Kim Âu phản công thách thức Nguyễn Hữu Luyện và đám em
út, lâu la lên đối chất trên truyền hình VHN, SBTN bầy thú vật này mới chịu cúp
đuôi bỏ chạy.
Những người hiểu biết
khi đọc về vụ "Vietnamese Commandos vs US Government" đều thấy
rõ toàn bộ sự kiện lịch sử đó đều do một người đơn độc đứng ra làm việc
đó là Hà Văn Sơn tức Kim Âu. Không có nhân vật Kim Âu Hà Văn Sơn vĩnh viễn “những
con tốt thí đó” là những người lính, người tù bất hạnh nhất trong lịch sử chiến
tranh Việt Nam. Lũ vong ân, bội tín do Nguyễn Hữu Luyện cầm đầu là một lũ hạ
lưu, tham lam, ngu dốt, bất tài vô dụng lại còn phản phúc, vong ơn bội nghĩa,
ăn quỵt đã hạ thấp nhân cách của chính bản thân họ xuống hàng đê tiện mà còn
làm nhục lây những người đứng đắn trong lực lượng. Bọn này vẫn không hiểu được
sự ngu xuẩn, phản phúc chụp giựt, quỵt tiền luật sư của chúng đã làm mất đi 99%
quyền lợi mà lẽ ra những người lính bị bỏ rơi xứng đáng được nhận.
Nếu
không có bọn phản phúc, vong ơn, ăn quỵt thì số tiền bồi hoàn danh dự đó sẽ
nhân lên vài chục lần theo thông luật –thứ nhất đồng mỹ kim từ năm 1973 tính
theo kim bản vị (106,48) so với năm 2000 (272,65) sẽ phải nhân lên gần ba lần,
thứ hai tổng số tiền bồi hoàn sau gần 30 năm cộng thêm lãi suất cũng tăng thêm
bội phần chẳng khác tiền 401K – Nhưng quan trọng nhất là Kim Âu
Hà Văn Sơn đã bí mật soạn thảo kế hoạch tiến hành một vụ kiện khác để yêu cầu
US Government bồi hoàn sự thiệt hại về thể chất và tinh thẩn do bị giam giữ tra
tấn hàng mấy chục năm.
Khi
đối diện với thái độ vô lại, vô ơn của bọn ngu đần hạ tiện. Chúng tôi đã xếp lộ
đồ đấu tranh vào ngăn tủ vĩnh viễn. Vì thà bỏ không làm chứ không thể làm cho bọn
vô học, bất tài lưu manh mạt hạng ngồi chờ sung rụng mà còn bố láo, bố lếu.(vì
vụ kiện là class action nên người nào cùng nhóm đều được hưởng quyền lợi như
người tố tụng)
Những bài viết của
Kim Âu viết về sự việc này nằm trong tàng thư website Chính Nghĩa nhưng chúng
tôi hoàn toàn không muốn dùng đến. Qúy độc giả nếu tò mò muốn biết, mời vào các
links dưới đây sẽ thấy đủ tài liệu và phim ảnh
http://www.chinhnghia.com/vietnamesecommandosstkq.asp, http://www.chinhnghia.com/vietnamesecommandosmiami.asp
Cuộc
đấu với bọn lưu manh vô lại đó kết thúc bằng sự suy sụp của đài VNHN và sau đó
tan ra làm nhiều mảnh, Nguyễn Hữu Luyện mất mặt bán xới đất Boston bò về San
Jose, Cali để sống kiếp người nhái
Sau
trận này tên Nguyễn Hữu Luyện lặn không sủi bọt và vụ kiện WJC hoàn toàn thất
bại làm rớt luôn cái mặt nạ đểu cáng lừa đảo cộng đồng lao vào một vụ kiện đòi
bồi thường vì bị kỳ thị hết sức ngu xuẩn. (trong vụ WJC chính Kim Âu
Hà Văn Sơn vô tình tiếp tay cho Nguyễn Hữu Luyện tìm được sự giúp đỡ của
cộng đồng mãi cho đến khi Nguyễn Hữu Luyện fax bản motion của LS Keane file vào
tòa đến chúng tôi lúc đó mới phát giác ra Nguyễn Hữu Luyện chỉ kiện WJC vì bản
thân hắn không đủ trình độ kiếm được “job” trong chương trình nghiên cứu
Vietnam Diaspora. Việc này lúc đó Kim Âu chỉ nói riêng với Phan Nhật Nam và VIP
Kaka Nguyễn văn Chức biết tại nhà của Phạm Nhã Dự, Dorchester, sau khi gặp nhau
ở buổi khởi động vụ kiện WJC tại Boston)
Tên lưu manh Michael
Bùi này còn lượm rác rải thêm để dùng chiêu “mượn sức đánh sức” khích tướng
chúng tôi bằng cách đưa bài của một lũ bại binh lên post lại (theo như hắn nghĩ
chúng tôi sẽ phải trả lời, phản công NTN, TMH). Nhưng thánh Kim Âu đâu có mất
công lập lại những chuyện đã giải quyết thắng bại từ lâu vì bài viết về những
cuộc đối đầu đó vẫn nằm nguyên trên website Chính Nghĩa.
Những bài viết này
chúng tôi không bao giờ muốn đưa trở lại diễn đàn vì đó chỉ là kỷ niệm, bài học
kinh nghiệm cho bản thân chúng tôi nhìn lại một thời đã qua, moi lại chuyện cũ
theo kiểu “con bò nhai lại” trái với phong độ của người quân tử, trượng phu nền
dành ưu tiên cho Michael Bùi con đích tôn của “nhà văn tuổi thơ” Bùi Nhật
Tiến thực hành.
Kim Âu Hà Văn Sơn hiểu
bản thân đã “Viết Lại Lịch Sử” đã lưu danh muôn thuở. Những chuyện tiểu tiết
không đáng để chúng tôi phải tốn nhiều thời gian.
Lịch sử không cần đến sự biện giải bị động theo chu kỳ. Sự
kiện lịch sử đã hình thành từ nỗ lực phấn đấu của bản thân chúng tôi, không bất
cứ thế lực nào thay đổi được huống hồ chi loại vô danh, tiểu tốt, tép riu chỉ
quen ăn mày dĩ vãng trong khi thời gian nhanh chóng đưa con người tới điểm
hẹn sau cùng.
Ở đời giòng dõi thuộc
loại ngu gia truyền thì có cố giở tài khôn vặt cũng vẫn hoàn ngu. Michael Bùi cứ
làm như chuyện Đàng Thiện Hưng sẽ làm Thánh Kim Âu phải bận tâm nhưng người nào
biết đọc đều thấy Đàng Thiện Hưng đã từng quý trọng Kim Âu hơn cha của hắn. Nhất
nhất công việc hắn đều hỏi ý kiến thánh Kim Âu và thường xuyên mua vé phi cơ để
Kim Âu từ xa nghìn dặm về Dallas giúp hắn. Câu chữ của ĐTH viết ra tự nhận là kẻ
thọ ân nên Kim Âu cần gì phải post lại bài cũ hay viết thêm vì Đàng Thiện Hưng
ngày nay đã thấm thía, bị sỉ vả là kẻ vong ơn bội nghĩa.
Tóm lại những trò cuống
quýt đối phó theo cái cách bất lương “quấy hôi, bôi nhọ” như Michael Bùi, chúng
tôi không quan tâm nhưng qua hiện tượng “con thua cha là vô phúc” đó, chúng tôi
thấy rằng bố của tên này là Bùi Nhật Tiến đầu óc cũng không thông minh, sáng suốt
gì hơn vì “hổ phụ chẳng lẽ sinh khuyển tử”. Điều đáng nói là bọn này đã tuyên
chiến với Kim Âu khắc tinh của lũ gian nhân, hiệp đảng, bầy đàn, bọn làm tay
sai Việt Cộng.
Chúng tôi đợi Bùi Nhật
Tiến và Lê Tất Điều lên tiếng nhưng chắc rất khó vì kinh nghiệm của những tên
này đã dạn dầy, đâu dại gì ló mặt mà chỉ đứng sau giật dây và suy cho cùng
chúng tôi chỉ làm việc theo luật công bằng, giữ gìn đạo tắc của người làm công
tác truyền thông nên họ cũng chẳng thể nào lên tiếng.
Trước đây tuần báo
Chính Nghĩa có đăng nhiều bài về Nhật Tiến của tác giả Nguyễn Mạnh Trinh gởi đến
“free of charge”, nợ ân tình đó chúng tôi không quên và cũng chưa có một lần đối
diện. Rồi Công Tử Hà Đông cũng viết nhiều bài chỉ trích Nhật Tiến sau khi Hoàng
Khởi Phong hai lần xuất bàn cuốn Nếu Đi Hết Biển của Trần Văn Thủy dưới mặt nạ
WJC (cuốn sách này gần như in lậu không nằm trong chương trình của WJC). Xem
như vậy khen chê Nhật Tiến đều được đăng trên báo giấy Chính Nghĩa đầy đủ, phần
chúng tôi giai đoạn đó giữ đúng vai trò chủ bút hoàn toàn để cho công luận phê phán
nên không tham gia ý kiến.
Tuy nhiên đến nay khi
xem lại tì vết tội lỗi (không phải sai lầm) của Nhật Tiến lưu lại và thái độ
trâng tráo đến mức thô bỉ của kẻ phản phúc vong ơn đối với xã hội miền Nam thiết
tưởng cũng nên có vài lời phong tước cho hắn để những kẻ đã đánh giá sai lầm cần
phải tự điều chỉnh lại sự hiểu biết về Nhật Tiến.
Như nhiều người đã biết
Nhật Tiến là một nhà văn thời VNCH tên thật là Bùi Nhật Tiến, sinh ngày
24-8-1936 tại Hà Nội. Năm 1946 mới 10 tuổi Nhật Tiến đã phải theo gia đình rời
Hà Nội đi tản cư qua những tỉnh như Sơn Tây, Việt Trì, Hưng Hoá, Phú Thọ. Năm
1950 hồi cư, di cư vào Nam năm
1954 mới 18 tuổi; ban đầu sống ở Đà Lạt, Nhật Tiến viết kịch truyền thanh cho
Đài tiếng nói Ngự Lâm Quân [thời
còn Hoàng Triều Cương Thổ]. Ít lâu sau đó, gia đình Nhật Tiến rời khỏi Đà Lạt. Không
tốt nghiệp trường sư phạm nào nhưng năm 21 tuổi anh đã bắt đầu đi dạy học môn
Lý Hoá tại các trường trung học tư thục ở các tỉnh Miền Tây như Bến Tre, Mỹ
Tho, ba năm sau đó mới về sống hẳn ở Sài Gòn, chủ trương nhà xuất bản Huyền
Trân từ năm 1959 (23 tuổi).
Truyện dài đầu tay Những
Người Áo Trắng ra đời trong giai đoạn này. Nghề giáo là sinh kế chính của Nhật
Tiến nhưng nuôi mộng lớn văn chương nên Nhật Tiến liên tục viết rất khoẻ từ
truyện ngắn, truỵện dài và cả một tiểu thuyết kịch đăng trên các tạp chí: Văn
Hóa Ngày Nay, Tân Phong, Đông Phương, Bách Khoa, Văn, Văn Học;. Theo một số người
Nhật Tiến là nhà văn của tuổi
thơ và như vậy sự nghiệp tột đỉnh của Nhật Tiến
hẳn là giai đoạn làm chủ bút tuần báo Thiếu Nhi do nhà sách Khai Trí xuất bản từ 1971
tới 1975.
Mặc dù viết nhiều
nhưng do trình độ giới hạn (giáo làng chưa đủ phẩm chất) nên văn chương Nhật Tiến
chỉ thuộc loại xoàng nhưng trạng huống bất ngờ xảy ra sau năm 1975 đã đưa Nhật
Tiến trở thành người có chút tiếng tăm vào tháng 10 năm 1979 khi Nhật Tiến vượt
biển (ra đi bán chính thức từ Sài Gòn) gặp tai ương thừa sống, thiếu chết mới
qua được Thái Lan rồi định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1980.
Nếu thật sự có văn
tài thì những lá thư kêu cứu ở trại tỵ nạn đã trở thành đỉnh cao văn nghiệp của
Nhật Tiến nhưng khi đọc những lá thư này, chúng tôi thấy văn phong không có gì
xuất sắc nếu không muốn nói là quá tầm thường.
Trong
tiểu sử có viết Nhật Tiến làm chủ nhà xuất bản Huyển Trân từ 1959 – đến sau
này. Tôi tự hỏi không biết có phải Nhật Tiến đã là con tin của Việt Cộng từ thời
1959 hay không? Vì cái tên nhà xuất bản Huyền Trân khiến chúng tôi liên tưởng đến
một địa điểm tập hợp của bọn tình báo văn hóa thuộc cơ quan trí vận của Việt Cộng.
Người Việt Nam nào
cũng biết Huyền Trân là tên của một vị công chúa con gái của Trần Nhân Tông, em
gái của Trần Anh Tông đời nhà Trần. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được (bị) gả
cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân (tiếng Phạn: Jaya Sinhavarman III) để đổi
lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày
nay). Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân công chúa được Trần Anh Tông sai Trần
Khắc Chung cướp về, sau đó xuất gia. Câu chuyện về công chúa được truyền tụng
trong dân gian, khiến công chúa trở thành một trong những công chúa nổi tiếng
nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy
nhiên, một số người đời sau cho rằng câu chuyện này có phần thêu dệt, chuyện
nêu lý do công chúa phải lên giàn hỏa chỉ là cớ do sách Việt sau này viết thêm.
Theo tiến sĩ Po Dharma, công chúa Huyền Trân không thể hội đủ điều kiện để xin
lên giàn hỏa vì nếu theo truyền thống Champa xưa, đây là một vinh dự và chỉ có
bà hoàng hậu chính thức mới được phép hủy thân trên giàn hỏa với chồng của
mình. Trong kinh điển theo đạo Bà La Môn đều không nhắc đến tục lệ này của người
Champa, chưa chắc đã có tục lệ như thế. (tóm lược từ Wikipia).
Huyền Trân mang ẩn dụ
của một công chúa miễn cưỡng phải làm quý phi cho một quân vương ngoại chủng
nhưng tâm hồn lúc nào cũng canh cánh trông đợi tin nhạn từ cố quốc. Quan sát
theo khía cạnh của hoạt động trí vận, cái tên Huyền Trân có thể là cơ sở an
toàn cho bọn tình báo chiến lược ẩn náu (như Lữ Phương, Vũ Hạnh chẳng hạn).
Nhìn kỹ lại, năm
1956, Nhật Tiến rời Đà Lạt đi dạy học ở vùng làng quê Bến Tre là “vùng sôi đậu”
sau này trở thành trung tâm của phong trào Đồng Khởi. Thời gian đó Nhật Tiến mới
vào tuổi hai mươi, sự nghiệp là con số không to tướng, cô đơn, nghèo khổ. Vì thế
“vô sản hóa tư tưởng” hay “giác ngộ cách mạng” cho một thanh niên bạch đinh mới
lớn là chuyện không khó đối với những con cáo già hoạt động trí vận....
Ba năm sau cậu Nhật
Tiến về Sài Gòn có lẽ trúng số hay có nguồn tiền trên trời rớt xuống nên Nhật
Tiến mở nhà xuất bản lấy tên Huyền Trân khi mới hai mươi ba tuổi. Điều kỳ lạ nhất
khi Nhật Tiến vốn chẳng có bằng sắc gì, đi dạy học (tạm gọi là chui) nhờ sự rộng
rãi của Bộ Giáo Dục đối với những tư thục vì thời điểm đó ngân sách giáo dục
không đủ xây dựng trường lớp cho học sinh và đào tạo giáo chức chính quy nhưng
việc lạ hơn nữa là Nhật Tiến leo cao, trở thành một hội viên Hội Đồng Văn Hóa
Giáo Dục ngồi chung chiếu với những nhà giáo dục khoa bảng chính thống. (http://luutruvn.com/index.php/2016/11/02/phong-hoi-dong-van-hoa-giao-duc/),
(trích
Nhật Tiến)
“Nhật Tiến giải
thích sự việc như sau: Hội
Đồng Văn Hóa Giáo Dục được thành lập năm 1969 thì năm 1970 đã hình thành Nhiệm
kỳ I (1970-1974) mà Trung Tâm Văn Bút đã có một thành viên đắc cử Hội viên Thực
Thụ, đó là LM. Thanh Lãng. Qua Nhiệm kỳ II (1974-1978), tôi đại diện Trung Tâm
Văn Bút tham gia Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục do sự đề cử của các văn hữu lão
thành trong Văn Bút như Vũ Hoàng Chương, Vi Huyền Đắc, Đào Đăng Vỹ, Tam Lang Vũ
đình Chí, Lê văn Hoàn, Nghiêm Xuân Việt, Hồ Hữu Tường..v..v…” Sau đó tôi lại phải
trải qua một cuộc bầu phiếu giữa các Hiệp Hội Văn Hóa, Văn Nghệ khác nữa thì mới
được trở thành Hội viên HĐ/VHGD nhiệm kỳ II (1974-1978) mà trong đó có GS. Phạm
Cao Dương là một ứng viên đại diện cho ngành Giáo Dục ( GS Phạm Cao Dương hiện
cư ngụ ở Quận Cam, Nam Cali). (trích Nhật Tiến)
Việc
bổ nhiệm nói theo văn chương bình dân truyền khẩu “không có chó bắt mèo ăn cứt”
này giúp cho Việt Cộng dễ thi thố đòn phép chính trị và hối lộ để mua chức, mua
quyền cho những tình báo chiến lược nằm vùng.
Hội Đồng Văn Hóa Giáo
Dục rõ ràng là một định chế quốc gia nhưng kỳ lạ thay?! ...sau khi Sài Gòn thất
thủ Nhật Tiến vẫn bình chân như vại trong khi Uỷ Viên Hội Đồng Xã tỉnh lẻ cũng
ăn cơm độn bo bo trong tù và đến tháng 10 năm 1979 vào thời đoạn Võ Văn
Kiệt cho xuất ngoại chính thức và bán chính thức Nhật Tiến ra đi (như con
sáo Huyền Trân sang sông) do
Hải Quân Mã Lai đã ngưng kéo ghe thuyền nhân ra biển mà cho vào bờ làm thủ
tục theo kết quả Hội Nghị Tháng 7-1979.
Tai ương xảy đến cho
chuyến tàu của Nhật Tiến đã được nói rõ không cần phải nhắc lại. Nhật Tiến
nhanh chóng được vào Hoa Kỳ. Mùi tân khổ mới nếm sơ sơ chưa đủ “dose” nên Nhật
Tiến lại tiếp tục làm những chuyện kỳ lạ. Trong khi người dân thường ở quê nhà
đang tìm đủ mọi cách để ra đi. Người tù VNCH còn rải khắp các trại tù từ Bắc
chí Nam. Nhiều người cầm bút cũng góp phần làm chật trại giam. Thuyền nhân vượt
biển còn nằm đầy các trại tỵ nạn chờ “asylum”. Dù vậy, làn sóng thuyền nhân vẫn
đều đặn ra đi. Nhiều nước lại bắt đầu mất kiên nhẫn vì gánh nặng thuyền nhân.
Hồng Kông là nước đầu
tiên quyết định không tự động đón nhận người mới và sau ngày 16-6-1988, tất cả
thuyền nhân tới Hồng Kông sẽ bị thanh lọc. Dù vậy, gần 34,000 người Việt đã tới
Hồng Kông trong năm 1989, hầu hết hy vọng vào kịp trước khi cánh cửa tự động định
cư bị đóng sập lại.
Sau 10 năm không áp dụng,
Mã Lai lại bắt đầu chính sách đẩy ghe thuyền nhân ra biển, và đưa ra thời hạn kết
thúc định cư: ngày 14-3-1989. Tình hình này buộc LHQ phải mở ra một hội nghị mới,
tổ chức vào các ngày 13-14 tháng 6-1989. Trong hội nghị, khoảng 70 nước chấp
thuận Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện 1989 (Comprehensive Plan of Action, viết tắt
CPA). Mục tiêu chính lúc đó là giải quyết khoảng 100,000 thuyền nhân Việt đang
trong các trại tị nạn khắp vùng Đông Nam Á và Hồng Kông, và đối phó với những
người có thể ra đi các năm tới. Theo kế hoạch CPA, mỗi nước trong khu vực có một
ngày ấn định để khép luôn cánh cửa tị nạn. Sau các ngày này, thuyền nhân phải bị
thanh lọc; những ai rớt thanh lọc sẽ bị trả về VN. Kết quả của CPA là số thuyền
nhân giảm nhiều. Trong năm 1989, khoảng 70,000 thuyền nhân Việt rời bỏ VN.
Trong năm 1992, chỉ có 41 người Việt tới các trại tị nạn.
Vào lúc CPA chính thức
kết thúc ngày 30-6-1996, với tốn phí hơn 500 triệu Mỹ Kim, người Việt trong các
trại Đông Nam Á và Hồng Kông hoặc là được cho định cư, hoặc là được chiêu dụ tự
nguyện hồi hương về VN. Những người đầu tiên về VN là 75 người về VN từ Hồng
Kông trong tháng 3-1989. Nhưng không phải ai cũng chịu tự nguyện hồi hương. Cho
nên chính phủ Hoa Kỳ cho lập chương trình ROVR để sẽ tái phỏng vấn tại Việt Nam
những thuyền nhân nào chịu về nước. Nhóm cuối cùng 486 người Việt rớt thanh lọc
đã rời Trại Galang trong tháng 9-1996. Tính chung trong cả năm này, có 3,117
người Việt tự nguyện hồi hương, và có 1,377 người bị cưỡng bách hồi hương.
Trong giai đoạn tỵ nạn,
nóng bỏng, khốc liệt đó, Nhật Tiến tự biến mình thành cái loa tuyên truyền ra sức
rủ rê, tích cực vận động lũ đầu chồn để phát hành cuốn “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên
Quê Hương” viết về những người đang hưởng ơn sủng của chế độ xã hội chủ nghĩa.Tự
biến mình trở thành động cơ chính cho chuyến tàu chở khách “hòa giải, hòa hợp”
kéo còi hồi hương hôn đít bạo quyền. Tất nhiên chuyện không bình thường như thế
khiến người tỵ nạn có phản ứng, chỉ trích, thậm chí chửi bới Nhật Tiến và bọn
“Người Đầu Chồn” thậm tệ nhưng sống trên nước Mỹ, tất cả mọi người đều được luật
pháp bảo hộ trước tất cả mọi đe dọa vũ lực, không ai có quyền ngăn cấm bọn hèn
hạ khấu đầu vái lạy xin bọn cộng sản cho “hòa hợp-hòa giải” mà mọi người đều hiểu
rằng bọn Việt Cộng chỉ chấp nhận sự quy thuận, đầu hàng chứ chúng không cần phải
hòa giải với những kẻ chúng đã đánh giá là thứ phản quốc, ma cô, đĩ điếm, sớm đầu
tối đánh....
Tôi muốn
hỏi tất cả những người Việt Nam tỵ nạn còn biết thế nào là liêm sỉ một
câu:
Nếu quý vị trở lại thời kỳ năm 1986-89 trong trạng huống
là một người vừa đến bến bờ tự do, liệu quý vị có nỡ lòng kêu gọi mọi người quỳ
gối xin hòa hợp, hòa giải với Việt Cộng khi đồng bào của quý vị ở các trại tỵ nạn
đang biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu để phản đối việc cưỡng bách hồi hương hay
không?
Nhật Tiến làm được,
dưới nhận xét của chúng tôi Nhật Tiến là một loại thú vật nên không chút ý thức
thế nào là liêm sỉ, hành động quay quắt, trơ trẽn, trâng tráo của hắn đã nói
lên tất cả.
Nhật Tiến là ai? đứng
ở vị trí nào trong khối người đông đảo sôi sục hận thù hầu hết là nạn nhân của
cộng sản quanh hắn?
Khi Nhật Tiến đã được
phép trở về Việt Nam, những người quan tâm đến sự việc đều biết nghề văn của Nhất
Tiến thì chẳng đến đâu nhưng lưỡi của Nhật Tiến khá nhám và mặt của Nhật Tiến rất
dày. Năm 1980 thoát chết ở Thái Lan, đến Hoa Kỳ nhưng năm 1988-1989 khi những
người CTNCT, thuyền nhân đang trong thời kỳ bị truy bức ác liệt thì Nhật Tiến
đã trâng tráo đâm những nhát lưỡi lê chí tử vào lưng người quốc gia để đổi lấy
việc “cẩm y hồi hương” úp mặt vào đít bọn đầu nậu, quan văn nghệ của nền “văn
hóa dép lốp, nón cối”.
II-Nhật Tiến Thay Máu Từ Bao Giờ?
Thái độ và
hành động của Nhật Tiến là thái độ vô liêm sỉ của một kẻ bất nhân đúng hơn là một
con thú bốn chân thản nhiên vẫy đuôi mừng rỡ, liếm láp tay chân ghẻ lác của bọn
dép râu nón cối, rối rít cuống quýt bợ đỡ bọn tiểu nhân gặp thời đắc chí, sau
đó lại trâng tráo lên mặt, vênh váo chê bai, chửi rủa, mạt sát những người mà hắn
gọi là đồng bào, đồng nghiệp, văn hữu thủy chung với xã hội miền Nam là loại
người “đầu đông đá”.
Nhật Tiến
huyênh hoang, khoác lác về cuốn sách “Trăm hoa vẫn nở trên quê hương :
cao trào văn nghệ phản kháng tại Việt-Nam, 1986-1989 : tuyển tập.” xuất bản từ 26 năm trước. Cuốn sách
này ra đời hơn ¼ thế kỷ nhưng chẳng mấy người biết đến, nay đã tuyệt bản, thất
tung.
Đến thời gian
gần đây Nhật Tiến có lẽ đã ở trạng thái hồi quang cố gom lại được vài đoạn, làm
một bài tóm lược chuyển cho Văn Đoàn Việt do Nguyên Ngọc chủ xướng để báo công
nên mới dẫn đến việc những Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản phải tháo lớp mặt nạ đạo
đức, nhân bản để chỉ rõ bản lai diện mục của Nhật Tiến cho những người “học làm
văn” sau này tránh khỏi những sai lầm trong nhận thức về những kẻ phản bội khi
thấy Nhật Tiến có tiếng là “nhà văn của tuổi thơ”. Người đời thấy Nhật Tiến là
người có giải thưởng quốc gia lá quý vì vậy không hiểu rằng mấy chữ “nhà văn của
tuổi thơ” xét về nghĩa đen hay nghĩa bóng đều là loại nhà văn viết cho con nít,
nhi đồng đọc.
Đẳng cấp văn
chương của loại truyện sách viết cho trẻ con dĩ nhiên cao hơn loại sách tập
đánh vần ở lớp mẫu giáo chút chút. Mấy bạn văn nghệ, văn gừng có thói quen “ông
vái qua, bà vái lại” tặng cho ông Nhật Tiến thêm một số mỹ từ, sáo ngữ
khen tặng “thế giới nhân bản trong truyện của Nhật Tiến” làm tăng thêm tính
toàn cầu!! cho văn chương của Nhật Tiến. Đọc những lời các ngài “học làm văn bằng
tay trái”.kính cẩn viết ra như vậy chúng tôi chỉ biết cười trừ.
Mục đích tối
hậu của văn chương, nghệ thuật hay bất kỳ loại hình, lĩnh vực nào chăng nữa đều hướng tới con người cho nên cái việc cãi cọ vị
nghệ thuật, vị nhân sinh, tính nhân bản nhiều lúc thấy chỉ làm rối rắm sự thật.
Dưới đây là lời giới thiệu của Nhật Tiến về cuốn sách khởi xướng "hòa giai hòa
hợp" với trào lưu "Đổi Mới"
Trích
:
“TRĂM
HOA VẪN NỞ TRÊN QUÊ HƯƠNG là nhan đề một cuốn sách được biên soạn bởi 27 người
viết ở hải ngoại vào cuối thập niên 80 khi ở trong nước có vấn đề “đổi mới” và
“cởi trói cho văn nghệ sĩ”.
Chính
nhờ đường lối cởi mở này (dù chỉ trong một thời gian ngắn ngủi rồi lại bị khép
lại) mà nhiều tâm tình thầm kín, nhiều ước vọng tự do của cả người viết lẫn người
đọc có dịp được bung ra, in ấn tràn lan trên nhiều mặt báo ở trong nước.
Là
những người sinh hoạt trong giới Văn Học Nghệ Thuật ở hải ngoại, nhiều nhà văn,
nhà thơ, nhà phê bình hay biên khảo đã cảm thấy mình có liên đới trách nhiệm đến
sự kiện kể trên và nhất là thấy nội dung vấn đề rất gắn bó với nhu cầu đấu
tranh cho Tự Do và Dân Chủ trên đất nước. Vì thế, một số đông đảo anh chị em cầm
bút đã ngồi lại với nhau trong những buổi gặp gỡ cuối tuần ròng rã trong
cả một, hai năm trời để:
1)
Tìm hiểu cặn kẽ diễn tiến của phong trào văn chương đổi mới mà chúng tôi gọi
tên là Văn chương Phản kháng để nêu rõ mục tiêu “không chấp nhận loại văn
chương cung đình” vốn đã tồn tại trước đó ở trong nước.
2)
Góp phần phổ biến những lời tâm huyết, những sáng tác mang đầy những ước mơ về
quyền làm người của nhiều văn nghệ sĩ trong nước, như thể : “ Mình trót nói dối
hết hai phần ba thì cũng phải tự phủ định hai phần ba ấy. Đến tuổi này, lúc
này, không nói dối được nữa.” (nhà văn Nguyễn Khải), hay “ Không phải cứ là nhà
chính trị thì cao hơn nhà nghệ sĩ. Nhà văn lớn phải là nhà tư tưởng lớn. Chính
trị có nhiều cấp độ, thật đáng buồn khi người ta đòi văn nghệ trở thành sự vụ,
đòi phải múa lợn lai kinh tế v.v… tức là hạ chính trị xuống những cấp độ thông
tục nhất và bắt văn nghệ “phục vụ” ở cấp độ ấy.” (Tạ văn Thành –Học viện Nguyễn
Ái Quốc) hay là : Kiểu bảo trợ có nhiều mức, nhiều dạng, nhưng mức cao nhất là
đẻ ra nghệ thuật quan phương, như kiểu “tao đàn” của Lê Thánh Tông. Dạng nghệ
thuật này khó mà có giá trị cao, vì nó gắn với “cảm hứng nhà nước” (chữ mà anh
Hoàng Trinh vừa nói) diễn đạt tư tưởng của nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của nhà
nước. Trong khi đó, nghệ thuật chân chính phải phát ngôn ý thức nhân dân, ý thức
thời đại, phải diễn đạt nhu cầu phát triển con người và xã hội cao nhất của thời
đại và dân tộc. Những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng phải “bung ra” khỏi ý thức ấy: độ
lớn về tư tưởng và nghệ thuật của họ, đến thời đại còn chưa dễ chấp nhận, nói
gì đến cái khung hẹp và thực dụng của tư tưởng và nghệ thuật cung đình.(Nguyễn
Đăng Mạnh- Đại Học Sư Phạm).
3)
Gióng lên lời đáp ứng nhiệt thành rằng những nguyện vọng chính đáng của anh chị
em cầm bút trong nước nói riêng, và toàn thể đồng bào nói chung sẽ luôn luôn được
hỗ trợ bởi khối đông đảo người Việt hải ngoại, tất nhiên trong đó cũng có giới
cầm bút.
4)
Gom góp các tài liệu văn học nghệ thuật được sáng tác trong thời gian đó kèm
thêm những bài nhận định, tổng hợp hay phê phán để in thành cuốn “Trăm Hoa Vẫn
Nở trên Quê Hương”.
Ngưng
trích
Đọc qua những lời rù
quyến của Nhật Tiến chúng tôi thấy anh ta quả đúng với cái tên được người tặng
cho “nhà văn của tuổi thơ”. Nhà văn viết cho trẻ thơ đọc nên không thể vươn lên
thành Phù Đổng vì nội lực, tư tưởng vốn còn quá ấu trĩ. Cái gọi là cao trào văn
chương phản kháng mà Nhật Tiến nói tới thật ra chỉ là một hiện tượng bắt buộc
phải diễn ra vì chính “Đảng và Nhà Nước” đã yêu cầu, đã năn nỉ những người
làm công tác văn nghệ văn học phải làm thế và người thủ lĩnh phất cờ, gióng trống,
khua chiêng, đánh cồng, đập phén la, tru tréo kêu gào ra quân tiến vào mặt
trận “đổi mới” không ai khác là Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh với bút danh NVL (Nờ Vờ Lờ).
Nguyễn Đăng Mạnh- Đại
Học Sư Phạm đã kể lại trong hồi ký của ông ta như
sau:
Trích (Nguyễn
Đăng Mạnh- Đại Học Sư Phạm).
Năm 1986, nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI
chính thức phát động công cuộc đổi mới đất nước. Đời sống văn nghệ chưa bao giờ
vui đến thế. Lúc nào cũng như sống trong hội hè. Đúng là không có gì sướng bằng
dân chủ thật sự, được tự do nghĩ và nói thực sự.Trần Độ lên thay Hà Xuân Trường
phụ trách Ban văn hóa Văn nghệ trung ương. Hai ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987, tổng
bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh gặp gỡ các văn nghệ sĩ (4 Nguyễn Cảnh Chân). Lần đầu
tiên giới văn nghệ sĩ được nghe những lời phát biểu đầy tính kích động tự do
dân chủ ở một ông tổng bí thư Đảng Cộng Sản. Nào là “cởi trói”, “hãy tự cứu lấy
mình”, “không bẻ cong ngòi bút”, “nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật”,
“giờ không phải là lúc bón phân cho lúa, phải nhổ cỏ cho lúa có sức mọc lên”,
“hồi phụ trách bí thư ở Sài Gòn, tôi đã làm chui nhiều việc đấy. Những anh em
dưới quyền tôi sợ quá mỗi khi có Trung ương về thăm. Tôi nói với họ: Các anh cứ
làm, nếu phải đi tù, tôi vào tù với các anh”, “hãy giải phóng cho con chim văn
nghệ bay cao”..vv…
Những lời lẽ và khẩu khí ấy khiến mọi người không
còn nghi ngờ gì ở chủ trương đổi mới thật sự của Đảng.
Ông Nguyễn Văn Linh đích thị là Goócbachốp của Việt
Nam rồi – chúng tôi lúc đó đều đinh ninh như thế.
Buổi trưa, tổng bí thư ngồi cùng bàn ăn với anh
em, mỗi người một bát phở. Buổi tối lại cùng ngồi xem phim Tướng về hưu và Chuyện
tử tế.
Hai ngày liền, ông Linh chỉ nói mấy câu mở đầu
còn để cho anh chị em tha hồ phát biểu tự do. Toàn phê phán lãnh đạo làm nhiều
chuyện thậm vô lý. Chẳng hạn Ái Vân thuật chuyện anh chị em sân khấu khổ cực
như thế nào. Cấp phát thì cấp áo, không cấp quần, tất rách không có để thay,
khi biểu diễn phải đứng thế nào để che được phía chân đi tất rách.
Trong khi người này biểu diễn trên sân khấu thì
người khác bán trà chén ở cửa rạp. Ca sĩ Xuân Thanh xưng hô bác cháu với ông
Linh, vừa nói vừa khóc: “Đi thi quốc tế, lãnh đạo không cho đi sớm để chuẩn bị,
không cho tiền để bồi dưỡng bà giáo Liên Xô tập luyện cho. Nhưng khi được giải
thì thu hết tiền.” Hoạ sĩ Nguyễn Thụ tố cáo: “Sang Liên Xô triển lãm tranh,
tranh bán được, tiền bị thu hết.”
Trường hợp Nguyên Ngọc cũng tương tự. Anh được nhận
giải thưởng quốc tế Á Phi (Đất nước đứng lên), tiền thưởng cũng bị thu hết,
không bớt cho lấy một xu để chiêu đãi những người đến chúc mừng. Anh lại nói, hồi
lãnh đạo Văn nghệ ở quân khu năm, cứ vài tháng anh lại phải lên Cục chính trị
lĩnh tư tưởng về cho anh em viết. Hết tư tưởng lại đi lĩnh chuyến khác, y như
lĩnh tiền hay lĩnh gạo vậy.
Phạm Thị Thành thì nói về chuyện duyệt kịch. Mỗi
lần duyệt, chị không quan tâm gì đến hội đồng chuyên môn, mà chỉ chăm chú theo
dõi một ông to đầu nào đấy vui chân tạt vào xem. Ông ta gật gù là yên trí lớn,
ông ta lắc đầu là hỏng bét.Tào Mạt, sau Cách mạng tháng Tám đã là huyện uỷ
viên. Nhưng anh không đi tiếp con đường chính trị mà chuyển sang làm văn nghệ.
Anh nói, nếu cứ làm chính trị, anh là người tiến bộ, nhưng chuyển sang làm Văn
nghệ thì bị coi là phức tạp.
Nguyễn Khắc Viện thì nói về những cái án Văn nghệ
gọi là “xét lại” “phản động” “gây rối”, “phạm nhân” văn nghệ sĩ phải chịu hình
phạt suốt đời. Hồ Ngọc thì lên án lãnh đạo biến văn nghệ thành thứ văn tuyên
truyền phục vụ chính trị… Vui nhất là cuộc xung đột giữa Dương Thu Hương và
Nguyễn Đình Thi. Hương bảo Thi là đồ hèn, trí thức hèn hạ, đã tự nhận là hạt bụi.
Thi thì cho Hương là lưu manh, nhà văn đã đến lúc bị lưu manh hoá. Anh nói:
“Đúng, tôi hay nói hạt bụi, giọt nắng, giọt lửa. Nhưng có hiểu gì không – anh
gào to – tôi nói nhà văn là hạt bụi có tư tưởng.” Thực ra anh đã không nhắc lại
đầy đủ lời anh phát biểu ở đại hội nhà văn lần thứ ba: “hạt bụi lấp lánh tư tưởng
của các anh” (vừa nói vừa chỉ tay lên chủ tịch đoàn). ý kiến này chẳng qua cũng
là học theo câu nói của một nhà văn Pháp: “con người là cây sậy có tư tưởng.”
Tôi cũng phát biểu rất thẳng thắn và thoải mái, đại ý rằng, “tôi đã từng được gặp
một ông to, không to bằng anh Linh đâu (ý nói Tố Hữu), tôi thấy ông ấy cứ nói
liên miên, chỉ lo ban phát chân lý chứ không nghe quần chúng nói. Nay anh Linh
nói ít, để anh em nói nhiều, nội điều đó thôi cũng là rất mới rồi.
Về lãnh đạo văn nghệ, tôi cho “lãnh đạo khinh bỉ
sâu sắc văn nghệ sĩ”, và dùng lối chăn vịt, “lãnh đạo văn nghệ theo lối chăn vịt
đàn.” “con người mà bị khinh bỉ mãi thì tự nhiên cũng thấy mình nhỏ bé lại,
cũng hèn kém. Biết tôn trọng con người thì con người tự thấy mình cao lớn hơn.”
Tôi lại ví văn nghệ như con chim. “Nhốt lại nó không hót hay hót không ra gì.
Thả nó ra nó hót hay hơn, nhưng lại sợ nó bay mất…”
Còn nhiều người phát biểu nữa như mấy anh đạo diễn
điện ảnh, Nguyễn Quang Sáng, Lưu Quang Vũ, Anh Đức…, nhưng tôi không còn nhớ. Hồi
đó giá có băng ghi âm ghi lại, giờ mở ra nghe thì thật thứ vị. Nguyễn Khải,
Nguyễn Minh Châu không thấy nói gì.Về lý luận phê bình văn học, tôi là người
duy nhất được dự cuộc gặp mặt này.
Trần Độ gọi cuộc gặp gỡ này là “Hội nghị Diên Hồng
của văn nghệ.”
Sau cuộc gặp Nguyễn Văn Linh, đời sống văn học
nghệ thuật còn sôi nổi và vui hơn nữa với những cuộc tranh luận rất dân chủ
trên báo Văn nghệ của Nguyên Ngọc và những cuộc hội thảo rất thẳng thắn chuẩn bị
cho nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn nghệ tổ chức thường xuyên ở Ban văn
hóa Văn nghệ của anh Trần Độ. Tôi nhớ anh Nguyễn Minh Châu nói, nhà văn Việt
Nam cả ba thế hệ đều hèn.
Trước Cách mạng là nhà văn nô lệ; từ 1945 đến
1975 là nhà văn – lính, rất sợ cấp trên; sau 1975 là nhà văn đói nên cũng hèn.
Anh lại nói Thánh Gióng ngày xưa đánh xong giặc thì bay lên trời. Bây giờ các
ông đánh xong giặc lẽ ra cũng phải biến đi để người khác quản lý đất nước. Như
anh Độ, anh cũng nên thôi đi thì phải. Đấy, hồi ấy cứ ăn nói thoải mái như thế
nên rất vui.
Cánh đổi mới thường tụ họp với nhau, vừa nhậu vừa
trao đổi những suy nghĩ của mình. Ngoài Bắc có Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,
Xuân Cang, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Ngô Thảo, Văn Tâm, Dương Thu
Hương, Phạm Thị Hoài, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn
Quang Thân, Trần Quốc Vượng, Hồ Ngọc Đại..vv… Trong Nam thì có Thu Bồn, Nguyễn
Duy, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hữu Tá, Lê Ngọc Trà, Phan Đắc Lập…vv…
Hoàng Phủ Ngọc Tường mỗi lần vào Sài Gòn cũng nhập vào nhóm này. Trần Mạnh Hảo
một thời gian đóng vai đổi mới, thỉnh thoảng cũng đưa vợ đến tụ tập ở chỗ Thu Bồn.
Ở Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội,
tôi cũng hăng hái đứng ra tổ chức nhiều cuộc hội thảo rất vui về thời sự văn học,
về đổi mới giảng dạy văn học, về cải cách chương trình và sách giáo khoa, thu
hút được khá nhiều cây bút cấp tiến trong trường, ngoài trường như Hoàng Ngọc
Hiến, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Nguyễn Trọng Oánh, Lại Nguyên
Ân, Vương Trí Nhàn, Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Dư Thị Hoàn…
Nguyễn Khải hồi này được ông Trần
Độ triệu ra Hà Nội để chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ IV. Anh cùng Nguyên Ngọc
hoạt động rất hăng hái, hô hào văn nghệ sĩ nói thẳng nói thật.
Ngưng
trích
Đọc qua đoạn hồi ký thượng dẫn chắc chúng ta có
thể thấy rõ phong trào đổi mới toàn diện do Đảng Cộng Sản chính thức phát động,
khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986.
Hải ngoại thời gian đó Việt Cộng còn đang bị Hoa
Kỳ cấm vận nên không có tòa đại sứ ở Hoa Kỳ để tuyên truyền. Mọi việc hoàn toàn
trông cậy vào những nhóm tình báo chiến lược phái khiển thi hành.
Nhật Tiến đã trở thành nhân vật tiên phong, núp
dưới “bình phong hòa hợp, chiêu bài hòa giải" phát động chiến dịch quyết
tâm làm theo lời kêu gọi Đổi Mới của đảng cộng sản Việt Nam bất kể sự khuyên
can, phê phán của đại khối người Việt Tỵ Nạn và một số người cầm bút quốc gia
không chấp nhận thỏa hiệp vô điều kiện với cộng sản.
Nhật Tiến hành động, ăn nói như kẻ phát cuồng vì
viễn tượng huy hoàng sáng lạn của sự nghiệp tương lai.
Tất nhiên chúng ta rất khó có bằng chứng đề quyết
đương sự là một cán bộ phái khiển. Như ngày xưa có ai dám bảo Phạm Xuân Ẩn là
điệp viên chiến lược của Việt Cộng.Tuy nhiên khách quan nhận xét thì hoạt động,
lời ăn, tiếng nói của Nhật Tiến đáng ngờ vực vì rất đồng bộ với những gì
đang diễn ra ở Việt Nam cùng thời đoạn.
Vai trò chủ xướng “hòa hợp hòa giải” của Nhật Tiến
ở hải ngoại chẳng khác gì tổng bí thư đổi mới Nguyễn văn Linh ở quốc nội. Trong
ứng ngoài hợp rất nhịp nhàng đúng theo tinh thần Đại Hội VI.
Thời Việt Nam Cộng Hòa chúng ta có chính thể, có
luật pháp, hiến pháp có quân đội, lực lượng bảo vệ an ninh, có nhà tù để tống
giam, xét xử, trừng trị những tên cộng sản nằm vùng khi chúng bị phát
giác. Nghi ngờ thì có cơ quan an ninh theo dõi để ngăn chặn. Ở đất nước tạm
dung, Người Việt Tỵ Nạn chỉ có lòng căm hận và nguyền rủa những kẻ trở cờ, phản
bội đó là cái ngưỡng không thể vượt qua. Tuy nhiên chúng ta cần phải tìm tòi,
phải suy nghĩ để chứng minh những điều chúng ta cảm nhận từ những hành động,
ngôn từ bất bình thường của những gã hoạt đầu ngõ hầu đi tới việc vạch rõ Lằn
Ranh Quốc Cộng để phân minh sự khác biệt về tư tưởng.
Nhật Tiến quả là kẻ đã đánh mất nhân phẩm khi buông
ra những lời chỉ trích người tỵ nạn, người cầm bút tỵ nạn sắt son gìn giữ tinh
thần chống cộng, không đồng tình với hành động hèn hạ, vô liêm sỉ trở cờ, quay
giáo của ông ta là những người có “đầu đông đá”.
Nhật Tiến là một gã mù lòa trí tuệ khi không thấy
rằng bản thăn hắn và bầy đàn a dua ủng hộ hắn chỉ là một thiểu số quá nhỏ bé
trong khối người đông đảo oán hận cộng sản ở Hoa Kỳ, ở hải ngoại. Tổng cộng bọn
người có tên trong tuyển tập là 27 nhưng vẫn có những kẻ bị “bắt cóc bỏ đĩa”.
Đám người này không nghĩa lý gì trong cái biển
người mênh mông thù hận quanh chúng. Nhật Tiến và đồng bọn làm lợi cho Việt Cộng
tất nhiên người quốc gia khinh bỉ tẩy chay chúng nhưng ngay cả bọn Việt Cộng
cũng không chấp nhận chúng. Bọn Việt Cộng chỉ ban ơn cho những kẻ thừa hành mẫn
cán nhưng ngay cả sự ban ơn đó cũng mau chóng biến mất khi kẻ đó không còn tác
dụng.
Ở Việt Nam màn kịch đổi mới mau chóng mất thiêng
mời độc giả đọc tiếp một đoạn hồi ký.
Trích (Nguyễn
Đăng Mạnh- Đại Học Sư Phạm):
Nhưng chẳng bao lâu, thế cờ bị lật ngược. Nguyên
Ngọc mất chức Tổng biên tập báo Văn nghệ. Nguyễn Khải thấy động, lặn biến vào
Nam. Tố Hữu nắm lại lá cờ Văn nghệ. Trần Độ mất chức (1989). Tố Hữu phê phán bản
Đề cương văn hoá văn nghệ của Nguyên Ngọc ở hội nghị nhà văn đảng viên. Nguyễn
Đình Thi trở lại cùng với cánh bảo thủ chuẩn bị Đại hội nhà văn lần thứ IV.
Cánh đổi mới bị đánh dồn dập: Lê Ngọc Trà, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc, Nguyễn
Đăng Mạnh, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Văn Tâm, Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh bị tước giải thưởng. Hội đồng chung khảo phải viết bài
sám hối (riêng Nguyên Ngọc và Lê Ngọc Trà không chịu).
Bọn bảo thủ và cơ hội chủ nghĩa nổi lên, ngày
càng làm mưa làm gió. Trong Nam có Chế Lan Viên, Bảo Định Giang, Anh Đức, Vũ Hạnh,
Diệp Minh Tuyền, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm, Hoàng Nhân, Phạm Tường Hạnh, Trần
Trọng Đăng Đàn… Ngoài Bắc có Hà Xuân Trường, Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Hoàng
Trung Thông, Đông Hoài, Hồ Phương, Bùi Đình Thi, đám Văn nghệ quân đội, Thành
Duy, Lưu Trọng Lư, Nông Quốc Chấn, Hoàng Xuân Nhị, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức,
Phương Lựu, Nguyễn Văn Lưu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hữu Thỉnh, Hồng
Diệu… Cánh này rất có thế lực vì đằng sau có Lê Đức Thọ, Nguyễn Đức Bình, Trần
Trọng Tân… Nguyễn Văn Linh giờ lại xoay ra chửi Dương Thu Hương và Nguyễn Khắc
Viện.
Vào cuối những năm 80, hai lực lượng cấp tiến và
bảo thủ, cơ hội, từ chỗ tương đương về thế và lực, chuyển dần đến chỗ cánh bảo
thủ hầu như làm chủ trận địa. Lãnh đạo về sau dùng cả đến bọn lưu manh, đầu gấu
trong văn nghệ như Nguyễn Văn Lưu, Trần Mạnh Hảo…Vì những lẽ đó, từ cuối những
năm 80, đặc biệt là từ đầu những năm 90, tình hình văn học xuống cấp ngày càng
nghiêm trọng, nhất là về lý luận, phê bình.
Ngưng trích
Người mà Nhật Tiến kính trọng, ái mộ nhất chúng ta
thấy rõ là Nguyên Ngọc vì nếu không kính quý hay căm ghét không ai đi chọn để
viết về một con người. Nguyên Ngọc, là chủ tịch Chi Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền
Nam Trung Bộ, phụ trách báo Văn Nghệ Quân Giải Phóng Khu 5, ông ta có những bút
hiệu khác như Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim. Sau 1975, ông ra Hà nội,
công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, rồi phụ trách Ban Thường Vụ Hội Nhà Văn
V.N trong cương vị Bí thư Đảng Đoàn. Nhật Tiến xem Nguyên Ngọc như một bậc tôn
sư dẫn đường chỉ lối trong bài viết ”Nhà văn Nguyên Ngọc : những suy nghĩ và
hành động trong cao trào văn nghệ phản kháng” đều trích dẫn từ bản “Đề cương đề
dẫn thảo luận ở Hội Nghị Đảng Viên bàn về sáng tác văn học “. Tháng 6/1979.
Chúng tôi tin rằng Nhật Tiến đã có bản đề dẫn này
trước khi xuống tàu vượt biển tháng 10/1979. Lòng ái mộ, tin tưởng của Nhật Tiến
đi đến mức sùng bái khi năm 1986 diễn biến về mặt văn học, văn nghệ ở Việt Nam
xảy ra phù hợp với những suy nghĩ Nguyên Ngọc đã viết.
Nhưng “Đổi Mới” đến ba năm là đã đủ xoa dịu những
bất mãn của quân chúng trong mọi mặt để cứu Đảng và Nhà Nước, đủ để cho “cỏ
dại và rắn độc chống lại chủ nghĩa cộng sản bò ra hết để diệt hết một lần”.
Đảng Cộng Sản đã tìm ra biện pháp điều tiết phản kháng và mâu thuẫn nội tại nhằm
duy trì sự độc tài, độc đảng của họ để tồn tại.. Đó là lý do chính khiến Nguyên
Ngọc bị cách chức vào ngày
2-12-1988.
Dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản số phận của dân
tộc Việt Nam là số ba đào nên không gì đúng hơn khi mượn lời của bậc tiền
bối Nguyễn Du:
“ Chém cha cái số ba đào.
Cởi ra rồi lại thắt vào như chơi”
Tết Canh Ngọ ra ngày 13-1-1990, nhà văn Nguyên Ngọc
đã thổ lộ:
“Những năm gần đây, tôi thấy viết càng khó hơn. Lần
này thì có lẽ không phải chỉ vì “tính trời”; tôi thấy cần tìm cho mình một tiếng
nói khác, một ngôn ngữ nghệ thuật khác. Quanh tôi, và trong tôi đã có biết bao
thay đổi không nhỏ, không giản đơn. Phải viết khác. Mà đối
với người cầm bút đã có nghề đôi chút, thì có lẽ không có gì khó hơn là viết được
khác đi. Đó là “thay máu” như anh Nguyễn Minh Châu từng nói.
Thay vì nhận thấy sai lầm của bản thân để ăn năn
, hối ngộ. Nhật Tiến còn ngoan cố buông ra những lời lẽ ngu đần, dốt nát cực kỳ
khi lập lại ý kiến chỉ đạo của Nguyên Ngọc như sau:
“Quả là quanh con người và trong con người của mỗi
nhà văn đã có biết bao nhiêu thay
đổi không nhỏ, không đơn
giản. Khát vọng về một đời sống tốt đẹp hơn, về một sinh hoạt xã hội có đầy
đủ tự do dân chủ đã như một cao trào không thể ngăn cản được của con người đang
chuẩn bị bước vào một thế kỷ mới. Nhà văn Việt Nam, hay giới cầm bút nói chung, dù ở bất
cứ nơi nào trên mọi phần đất thế giới không thể không nhìn thấy khuynh hướng đó
và không thể không “thay máu” để chia xẻ nhịp tim đập chan hoà niềm tin mới về
một vận hội mới của tương lai dân tộc. Niềm
tin đó, không chỉ là mối ấp ủ riêng tư của Nguyên Ngọc hay những nhà văn, nhà
thơ trong phong trào văn chương đổi mới ở quê nhà, mà hẳn còn là những ước mơ của
toàn thể người Việt Nam vẫn từng thiết tha đến tiền đồ của dân tộc.” Trích Nhật Tiến : “Nhà văn Nguyên Ngọc : những suy nghĩ và
hành động trong cao trào văn nghệ phản kháng” tháng 4 năm 1990.
Nguyên Ngọc trích hai chữ “thay máu” của Nguyễn
Minh Châu trong cái tâm thế của một bút nô cộng sản cảm thấy hương vị quyến rũ
của tự do nên muốn tẩy sạch máu dơ, máu nhiễm trùng đại dịch cộng sản để được
viết như con chim tự do phóng khoáng bay cao trong bầu trời mênh mông, bao la,
bát ngát.
Nhật Tiến gã học trò ngu dốt, đần độn của Nguyên
Ngọc trở thành con vẹt lập lại hai chữ “thay máu” qua sự truyền đạt từ sư phụ hắn
học được của Nguyễn Minh Châu đã biến những nhà văn tự do của dân tộc Việt Nam ở
mảnh đất quốc gia bị cộng sản chiếm đoạt trở thành những con người cần phải
thay dòng máu dũng cảm sẵn sàng chết cho quyền tự do phát biểu, sáng tạo như
Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Tú bằng dòng máu nô lệ, hèn hạ, đê mạt
của bọn bút nô Việt Cộng. Nhật Tiến quả xứng đáng là nhà văn của nhi đồng khi
không nhận thấy giữa hai người đối nghịch, đem chữ nghĩa của người này sử dụng
đặt vào một người khác lập tức biến đổi kết quả từ tốt thành xấu, ngược lại
hoàn toàn.
Lời lẽ phát đi từ cửa miệng Nhật Tiến đồng tình với
những bút nô Việt Cộng cho thấy Nhật Tiến thân
ở miền Nam từ năm 1954 nhưng tâm thì như Huyền Trân ở kinh đô của Chàm nhưng vẫn
nhớ về Thăng Long. Nhật Tiến
trở cờ quá sớm từ những năm đầu 1980 nhưng việc hoàn toàn lột xác "thay
máu" để đứng về phía đối lập với người quốc gia khiến chúng tôi tự hỏi
Nhật Tiến đã "thay máu" từ bao giờ?
III-NHẬT TIẾN
VỚI CHIÊU BÀI HÒA GIẢI HÒA HỢP DÂN TỘC.
Hòa giải hòa hợp dân tộc là một chiêu bài Hồ Chí
Minh đưa ra từ thời kỳ hậu thế chiến II ở Việt Nam, khi quân đội Nhật đầu
hàng Đồng Minh năm 1945, đảng cộng sản D9o6ng Dương đã nhanh tay “cướp chính
quyền” vào ngày 19/8/1945 ngay sau đó
ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh lãnh tụ CSVN đọc Tuyên Ngôn Độc Lập tại quãng trường
Ba Đình và thành lập chính phủ Việt Nam DânChủ Cộng Hòa với mưu toan độc quyền
cai trị đất nước nhưng các cường quốc trong lực lượng Đồng Minh không thừa nhận
chính phủ này. Họ vẫn tiến hành giải pháp do tối hậu thư Potsdam đưa ra ngày
26-7-1945, theo đó việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương ở bắc vĩ tuyến
16 do quân đội Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) phụ trách và ở nam vĩ tuyến 16 do quân
Anh phụ trách.
Theo tối hậu thư Potsdam, 200,000 quân Trung Hoa vào Việt Nam
giữa tháng 9-1945. Ở miền Nam, quân Anh
đến Sài Gòn do tướng Douglas Gracey chỉ huy, vào đầu tháng 10-1945, nhờ sự giúp
đỡ của người Anh, quân Pháp do tướng Leclerc cầm đầu đổ bộ khá đông ở Nam Kỳ.
Sau khi tái chiếm miền Nam, người Pháp tiến quân từ nam ra bắc, dự tính tái chiếm
toàn bộ Đông Dương. Cùng giai đoạn đó các lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh
Hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) từ Trung Hoa trở về Việt Nam
sau thế chiến thứ hai, quyết liệt chống đối Hồ Chí Minh và mặt trận VM. Khi
Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Cách cùng với Tiêu Văn, từ Quảng Châu về Việt
Nam, liên lạc và hội họp với Jean
Sainteny, đại diện Pháp ở Bắc Kỳ ngày 12-10 và 15-10-1945 tại Hà Nội, để thảo
luận về tương lai chính trị Bắc Kỳ. Trước tình hình đó, ngày 23-10-1945, Hồ Chí
Minh liền mời Nguyễn Hải Thần họp tay đôi giữa hai bên, và ký thỏa thuận hợp
tác giữa VM và Việt Cách. Trong khi đó, Vũ Hồng Khanh, lãnh tụ VNQDĐ đến ngày 6-11-1945, mới về tới Hà Nội.
Ngày 8-11-1945 Nguyễn Hải Thần đòi thành lập một chính phủ
liên hiệp phù hợp với ý muốn của các tướng lãnh Trung Hoa vì trước khi Lư Hán
qua Việt Nam, Hoa Kỳ gây ảnh hưởng để Tưởng Giới Thạch bắt tay với Mao Trạch
Đông. (T.E. Vadney, The World Since 1945, London: Penguin Books, 1987, tr.
121.) Ngày 14-8-1945, chính phủ Tưởng Giới Thạch ký hiệp ước thân hữu với Liên
Xô. (Trevor N. Dupuy, Curt Johnson và David L. Bongard, The Harper Encyclopedia
of Military History, New York: HarperCollins, 1993, tr. 1423.) Do đó, chính phủ
và các tướng lãnh Trung Hoa, vừa ủng hộ các nhà lãnh đạo Việt Nam theo chủ
nghĩa dân tộc, vừa muốn Việt Nam theo công thức quốc cộng liên hiệp như Trung
Hoa, nên họ áp lực cả hai phía ngồi lại với nhau. Các tướng lãnh Trung Hoa còn
muốn giải quyết cho xong vấn đề Việt Nam để rút quân về ứng phó với tình hình
Trung Hoa.
Để gây lòng tin nơi các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc, nhất
là các tướng lãnh Trung Hoa Quốc Dân Đảng đang có mặt ở Hà Nội, Hồ Chí Minh
tuyên bố giải tán đảng CSĐD ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên Cứu Chủ
Nghĩa Mác-xít do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm tổng thư ký. Lúc đó, VM chỉ
có khoảng từ 2,000 đến 5,000 đảng viên Cộng sản, lực
lượng còn non yếu nên Hồ Chí Minh đã chủ trương dùng “trì hoãn kế” để đối phó với
Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt
Cách).
Phía lãnh tụ các đảng phái theo chủ nghĩa dân tộc và các nhà
trí thức yêu nước không phải là không biết về lai lịch Hồ Chí Minh, và cũng
không phải không có những nghi ngờ đối với VM cộng sản. Tuy nhiên, các đảng
phái quốc gia ở thế chẳng đặng đừng, phải gia nhập chính phủ liên hiệp, vì đã
chậm chân để cho VM chiếm được chính quyền trước; nay muốn tranh đấu giành lại
chính quyền khỏi tay VM, thì phải chấp nhận ngồi lại tranh đấu chính trị. Theo thỏa thuận ngày 24 tháng 12 năm 1945 giữa Việt Minh và
hai đảng này, trong đó Việt Cộng tự
nguyện biếu tặng 70 ghế đại biểu quốc hội năm 1946 cho hai đảng, không qua bầu
cử. Thái độ của VM tỏ ra hòa hoãn, kêu gọi lòng yêu nước, đoàn kết
và liên hiệp để cùng nhau chống ngoại xâm nhưng sau lưng họ thực hiện các cuộc
khủng bố ngầm, thủ tiêu lẻ tẻ những địch thủ chính trị và đe dọa những ai không
theo VM. Kết cuộc thảm hại từ sự ngây thơ của các tiền
bối trong Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội
(Việt Cách) trước những thủ đoạn ám toán thâm độc của VM đã đẩy các thành phần
quốc gia vào thế bại vong đến nay vẫn chưa gượng dậy nổi.
Lịch sử Việt Nam từ đó đến nay trải qua nhiều biến
chuyển người quốc gia mỗi khi nói chuyện với Cộng Sản là nhận thêm một lần thất
bại, lần sau đau đớn hơn lần trước. Điều này không có gì là khó hiểu khi người
quốc gia sẵn sàng đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lện bản vị tối thượng sẵn
sàng hy sinh quyền lợi cá nhân, đảng phái cho đại cục ngược lại người Cộng Sản đặt
quyền lợi của đảng cộng sản lên trên hết, nhân danh chủ thuyết phi nhân không
tưởng đấu tranh cho giai cấp, bảo vệ chuyên chính vô sản (giả hiệu) họ sẵn sàng
xuống tay bán đứng, chà đạp tất cả từ tình yêu tổ quốc, tình gia đình, tình phụ
tử, mẫu tử, tình đồng chí, đồng đội, tình dân tộc, nghĩa đồng bào.
Vì thế đã là người quốc gia phải tự hiểu rằng không
người nào, tập thể nào, tổ chức nào hay thế hệ nào được phép đi vào con đường
ngu xuẩn nói chuyện ”hòa giải, hòa hợp” với cộng sản để không những chuốc lấy họa
hại ô nhục cho bản thân, tổ chức mà còn gieo rắc hậu họa cho xã hội nhân quần tỵ
nạn hải ngoại.
Trước 30 – 4- 1975 Hoa Kỳ cứu vớt số người làm thuê ra khỏi
Việt Nam, bám đuôi là nhóm lính tráng, văn võ bá quan thuộc triều đình Nguyễn
VănThiệu tham sống sợ chết tự ý đào ngũ, đào nhiệm chạy theo Hoa Kỳ bỏ mặc Sài
Gòn cho dép râu chà đạp. Vài năm sau
phong trào liều mạng trốn khỏi Việt Nam vì không chịu nổi cuộc sống cơ cực dưới
sự cai trị của Việt Cộng đã chạy trốn điên cuồng tới mức có câu:”Một là con
nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá”.
Chắc chắn Nhật Tiến bước chân xuống tàu tháng 10/1979 cũng không
ngoài nguyện vọng như mọi người vượt biển thời đó. Chính Nhật Tiến đã viết ra: “Sau 30-4-1975, tôi không có cơ hội đi thoát và đã ở lại Việt Nam.Trong
hơn 4 năm trời ròng rã, tôi đã chứng kiến hay đã trải qua khá đầy đủ những hệ lụy
của một con người sống trong cái mô hình xã hội do những người Cộng Sản tạo dựng
nên. Ðấy là một xã hội hoàn toàn mất tự do, đầy dẫy những bất công phi lý và
toàn bộ guồng máy điều hành đất nước đã được đặt trong tay những con người ngu
muội, thiển cận, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và sẵn sàng áp đặt mọi thứ luật lệ bất
công lên đầu các tầng lớp quần chúng để dễ dàng trấn áp. Cho nên cùng với hàng
triệu con người VN khác, tôi đã xuống thuyền đi tìm Tự do !”
Nhưng khi nghe lời “bác Nguyễn Văn
Linh” kêu gọi giới văn nô cộng sản diễn trò phản kháng, ông Nhật Tiến đã
tách khỏi đám đông “hàng triệu con người VN khác“ dùng
lại chiêu bài cũ kỹ xóa bỏ hận thù, chủ xướng giao lưu, hòa giải hòa hợp
với Việt Cộng (chủ yếu là trong đám học làm văn) hợp xướng với đám bút nô vừa
được lệnh dấy lên cao trào đổi mới, cởi mở. Trở mặt miệt thị đám đông hàng triệu
người đi tìm tự do như ông trước đó.
Nếu không phải ra đi
do có nhiệm vụ được giao phó thì việc này rất đáng ngạc nhiên vì chỉ sau vài
năm ở Hoa Kỳ, ông Nhật Tiến đã thay máu, lột xác một cách thần tốc, nhẹ nhàng như
diễn viên hết trò cởi y trang và gỡ bỏ cái mặt nạ “ông Thiện”. Thành quả “bó thân về với triều đình làm hàng
thần lơ láo” ngoài cuốn tuyển tập tai tiếng thất tung, ông Nhật Tiến và Khánh
Trường còn dự định đưa về Việt Nam in một cuốn tuyển tập của những “nhà học làm
văn” ở hải ngoại (35 người) nhưng rốt cuộc chuyện không thành. Lý do Việt Cộng
không cho in, Khánh Trường phải đơn phương xin hủy hợp đồng, tiền đã quyên góp
sau phải trả lại cho đám tập viết, háo danh, thiếu liêm sỉ, đói độc giả.
Tại sao chúng tôi lại nặng lời như vậy vì dưới chế độ có tham
vọng kiểm soát, khống chế cả tư tưởng con người đừng có ảo tưởng cơ quan kiểm
duyệt, cắt xén của Việt Cộng sẽ để lọt qua bất cứ một thông điệp tự do nào đến
với đồng bào, người đọc trong nước. Những con người sính văn chương, yêu tự do sáng
tạo mà bỗng lên cơn “bệnh dại” tự rủ nhau chui đầu vào để cộng sản rọ mõm thì
thật khó mà bảo rằng đó là những người có tri thức.
Cuối cùng Nhật Tiến chỉ được người hải ngoại nhớ tới vì tai
tiếng chủ xướng làm “văn chương đầu hàng” gieo được hai cái mầm ung thư Hợp Lưu
và Văn Học mà ngày nay những người được sang tay đang cố chữa trị, hay cố duy
trì. Chốt lại cả giai đoạn bán mình, vong thân đó chỉ có mình Nhật Tiến được in
chung với Nhật Tuấn, người em ở lại miền Bắc một cuốn sách Quê Nhà Quê Người vào năm 1994.. Nhật Tiến đã không trở về sống ở trong nước để hòa giải, hòa hợp, giao
lưu văn hóa với những người cộng sản. Ông ta chỉ mò về hàng năm như để chứng
minh những toan tính trước đây là viễn kiến. Thật tội nghiệp khi thứ viễn kiến
mù lòa, tráo trở của Nhật Tiến đã bị bóp chết sau một giai đọan ngắn ngủi gần
ba năm. Nhật Tiến đã 80, dân gian ta có câu ”ốm tha- già thải”, tuổi của
ông ta không đáng để bị kéo trở lại để chỉ trích nếu ông đừng tỏ thái độ hung
hăng áp bức người cô thế.
Nếu không vì thái độ vô giáo dục của Michael Bùi con ông ta
khiến chúng tôi nghi ngờ phải xem lại những bài viết về Nhật Tiến chắc không
còn ai nhìn thấy những sự thật đầy nghi vấn về ông ta và cũng chẳng ai cần vạch
trần bản lai diện mục của một con người tráo trở, chủ trương, lĩnh xướng phong
trào “văn chương đầu hàng”.
Đọc “Hồi Ký Trong Những
Năm Tháng Lưu Đầy Trong NgụcTù Cộng Sản” của Duyên Anh, chúng tôi thấy viết
về chuyện bắt bớ các nhà văn miền Nam có đoạn như sau:”Từ 30-4-1975 đến 2-4-1976, cộng sản dành một thời gian khá dài để
tiêu diệt ảnh hưởng của các nhà văn Sàigòn, đồng thời, chờ đợi nơi họ một thái
độ mới thích nghi với chế độ mới. Cộng sản đã thất vọng. Những người có tiếng
tăm, đa số, không thích khước bỏ vinh quang cũ của họ. Họ im lặng.
Chỉ còn bọn cầm bút vớ
vẩn, khờ khạo là lăng xăng trong trụ sở Hội Văn Nghệ Giải Phóng để mưu cầu công
danh, hi vọng chiếm địa vị của đàn anh đã bị khu trừ khỏi sinh hoạt văn nghệ.
Người ta thấy vô số những khuôn mặt “bốn sáu” trên tuần báo Văn Nghệ Giải
Phóng, trên giai phẩm Xuân Tin Sáng với những câu trả lời “phỏng vấn” cộng sản
hơn cả cộng sản. Người ta đọc những bài thơ, những truyện ngắn của “nhà văn
Sàigòn phản tỉnh”! Có cần thiết phải nêu tên họ ra không nhỉ? Với tôi thì
không, mặc dù, trong đám họ, có kẻ vẫn tiêu bạc giả ở Mỹ, ở Pháp, sau khi cộng
tác với cộng sản chán chê đến chán chường, họ đã trốn khỏi Sàigòn.
Đảng chờ đợi nhà văn, nhà thơ Sàigòn đến. Mà nhà văn, nhà thơ Sàigòn
thì cứ lơ lơ láo láo đi giữa đời sống mới, bất chấp mọi sự. Bọn này không sĩ
quan, không viên chức chế độ cũ, không đảng phải, không tư sản mại bản, không
tình báo nên không thể bắt chúng nó đóng 10 ngàn đồng đi trình diện học tập được.
Phải tìm cách bắt chúng nó, phải chụp lên đầu chúng nó một cái tội thật
…”lô-gích”, không phải là tội nhà văn. Trần Bạch Đằng thảo kế hoạch.”
Trong cuốn hồi ký này tác giả liệt kê một bản danh sách khá đầy
đủ các nhà văn miền Nam, từ kẻ còn sống đến người chết. Nhật Tiến không hề được
nhắc đến, nhớ tới, việc này có hai khả năng một là Duyên Anh thấy không đáng để
nhớ tới, hai là Nhật Tiến nằm trong loại Duyên Anh khinh bỉ. Duyên Anh viết nguyên
văn:
” Qua
danh sách này, trừ những nhà văn, nhà báo di tản trước 30-4-1975, và trừ những
nhà văn ngàn đời không chính kiến, người đọc sẽ có 2 câu hỏi:
1. Tại sao một số khuôn mặt văn nghệ sừng sỏ cỡ tác giả “Bão
thời đại” không hề bị bắt mà còn được leo lên máy bay … vượt biên?
2. Tại sao một số khuôn mặt văn nghệ có giải thưởng đã
không bị bắt mà còn được cộng tác với văn nghệ của chế độ mới? “
Nhật Tiến có lẽ nằm theo nhóm thuộc câu hỏi số 2..
Hon hai mươi lăm năm trước đã có nhiều người chỉ trích, thậm
chí rất nặng lời với Nhật Tiến. Cuộc chiến ngôn ngữ giữa đôi bên nặng mùi uế tạp
nhưng bất kể hai bên đã sử dụng những thủ pháp nào vẫn chỉ có một sự thật đọng
lại là có những thành phần núp bóng quốc gia “trốn đói” đến Hoa Kỳ đã đón gió,
trở cờ kêu gọi giao lưu, hòa giải – hòa hợp với bọn bút nô, thợ viết cộng sản
ngay khi đảng cộng sản Việt Nam chủ trương đổi mới, cởi mở để tìm biện pháp cứu
đảng. Nhật Tiến không hề chối bỏ chủ trương của ông ta qua những lần sắp xếp
dàn dựng trò phỏng vấn.
Bà Thụy Khê đã viết :”
Trong mười ba năm ở hải ngoại, ông đã chắn mũi chịu sào, mở luồng cho tư tưởng xoá bỏ hận thù, để mọi người – bên này cũng
như bên kia – xích lại gần nhau. Và ở thời điểm này – mười bảy năm sau ngày thống
nhất đất nước – việc đối thoại giữa người Việt với người Việt vẫn chưa phải là
chuyện hiển nhiên – mà còn phải qua nhiều khó khăn, thử thách…
và đặt câu hỏi như sau
:
“Thụy Khuê: – Anh là người tha thiết, muốn thực hiện giao lưu văn hóa bằng
thực chất của vấn đề. Nghĩa là
muốn các tác phẩm viết ở hải ngoại được in ở trong nước và ngược lại những tác
phẩm viết trong nước được in ở hải ngoại.
Anh đã làm việc đó với họa sĩ Khánh Trường và một số bạn văn khác. Xin
anh kể lại quá trình của công việc ấy.”………….
Trong một cuộc phỏng vấn
khác vào năm 1995
Vị Giang cũng đặt ra
câu hỏi: Theo tôi được
biết thì nhiều người chống đối anh vì anh có chủ trương giao lưu văn hóa. Thực sự anh quan niệm thế nào về chủ
trương đó ?..........
Nhật Tiến trả lời :
Một cách tổng quát, giao lưu văn
hóa không có nghĩa là thỏa hiệp với cường quyền hay bạo lực để tiếp tục kéo dài
mãi tình trạng bi thảm trên quê hương. Giao lưu văn hóa cũng không phải là là một
sự kết hợp bừa bãi giữa tất cả mọi người ai cũng tự cho mình là kẻ cầm bút. Thực
chất của sự giao lưu thật ra sẽ không có chỗ cho những ngòi bút vẫn còn tiếp tục
ca ngợi bạo lực hay thỏa hiệp với bạo lực. Nó cũng không có chỗ cho những ngòi
bút tiếp tục khơi mãi vết thương đau của dân tộc mà không cho thấy một lối
thoát nào có thể coi là con đường thích đáng nhất đem lại được sự hàn gắn vết
thương mà không phí phạm thời gian. Giao lưu văn hóa do đó là sự chấp nhận cùng
là bạn đồng hành của những người làm văn hóa, không phân biệt quá khứ hay điều
kiện địa dư, miễn là họ biết cùng nhìn về một hướng trong mục tiêu tối hậu là
khôi phục lại được tất cả giá trị nhân bản của con người và những giá trị cổ
truyền của dân tộc……..
…….
Câu trả lời của Nhật Tiến cho thấy lập luận của ông ta là một
cách ngụy biện quá ấu trĩ. Nhật Tiến cho rằng ông ta và bầy đàn ngu dốt nghe
theo ông ta chỉ giao lưu với những người trong “cái gọi là cao trào phản kháng”
chứ không thỏa hiệp với cường quyền hay bạo lực. Sự thực những người mà Nhật Tiến
sùng bái thiết tha được giao lưu đó vẫn chỉ là những con robots, những con chó
canh giữ “nền văn hóa, văn học mang tính đảng, tính giai cấp” vừa mới được cởi
xích, tháo rọ mõm để làm công việc theo mệnh lệnh của đảng và nhà nước Cộng Sản
để tìm cách cứu đảng. Lý luận của Nhật Tiến chẳng khác gì đứa trẻ muốn vào vườn
nhà hàng xóm bị chủ nhà đuổi đi, ra đến ngoài đường thấy một vài con chó của chủ
nhà vẫy đuôi sủa khống vội vã cho rằng đã giao lưu được với ..mấy con chó…của chủ
nhà.
Thật ra dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đánh mất tình tự dân tộc
nên không cần gì phải kêu gọi hòa giải, hòa hợp. Tất cả mọi cuộc chiến tranh chấp
vương quyền giữa các giòng họ trong lịch sử sau khi kết thúc không hề lưu lại hận
thù trong lòng dân tộc. Thời đại mù quáng vừa qua là cuộc chiến đầu tiên để lại
hậu quả tai hại ảnh hưởng đến tương lai phát triển của đất nước vì sự đụng độ
giữa chủ thuyết cộng sản phi nhân với chủ nghĩa tam dân bị các thế lực quốc tế giật
dây tạo ra những tập đoàn tay sai đắc lực để tiến hành “cuộc chiến tranh ủy nhiệm”
còn gọi là “chiến tranh ý thức hệ” đến khi kết thúc còn để lại hận thù tư tưởng
sâu sắc trong lòng dân tộc.
Muốn lòng người quy về một mối điều quan trọng nhất là phải vận
động toàn dân rũ bỏ óc nô lệ vọng ngoại, loại trừ tận gốc những chủ thuyết độc
hại nhất là chủ nghĩa cộng sản, giải thể đảng cộng sản trả lại quyền quyết định
vận mệnh đất nước cho dân tộc chứ không phải những trò hề nhân danh bừa bãi để
thêm một lần hạ nhục những người đã quyết không chấp nhận sống dưới sự cai trị
của bọn cộng sản phi nhân. Lịch sử nằm trong giòng chảy của thời gian, con người
không thể vượt qua được quy luật đào thải. Bạo quyền cộng sản không thể thoát ra
ngoài sự tác động của quy luật và nhân tâm.
Trong thời điểm hiện nay, người Việt tỵ nạn ở hải ngoại hầu
như đã về thăm quê hương, bản quán đến hơn 95% . Người Việt ở hải ngoại vẫn sẵn
sàng cứu trợ thiên tai, lụt lội, vẫn giúp đỡ
xây dựng trường học, chùa chiền, giáo đường, thánh thất ở Việt Nam, vẫn
lưu tâm đến mọi hiện tượng xã hội ở Việt Nam, vẫn lo lắng cho sự tồn vong của
dân tộc và tổ quốc Việt Nam những hiện tượng đó cho thấy người Việt ở hải ngoại
và quốc nội vẫn hòa hợp trong tình tự dân tộc. Nhưng chắc chắn không người Việt
tỵ nạn nào muốn hòa giải , hòa hợp với tập đoàn Mafia độc tài toàn trị hiện nay
ngoài một thiểu số cầu lợi. Điều đó cho
thấy những lời kêu gọi hòa giải hòa hợp, giao lưu với Đảng và Nhà Nước Cộng Sản
Việt Nam do những tên hoạt đầu, phản bội đưa ra chẳng qua chỉ là khẩu hiệu tự
ve vuốt, lương tâm để quỳ gối, hôn chân Việt Cộng nhẳm mưu cầu danh lợi hão huyền.
Kim Âu
Jan 7/2017
Comments
Post a Comment